Bài toán năng lực cạnh tranh
Thực ra, cạnh tranh không phải là một vấn đề. Năng lực cạnh tranh yếu mới là một vấn để đáng bàn. Năng lực cạnh tranh yếu có thể do nhiều nguyên nhân gây ra.
Bài toán năng lực cạnh tranh
Trong những món "quà Tết” mà năm 2007 ban tặng cho chứng ta có một thứ mang tính
chất hai mặt. Cái thứ mang tính chất hai mặt đó chính là cạnh tranh - cạnh tranh trên
phạm vi toàn cầu và cạnh tranh ngay tại sân nhà của chúng ta. Cạnh tranh là một thách
thức, nhưng đồng thời cũng là một cơ hội. Thách thức là vì chúng ta phải đấu nhau với
cả những "gã khổng lồ" có tiềm lực to lớn và có kinh nghiệm đầy mình. Cơ hội là vì
chúng ta có được một sức ép lành mạnh để vươn lên. Không có sức ép, chắc gì chúng
ta đã chịu từ bỏ cách nghĩ, cách làm cũ.
Thực ra, cạnh tranh không phải là một vấn đề. Năng lực cạnh tranh yếu mới là một
vấn để đáng bàn. Năng lực cạnh tranh yếu có thể do nhiều nguyên nhân gây ra.
Có những nguyên nhân nằm ở cái sự "trẻ người, non dạ” của nền kinh tế thị trường
mà chứng ta đang trong quá trình xây đựng. Ví dụ, phần lớn trong hơn 200.000 doanh
nghiệp tư nhân của nước ta vừa mới được hình thành sau khi Luật Doanh nghiệp ra
đời cách đây chưa đến chúc năm. Mà như vậy, thì các doanh nghiệp tư nhân, chủ thể
quan trọng hàng đầu của kinh tế thị trường, nói chung đều khá nhỏ bé, năng lực tài
chính thấp, kinh nghiệm kinh doanh chưa nhiều. Đó là chưa nói tới các truyền thống
kinh doanh cha truyền con nối đã bị đứt đoạn và mới chỉ được chắp nối một phần.
Những nguyên nhân như vậy chỉ có thể khắc phục được trong quá trình phát triển tiếp
theo và qua chọn lọc tự nhiên của thị trường. Mọi sự "quá trẻ” đều chỉ là vấn đề của
thời gian.
Có những nguyên nhân nằm ở cơ chế . Ví dụ thứ nhất, các doanh nghiệp Nhà nước
thường vừa bị thiếu động lực chú sớ hữu, vừa bị gò bó bới những quy định lỗi thời
chậm được thay đổi, làm cho chúng thường rất kém hiệu năng. Ví dụ thứ hai, hệ
thống hành chính giải quyết công việc chậm chạp, phiền hà làm tăng các chi phí không
đáng có cả về mặt thời gian lẫn về mặt tài chính cho các doanh nghiệp. Ví dụ thứ ba,
các đầu tư công kém hiệu quả làm cho hệ thống cơ sở hạ tầng không phát huy được
tác dụng (hoặc ít phát huy tác dụng) trong việc hỗ trợ nền kinh tế... Để loại bỏ những
nguyên này điều cần thiết là phải đẩy nhanh qúa trình cổ phần hoá các doanh nghiệp
Nhà nước và tiến hành những cải cách sâu rộng về pháp luật và thể chế.
Có những nguyên nhân nằm ở mối quan hệ lao động. Các tranh chấp lao động xảy ra
thường xuyên có thể làm hỏng môi trường kinh doanh và cơ hội làm ăn của nhiều
doanh nghiệp. Điều quan trọng ở đây là phải hình thành một văn hoá đối thoại giữa
những người lao động với những người sử dựng lao động, hoàn thiện cơ chế giải
quyết tranh chấp lao động trên cơ sở thương thuyết và mặc cả. Muốn vậy tổ chức
công đoàn phải mạnh và phải gắn bó với những người công nhân cả về quyền lợi và
trách nhiệm. Chính quyền khó có thể áp đặt cách giải quyết của mình cho mọi cuộc
tranh chấp lao động, nhưng có thể báo đảm một môi trường lao động lành mạnh và
các khuôn khố pháp lý để dẫn dắt hành vi cho cá hai bên tranh chấp nhằm tránh xung
đột và đổ vỡ.
Cuối cùng, có những nguyên nhân nằm ở hệ thống giáo đục và đào tạo. Tình trạng
thừa thầy, thiếu thợ, tình trạng có bằng cấp nhưng không có kiến thức và kỹ năng
phản ánh những bất cập rất lớn về nguồn nhân lực mà chúng ta đang có. Trong lúc đó,
cỗ máy đào tạo vẫn tiếp tục chạy theo quán tính và tiếp tục cho "ra lò" những sản
phẩm mà thị trường ít có nhu cầu. Điều này bắt buộc nhiều doanh nghiệp phải tổ
chức đào tạo lại nhưng người đã qua đào tạo. Rõ ràng chúng ta đang chi phí hai lần cả
về thời gian và cả về tài chính cho một việc. Mà như vậy thì năng lực cạnh tranh của
cả quốc gia là không thể cao. Cải cách hệ thống giáo dục và đào tạo theo đòi hỏi của
thị trường lao động là rất cần thiết để loại bỏ những nguyên nhân loại này.
Cuối cùng, với món quà cạnh tranh, chúng ta không thể không cám ơn hội nhập. Tuy
nhiên, sau ơn huệ, điều quan trọng phải làm ngay là xây dựng và triển khai một chiến
lược toàn điện để nâng cao năng lực canh tranh.