BÀN VỀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM
Thị trường tiền tệ là một bộ phận của thị trường tài chính, là thị trường vốn ngắn hạn (có thời hạn dưới 1 năm). Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các Tổ chức tín dụng (sửa đổi) cho phép các giấy tờ có giá dài hạn được giao dịch trên thị trường tiền tệ còn giúp cho thị trường tiền tệ đóng vai trò là thị trường thứ cấp của các công cụ nợ dài hạn. Với sự tham gia của Chính phủ, Ngân hàng Trung ương, các trung gian tài chính, thị trường tiền tệ......
BÀN VỀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ Ở VIỆT
NAM
Phát triển đồng bộ các loại thị trường, trong đó có thị trường tài chính và thị trường tiền tệ
là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước được thể hiện trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9
BCH Trung ương Đảng khóa IX, Chương trình hành động của Chính phủ và của ngành Ngân
hàng. Điều này càng trở nên cấp thiết hơn khi Việt Nam đang tiến gần đến hội nhập với khu
vực và thế giới, như AFTA, Hiệp định thương mại Việt - Mỹ và dự kiến tham gia WTO vào
năm 2005. Để đưa những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước sớm đi vào cuộc sống, góp
phần phát triển kinh tế đất nước, trong phạm vi bài viết này là một số nội dung bàn về thị
trường tiền tệ và những giải pháp phát triển thị trường tiền tệ hiện nay ở Việt Nam.
Thị trường tiền tệ là một bộ phận của thị trường tài chính, là thị trường vốn ngắn hạn (có
thời hạn dưới 1 năm). Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các Tổ chức tín dụng (sửa
đổi) cho phép các giấy tờ có giá dài hạn được giao dịch trên thị trường tiền tệ còn giúp cho thị
trường tiền tệ đóng vai trò là thị trường thứ cấp của các công cụ nợ dài hạn. Với sự tham gia
của Chính phủ, Ngân hàng Trung ương, các trung gian tài chính, thị trường tiền tệ được đánh
giá là thị trường có độ an toàn cao và là thị trường bán buôn hữu hiệu. Thị trường tiền tệ
được biết đến như là một thị trường phi tập trung, sôi động và mang tính toàn cầu. Các giao
dịch trên thị trường tiền tệ thường có thời hạn ngắn và rất ngắn, đặc biệt thị trường cho vay
qua đêm rất phát triển và chiếm một tỷ trọng đáng kể trong doanh số hoạt động của thị
trường tiền tệ. Khởi nguồn từ hoạt động cho vay/đi vay giữa các ngân hàng, thị trường tiền tệ
ngày càng phát triển đa dạng và linh hoạt. Với mục tiêu ban đầu là thị trường để bảo đảm
khả năng thanh khoản của các trung gian tài chính, thị trường tiền tệ đã phát triển trở thành
thị trường đầu tư vốn ngắn hạn, thị trường kinh doanh chênh lệch giá, thị trường của các
công cụ phòng ngừa rủi ro (heging) và các thị trường phái sinh. Thị trường tiền tệ là thị
trường hết sức nhạy cảm với những sự kiện biến động về kinh tế, chính trị, xã hội vì vậy nó
được coi như là thước đo của nền kinh tế.
Dễ dàng nhận ra một điều là thị trường tài chính nói chung và thị trường tiền tệ nói riêng
của Việt Nam chưa phát triển. Sự chưa phát triển của thị trường tiền tệ Việt Nam thể hiện ở
chỗ: Các công cụ giao dịch trên thị trường còn nghèo nàn và khối lượng giao dịch còn hạn
chế; thị trường thứ cấp các công cụ giao dịch của thị trường gần như là chưa có, hoạt động
của thị trường sơ cấp còn hạn chế, thị trường chưa thu hút được đông đảo các thành viên
tham gia và chưa thể hiện được tính chuyên nghiệp của thị trường.
Một số nguyên nhân làm cho thị trường tiền tệ của Việt Nam chưa phát triển
Thứ nhất, sự hoạt động hiệu quả thấp của thị trường vốn. ở các nước thị trường phát triển
thì huy động vốn thông qua việc phát hành cổ phiếu và các công cụ nợ dài hạn phải đáp ứng
trên 60% nhu cầu vốn đầu tư của nền kinh tế. Việt Nam với tốc độ tăng trưởng GDP liên tục
nhiều năm đạt mức trên 7% đòi hỏi một khối lượng vốn đầu tư rất lớn, trong khi đó huy động
thông qua thị trường chứng khoán hầu như không đáng kể; gánh nặng về vốn đầu tư đổ dồn
lên vai các ngân hàng với tư cách là các trung gian tài chính, đi vay để cho vay. Nói cách
khác, áp lực về vốn tín dụng đầu tư đối với các ngân hàng thương mại là rất lớn và các ngân
hàng nhận thấy rằng việc đầu tư vào thị trường tín dụng hiệu quả hơn nhiều so với đầu tư
thông qua các công cụ trên thị trường tiền tệ. Điều này hoàn toàn khác với các nước có nền
kinh tế thị trường phát triển, đó là hầu hết các doanh nghiệp lớn, làm ăn có hiệu quả đều lựa
chọn việc huy động vốn thông qua việc phát hành cổ phiếu và các trái phiếu công ty, vì chi
phí rẻ và doanh nghiệp chủ động hơn là vay tín dụng ngân hàng. Các ngân hàng chỉ có thể
tiếp cận được với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chưa có “thương hiệu” trên thị trường; tuy
nhiên, việc cho vay với các đối tượng khách hàng loại này là rủi ro rất cao; vì vậy, các ngân
hàng phải cân nhắc và họ thích đầu tư vào thị trường tiền tệ hơn. Sự thiếu quan tâm tới các
“sản phẩm” trên thị trường tiền tệ vì cho rằng không hiệu quả bằng đầu tư vào thị trường tín
dụng của các ngân hàng là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự hoạt động trầm
lắng của thị trường tiền tệ trong thời gian qua.
Các ngân hàng thương mại là những trung gian tài chính rất quan trọng trên thị trường tài
chính nói chung và thị trường tiền tệ nói riêng, bởi vì các ngân hàng thương mại có khả năng
tài chính lớn, phạm vi hoạt động rộng và đưa ra các “sản phẩm dịch vụ ” thoả mãn được nhu
cầu đa dạng của thị trường. Các ngân hàng thương mại thường đóng vai trò là những người
tạo lập thị trường (market maker), cụ thể là phải thường xuyên yết giá 2 chiều của tất cả các
công cụ của thị trường. Tuy nhiên, các ngân hàng thương mại Việt Nam chưa làm được điều
này. Ngay thị trường vốn ngắn hạn liên ngân hàng là thị trường hoạt động tích cực nhất hiện
nay thì các ngân hàng tham gia cũng nhằm đáp ứng mục tiêu bảo đảm thanh khoản là chủ
yếu (chưa đặt vấn đề kinh doanh chênh lệch giá trên thị trường này). Vì vậy, các ngân hàng
cũng thường chỉ đặt giá 1 chiều (vay hoặc đi vay) khi có nhu cầu phát sinh. Vai trò tạo lập thị
trường của các ngân hàng thương mại Việt Nam còn rất mờ nhạt.
Thứ hai, sự thiếu chuyên nghiệp trong hoạt động của thị trường tiền tệ. Sự thiếu chuyên
nghiệp thể hiện ở chỗ các công cụ của thị trường không theo những quy chuẩn của thị
trường. Hiện nay, trên thị trường tiền tệ Việt Nam đã hình thành một số “hàng hoá” nhất định,
có thể tham gia giao dịch như tín phiếu, trái phiếu Kho bạc Nhà nước; giấy tờ có giá của các
ngân hàng thương mại; trái phiếu của chính quyền địa phương (Tp. Hồ Chí Minh), trái phiếu
doanh nghiệp (Tổng Công ty dầu khí) và tín phiếu của Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên, khối
lượng các công cụ có thể giao dịch được trên thị trường không lớn và chưa đáp ứng được yêu
cầu của thị trường. Để thị trường thứ cấp giao dịch giấy tờ có giá phát triển đòi hỏi các thủ
tục mua - bán, trao đổi phải hết sức đơn giản, thuận tiện trong khi đó phần lớn các giấy tờ có
giá hiện nay đều là các giấy tờ có giá ghi danh. Những tín phiếu, trái phiếu vô danh chiếm
một tỷ trọng rất nhỏ vì thế gây ra sự bất tiện khi giao dịch trên thị trường. Mặt khác, thời hạn
của các giấy tờ có giá đơn điệu và phụ thuộc chủ yếu vào nhu cầu vốn của người phát hành.
Tín phiếu kho bạc là một ví dụ điển hình: Bộ Tài chính trong những năm qua chủ yếu phát
hành loại tín phiếu kho bạc có thời hạn là 364 ngày, vì thế không thể căn cứ vào lãi suất tín
phiếu kho bạc để xác định đường cong lãi suất chuẩn của thị trường. Sự thiếu tính chuyên
nghiệp của thị trường tiền tệ Việt Nam còn thể hiện ở chỗ thiếu những nhà tạo lập thị trường,
những tổ chức trung gian trên thị trường như các nhà kinh doanh chuyên nghiệp, các công ty
môi giới, những công ty xếp hạng tín dụng… Người kinh doanh chuyên nghiệp và tạo lập thị
trường là những người được yêu cầu phải yết giá mua và giá bán của tất cả các công cụ
đang giao dịch trên thị trường, nói cách khác, họ phải mua của những người cần bán và bán
cho những người cần mua trên thị trường và được hưởng chênh lệch giá. Tuy nhiên, ở Việt
Nam, các ngân hàng chưa làm tốt vai trò này, nhiều ngân hàng phát hành các kỳ phiếu có
cam kết sẽ mua lại trước hạn và coi đó như là sự “ưu việt” của kỳ phiếu của ngân hàng mình
còn hầu hết người chủ sở hữu các giấy tờ có giá có nhu cầu tạm thời về vốn phải đi vay có
thế chấp bằng các kỳ phiếu, trái phiếu, sổ tiết kiệm… mà mình đang nắm giữ với thủ tục rất
phức tạp. Do chủ sở hữu các công cụ của thị trường khi cần vốn không biết bán ở chỗ nào
cho nên đã phản ứng tiêu cực lại đối với thị trường sơ cấp phát hành ra các công cụ đó. Vào
thời điểm giữa năm 2003, trong khi hầu hết các ngân hàng đều thực hiện việc tăng lãi suất
như là đòn bẩy kinh tế để mở rộng huy động vốn, tuy nhiên,l vẫn không thu hút được nguồn
vốn trung dài hạn mà lý do là những người đầu tư không dám “mạo hiểm” đầu tư vào các
công cụ có thời hạn dài mà khi cần vốn họ không thể bán lại được trên thị trường.
Thứ ba, các văn bản pháp lý cho hoạt động của thị trường tiền tệ chưa đồng bộ. Có thể
nói, các nội dung cơ bản của thị trường tiền tệ đều đã được luật pháp hoá, cụ thể là ở các
mức độ khác nhau (Luật, Pháp lệnh, Nghị định, Quy chế, Thông tư…), chúng ta đã ban hành
các quy định đối với hoạt động của thương phiếu; phát hành tín phiếu và trái phiếu Chính
phủ, phát hành kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu của các tổ chức tín dụng, quy định về quan hệ
tín dụng giữa các tổ chức tín dụng… Tuy nhiên, các quy định này còn nhiều bất cập và chưa
đồng bộ. Mặc dù Pháp lệnh Thương phiếu đã ban hành từ năm 1999, Chính phủ và Ngân
hàng Nhà nước đã có Nghị định và các văn bản hướng dẫn, tuy nhiên cho đến nay các quy
định này vẫn chưa đi vào cuộc sống. Tín phiếu kho bạc là một công cụ tài chính rất được ưa
chuộng giao dịch trên thị trường tiền tệ; tuy nhiên, hiện nay việc phát hành tín phiếu kho bạc
chủ yếu với mục đích bù đắp thiếu hụt của Ngân sách Nhà nước mà chưa chú trọng đến vai
trò thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển của nó, cho nên hiện nay, Bộ Tài chính chỉ phát hành
một loại kỳ hạn 364 ngày là chủ yếu (ở nhiều quốc gia, ví dụ Singapore, mặc dù Ngân sách
luôn bội thu nhưng Trái phiếu Chính phủ vẫn được phát hành với khối lượng lớn, thời hạn đa
dạng để phục vụ cho hoạt động của thị trường tiền tệ).
Thứ tư, xuất phát điểm thấp của nền kinh tế và công tác thông tin tuyên truyền cho các
sản phẩm của thị trường tiền tệ chưa đáp ứng được yêu cầu. Xuất phát điểm từ một nền sản
xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội, lại trải qua một thời gian dài trong cơ chế kế hoạch hoá tập
trung, cho nên cơ sở hạ tầng cũng như nhận thức của công chúng về nền kinh tế thị trường,
đặc biệt là thị trường tài chính - thị trường tiền tệ còn rất hạn chế. Đơn cử ví dụ, hình thức gửi
tiền truyền thống của dân chúng hiện nay vẫn là gửi tiết kiệm tại các ngân hàng thương mại
và giữ đến khi đáo hạn để hưởng lãi; Đa phần người dân chưa có thói quen mua các công cụ
nợ (như tín phiếu, trái phiếu) và mua bán lại các công cụ nợ đó trên thị trường. Vì vậy, muốn
thị trường tiền tệ phát triển thì đòi hỏi các đơn vị có liên quan (đặc biệt là hệ thống ngân
hàng) phải tích cực thông tin, tuyên truyền, quảng cáo về các tiện ích của các giao dịch trên
thị trường tiền tệ. Trong thời gian qua, do các ngân hàng chưa quan tâm đúng mức đến hoạt
động của thị trường tiền tệ; vì vậy, công tác thông tin, tuyên truyền còn hạn chế; thị trường
giao dịch giữa khách hàng với các ngân hàng không phát triển, dẫn đến thiếu cơ sở vững
chắc cho thị trường giữa các trung gian tài chính.
Những giải pháp phát triển thị trường tiền tệ
Để thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển cần có sự phối hợp chặt chẽ của các ngành, các
cấp đồng thời thực hiện đồng bộ các giải pháp sau đây:
Một là, chuẩn hoá các công cụ giao dịch trên thị trường tiền tệ: Để thị trường thứ cấp phát
triển thì một mặt, phải tạo nên nhiều “hàng hoá” đồng thời phải chuẩn hoá các công cụ tài
chính trên thị trường. Trong thời kỳ đầu, cần phải tăng cường việc phát hành các giấy tờ có
giá dưới dạng chứng chỉ để công chúng nắm giữ (sau này khi thị trường đã phát triển thì có
thể phát hành thông qua ghi sổ tại ngân hàng). Các giấy tờ có giá này phải bảo đảm lưu
thông một cách dễ dàng, điều này đồng nghĩa với việc các giấy tờ có giá này phải không ghi
danh và có thể chuyển nhượng, chiết khấu, thanh toán một cách dễ dàng (như vậy các giấy
tờ có giá này sẽ phải được thiết kế an toàn giống như tiền). Ngoài ra, thời hạn của các giấy
tờ có giá này phải đa dạng để đáp ứng nhu cầu của thị trường (nhất là tín phiếu kho bạc và
các chứng chỉ tiền gửi của ngân hàng).
Để phát triển thị trường tiền tệ và thị trường tài chính, đề nghị Bộ Tài chính xem xét phát
hành tín phiếu, trái phiếu kho bạc thêm nhiều loại kỳ hạn, như 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9
tháng… (Kho bạc Mỹ thường công bố kế hoạch đấu thầu tín phiếu, trái phiếu kho bạc hằng
năm, với thời hạn từ 4 tuần đến 10 năm).
Hai là, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của thị trường tiền tệ: Hoàn thiện
khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của thị trường tiền tệ cần tập trung vào các nội dung sau:
- Rà soát và hoàn thiện các quy định hiện hành về phát hành các công cụ trên thị trường
sơ cấp như phát hành thương phiếu, các chứng chỉ tiền gửi của các ngân hàng thương mại;...
- Xây dựng và hoàn thiện các quy định liên quan tới các nghiệp vụ của thị trường tiền tệ,
xây dựng các định chế chuyên nghiệp cho thị trường như các văn bản hướng dẫn liên quan
đến nghiệp vụ chiết khấu, REPO, nghiệp vụ hoán đổi… để các ngân hàng thương mại thực
hiện; quy trình thành lập các định chế tài chính trung gian trên thị trường (Broker, Dealer…).
- Khuyến khích các ngân hàng xây dựng các thoả thuận khung (có thể trong khuôn khổ
của Hiệp hội Ngân hàng) để làm cơ sở thực hiện các giao dịch trên thị trường tiền tệ, như
quy định về hợp đồng mẫu REPO, các thoả thuận về thanh toán bù trừ các giấy tờ có giá do
các ngân hàng phát hành; thoả thuận chia sẻ thông tin và liên kết mạng …
Ba là, nâng cao vai trò của các ngân hàng thương mại trên thị trường tiền tệ, như là những
người tạo lập thị trường.
Trên cơ sở các công cụ tài chính được quy chuẩn giao dịch trên thị trường, các ngân hàng
thương mại (đặc biệt là các ngân hàng thương mại Nhà nước, các ngân hàng TMCP quy mô
lớn) phải đóng vai trò là các tổ chức tạo lập thị trường; cụ thể là:
- Phải quan tâm và dành một nguồn vốn nhất định để tham gia trên thị trường tiền tệ và
đưa ra nhiều “sản phẩm” để đáp ứng nhu cầu về vốn, đầu tư, phòng ngừa rủi ro của thị
trường, như chiết khấu các giấy tờ có giá, các hợp đồng REPO, các hợp đồng SWAPS,
Option…
- Phải niêm yết giá chào 2 chiều (cả cho vay và đi vay) trên thị trường liên ngân hàng và
sẵn sàng thực hiện các giao dịch theo các mức lãi suất đã niêm yết.
- Phải niêm yết lãi suất chiết khấu; giá mua, giá bán các giấy tờ có giá công khai tại các
hội sở và chi nhánh của ngân hàng và thực hiện giao dịch theo các mức giá đã được niêm yết
đó. Đối với các trái phiếu do ngân hàng phát hành, phải cam kết sẽ chiết khấu (mua lại) trước
hạn theo mức lãi suất chiết khấu của ngân hàng tại thời điểm chiết khấu.
- Thực hiện việc liên kết giữa các ngân hàng trong việc sẵn sàng chiết khấu các giấy tờ có
giá do các ngân hàng khác phát hành; hoặc tổ chức thanh toán bù trừ về nghiệp vụ này.
- Nâng cao vai trò người cho vay cuối cùng của Ngân hàng Nhà nước, thông qua nghiệp
vụ thị trường mở và nghiệp vụ cho vay qua đêm đối với các ngân hàng.
Bốn là, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng để phục vụ cho các giao dịch trên thị trường
tiền tệ và thu thập xử lý thông tin của thị trường.
Các giao dịch trên thị trường tiền tệ đòi hỏi phải thực hiện nhanh và trên phạm vi rộng
(toàn cầu) vì vậy đòi hỏi việc chào giá, thoả thuận và thực hiện giao dịch phải thông qua hệ
thống mạng có độ an toàn cao. Hiện nay, gần 30 ngân hàng thương mại đã thực hiện giao
dịch vốn (gửi tiền/cho vay và nhận tiền gửi/ đi vay) liên ngân hàng thông qua hệ thống giao
dịch của Hãng Reuters.
Tuy nhiên, do thông tin (lãi suất, thời hạn…) trên thị trường liên ngân hàng rất quan trọng
đối với Ngân hàng Trung ương trong việc điều hành chính sách tiền tệ quốc gia cho nên ở
các nước có thị trường phát triển thì Ngân hàng Trung ương thường xây dựng các mạng riêng
của mình (như Fed Wire của Mỹ; BOK Wire của Hàn Quốc…) và cho phép các ngân hàng
thực hiện các giao dịch vốn ngắn hạn liên ngân hàng thông qua mạng này. Việc hình thành
mạng này có vai trò tích cực đối với hoạt động của thị trường vì thông qua việc cho phép các
ngân hàng giao dịch qua mạng này, Ngân hàng Trung ương có thể nắm bắt được đầy đủ các
thông tin về thị trường và thực hiện vai trò kiểm soát thị trường của mình. Đối với các ngân
hàng thì giao dịch qua mạng của Ngân hàng Trung ương sẽ tiết kiệm được chi phí (nhiều
nước Ngân hàng Trung ương còn miễn phí giao dịch thông qua mạng này) so với thuê của
các tổ chức khác. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu để đầu tư một thiết bị mạng
tương tự.
Ngoài ra, cần phải thu thập, phân tích và công bố các chỉ số cơ bản của thị trường để
công chúng và các định chế tài chính tham khảo. Trong các thông số đó thì lãi suất giao dịch
bình quân trên thị trường liên ngân hàng là một thông số quan trọng để đánh giá sự biến
động của thị trường. Hiện nay, Hãng Reuters đã xây dựng được trang lãi suất giao dịch bình
quân trên thị trường liên ngân hàng ở Việt Nam (VNIBOR) trên cơ sở chào giá hằng ngày của
một số ngân hàng. Tuy nhiên, trong thực tế lãi suất này ít được tham chiếu vì nó chưa phản
ánh chính xác lãi suất của thị trường vì vậy cần phải tổ chức lại cho phù hợp hơn.
Năm là, tăng cường công tác thông tin tuyên truyền, đào tạo cán bộ phục vụ cho hoạt
động của thị trường tiền tệ.
Các nghiệp vụ của thị trường tiền tệ là các nghiệp vụ rất mới mẻ đối với công chúng và
cả các ngân hàng. Vì vậy, các ngân hàng cần phải tăng cường công tác thông tin, tuyên
truyền, quảng cáo để các khách hàng biết được những tiện ích mang lại khi họ tham gia các
nghiệp vụ này. Đối với các ngân hàng thì việc đào tạo, bồi dưỡng các cán bộ có trình độ về
chuyên môn, ngoại ngữ để thực hiện kinh doanh trên thị trường tiền tệ trong nước và quốc tế
là hết sức quan trọng, đảm bảo hoạt động hiệu quả và thành công của ngân hàng trên thị
trường tiền tệ.
Tạ Quang Khánh