logo

Bài luận về triết học - Tự do và tất yếu

Tự do không phải là thuật ngữ xa lạ, càng không phải một phát hiện bởi nó gắn liền với con người như một công cụ để tồn tại, để sống và để phát triển. Tuy nhiên, đối với con người, tự do vẫn phần nào bí ẩn. Riêng bản thân tôi đối với phạm trù “ tự do ” thật sự, đang rất mơ hồ, và chưa nhận thức trọn vẹn về nó, càng chưa biết khai thác và sử dụng nó như một công nghệ phát triển....
TiÓu luËn TriÕt häc – Chñ ®Ò “ Tù do vµ tÊt yÕu ”- GVHD - TS. Bïi V¨n Dòng. Bμi luËn vÒ triÕt häc. Chñ ®Ò: tù do vμ tÊt yÕu. Gi¸o viªn d¹y: ts. Bïi v¨n dòng. Häc viªn thùc hiÖn: nguyÓn h¶I thμnh - Líp triÕt 1 - ch17 - ppgd vËt lý. tù do vμ TÊt yÕu. Tự do không phải là thuật ngữ xa lạ, càng không phải một phát hiện bởi nó gắn liền với con người như một công cụ để tồn tại, để sống và để phát triển. Tuy nhiên, đối với con người, tự do vẫn phần nào bí ẩn. Riêng bản thân tôi đối với phạm trù “ tự do ” thật sự, đang rất mơ hồ, và chưa nhận thức trọn vẹn về nó, càng chưa biết khai thác và sử dụng nó như một công nghệ phát triển. Những gì tôi viết sau đây, có thể, khi đọc rồi, bạn sẽ khen tôi viết hay, nhưng cũng có thể, đọc xong bạn lại cho rằng rất dở, chẳng qua chỉ là sự sao chép đơn thuần trong thời đại bùng nổ thông tin. Có thể lắm chứ, “ tự do ngôn luận mà”. Cũng như tôi, luôn cho rằng “ C. Mác và Lênin không thể bằng tôi được”, nói thế mọi người đừng cười, bởi vì tôi biết “ C. Mác và Lênin thì quá vĩ đại ”, còn tôi “thì lại quá tầm thường”. Chính vì thế, dẫu biết rằng thời kỳ Khai sáng đã đánh dấu một bước ngoặt không chỉ trong lịch sử triết học mà còn trong nhận thức của con người. Các học giả của thời kỳ ấy không phải những người đầu tiên bàn về tự do nhưng họ là những người có công rất lớn trong việc xây dựng những nhận thức mới về tự do và thức tỉnh nhân loại về các giá trị của nó. Phương Tây đã đón nhận những đóng góp ấy và là những người đầu tiên được nếm vị ngọt của tự do và hưởng thụ những thành quả của tự do. Tuy nhiên, ở một số vùng kém phát triển, con người vẫn mơ hồ trước tự do và dừng lại ở việc nhận thức nó như một công cụ để thỏa mãn các đòi hỏi mang tính bản năng. Tự hỏi, đâu là căn nguyên của hiện tượng này? Phải chăng, có mối liên hệ giữa tình trạng kém phát triển với trạng thái thiếu hoặc không có tự do? Có thể hiểu, phạm trù "Tự do" dùng để chỉ nhu cầu và khả năng của con người trong những hoạt động phù hợp với những lợi ích và mục tiêu của mình, không cần sự can thiệp hay cản trở từ bên ngoài. Tuy nhiên đó mới chỉ là cách hiểu tương đối và đơn giản về tự do. Trên thực tế, tự do là một phạm trù mở, hiểu và thể hiện tự do trong đời sống là một quá trình mâu thuẫn và có tính hai mặt. Vì thế, trong lịch sử nhân loại đã có nhiều nhà triết học bàn về vấn đề này, từ Arixtốt, Êpiquya đến C.Mác từ phái Khắc kỷ đến chủ nghĩa Hiện sinh. Phải thừa nhận rằng, tự do là một phạm trù có tính xã hội, tự do chỉ được bàn đến trong xã hội, trong hệ thống các quan hệ giữa người với người. Tự do cần cho con người trong việc tạo ra các giá trị vật chất và giá trị tinh thần để thông qua đó, mỗi cá nhân bộc lộ toàn bộ khả năng và thiên hướng của mình. Ý thức về tự do và vươn tới tự do chỉ có ở xã hội với tư cách một sự tự tổ chức khác về chất so với thế giới “không phải con người ”, thế giới đó vận hành và phát triển trên cơ sở các 1 Häc viªn thùc hiÖn: NguyÓn H¶i Thμnh – Líp TriÕt 1 CH17 – Chuyªn ngµnh PPGD VËt lý. TiÓu luËn TriÕt häc – Chñ ®Ò “ Tù do vµ tÊt yÕu ”- GVHD - TS. Bïi V¨n Dòng. quy luật nội tại của mình. Thiết nghĩ sống trong xã hội mà lại tự do hoàn toàn khỏi các điều kiện xã hội là điều không thể. Tuy nhiên, mục đích của con người và mục đích của xã hội không phải lúc nào cũng nhất trí với nhau. Do vậy, mâu thuẫn trong quan niệm về tự do là một tất yếu khách quan trên con đường tiến hóa của nhân loại. Bên cạnh đó, ngoài những điểm chung mang tính nền tảng, quan niệm về nội dung và phương thức thực hiện tự do trong mỗi xã hội có thể phụ thuộc vào tính chất và nội dung các chuẩn mực, các quy tắc, các giá trị văn hóa dân tộc, lịch sử, thói quen, tập quán, tâm lý... đang thống trị. Chẳng hạn, nếu ở Phương Tây, người ta thiên về nhấn mạnh tự do cá nhân thì ở Phương Đông, quyền và tự do tập thể (nhóm, chủng tộc, dân tộc...) là cái thường được quan tâm. Một hoạt động được chỗ này đánh giá là tự do, chỗ khác lại xem là mất tự do, bởi lẽ tự do hay không tự do là một vấn đề nhận thức. Do xã hội là một phức hợp của những con người, những cá nhân sống với những đặc tính không hòa lẫn, phong phú và phức tạp, gia nhập vào những quan hệ nhất định ấy, nên nhận thức về tự do khó có thể đạt tới sự nhất trí hoàn hảo. Nghịch lý hay mâu thuẫn trong quá trình vươn tới sự tự thể hiện được thể hiện khá rõ nét trong mâu thuẫn giữa lý tưởng và hiện thực. Lịch sử từng chứng kiến những lực lượng xã hội đấu tranh không mệt mỏi vì giá trị thiêng liêng này, song một khi đạt được mục tiêu thì những lực lượng ấy, giờ đây trở thành lực lượng thống trị, đã tìm mọi cách hạn chế tự do của con người, hoặc xuyên tạc nó. Tự do trở thành đặc quyền, nghĩa là tự do diễn ra song song với sự đánh mất tự do, sự "tha hóa" đời sống có tính loài của cá nhân. Còn nhớ, trong bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng, chính dân tộc ta, bằng cuộc đấu tranh bền bỉ suốt 80 năm, đã khôi phục những giá trị của con người, trong đó có tự do - cái từng bị thực dân Pháp chà đạp nhân danh khai hóa văn minh. Cách mạng tư sản đã phần nào biến khát vọng tự do thành hiện thực tự do trong quan hệ công dân. Tự do của con người trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản được thể hiện ở chỗ, khác với các thời đại đã qua, con người làm chủ bản thân mình, nó là cá nhân tự do về phương diện luật pháp. Tuy nhiên, nghịch lý của tự do tư sản lại gắn với việc tất cả đều trở nên tự do - sự tự do mang tính hình thức, bởi ở nó có cả tự do bán sức lao động và sự mất tự do ngay trong đội ngũ những người có "chuyên môn tự do". E.Phrôm cho rằng, chủ nghĩa tư bản đã hình thành nên một kiểu tính cách cá nhân - "tính cách thị trường". Những con người tự do ấy phải thường xuyên đối mặt với những thách thức mang tính sống còn do kinh tế thị trường với các luật chơi của nó áp đặt. Ông viết: "Ở những người mang tính cách thị trường không có mục tiêu nào khác ngoài vận động thường xuyên, ngoài việc hoàn thành tất cả các công việc với cường suất cao nhất, và nếu ta hỏi họ tại sao họ phải vận động với tốc độ như thế, tại sao họ cố đạt được cường suất cao nhất, hẳn họ sẽ không đưa ra câu trả lời thực sự nào...". Con người thị trường là người tự do và với tính cách đó, anh ta buộc phải tìm kiếm phương thức tối ưu để hiện thực hóa những khả năng của mình. Xã hội tư sản tiếp tục đương đầu với cuộc đấu tranh vì tự do và bình đẳng của những lực lượng xã hội đã khác trước. Mâu thuẫn giữa lý tưởng và hiện thực có thể triển khai thành mâu thuẫn giữa khao khát tự do và lạm dụng tự do. 2 Häc viªn thùc hiÖn: NguyÓn H¶i Thμnh – Líp TriÕt 1 CH17 – Chuyªn ngµnh PPGD VËt lý. TiÓu luËn TriÕt häc – Chñ ®Ò “ Tù do vµ tÊt yÕu ”- GVHD - TS. Bïi V¨n Dòng. Tất nhiên, ngoài tính xã hội thì tự do còn là một phạm trù mang tính lịch sử, việc nhận thức và lý giải nó gắn liền với các thời kỳ lịch sử khác nhau. Ở Hy Lạp, La Mã cổ đại chưa hình thành lý luận riêng về tự do, mà chỉ có những cuộc đấu tranh vì tự do, vì sự tự ý thức của người nô lệ. Trong nền dân chủ chủ nô, cùng với sự quan tâm đến giới tự nhiên và vũ trụ, các vấn đề con người và xã hội cũng đã được tìm hiểu một cách sâu sắc. Con người giờ đây không chỉ là chủ thể, mà còn là một đối tượng nghiên cứu. Thời cực thịnh của sự phát triển xã hội cho phép các công dân nghĩ về trách nhiệm và quyền lợi tập thể gắn với quyền lợi quốc gia. Nhà khai sáng đầu tiên trong thế giới cổ đại phương Tây - Prôtago đã khẳng định: "Con người - thước đo của vạn vật". Sự khẳng định này lấy con người làm hệ quy chiếu để giải quyết các vấn đề về tồn tại và nhận thức. Trong sự tự do mang tính tự ý thức đó, Prôtago xem nghệ thuật tranh luận như là phương thức chứng minh vai trò của chủ thể. Xôcrát đã chọn cách tiếp cận khác khi nhấn mạnh rằng, sự tự do mang tính tự ý thức được đề cao chỉ trong chừng mực nó được gắn với mục đích đạo đức cao nhất - cái Thiện phổ quát. Arixtốt - nhà triết học Hy Lạp cổ đại nổi tiếng đã đề cập đến năng lực lựa chọn tự do từ bình diện đạo đức - chính trị. Ông cho rằng, con người với tư cách sinh vật xã hội, luôn biết chọn cho mình cách sống và lối ứng xử phù hợp với lý trí. Năng lực lựa chọn tự do không có nghĩa là vượt quá khuôn khổ của các quy tắc, các chuẩn mực truyền thống, là sự khẳng định cái Tôi một cách vô nguyên tắc. Nó phải dựa trên sự nhận thức về vị trí của cái Tôi giữa những cái Khác. Êpiquya là người đã đem lại những suy nghĩ mới về vấn đề tự do. Theo ông, tự do trước hết phải được hiểu như sự giải thoát của con người khỏi mọi ràng buộc của số phận, lấy sự thư thái, tĩnh tâm làm điều kiện cho đời sống cá nhân. Tự do là tự chủ, tự quyết định hành động vươn tới hạnh phúc, tránh mọi khổ đau và không bị cám dỗ bởi những thú vui vật chất tầm thường. Và , tự do như thế mới là tự do mang tính người. Rằng, tự do là không bị lệ thuộc vào thói quen ý thức và tín ngưỡng truyền thống, không bận tâm đến cái chết, không thừa nhận vai trò của thần thánh cả trên trời lẫn dưới đất. Trong luận án tiến sĩ của mình - Về sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Đêmôcrít và triết học tự nhiên của Êpiquya, sau khi phân biệt cách hiểu của Đêmôcrít và Êpiquya về sự vận động của các nguyên tử, C.Mác đã phát hiện ra ở Êpiquya xu hướng nhân bản hóa nguyên tử luận và thông qua đó, ông đề cao sự tự ý thức tự do của con người, khát vọng giải phóng khỏi tính tất yếu xã hội - cái được hiểu như là những trói buộc, áp đặt của xã hội phi nhân tính. "Để cho con người, - C Mác viết, “ với tư cách là con người, trở thành khách thể thật sự duy nhất của mình, - để trở thành như vậy con người phải phá tan ở trong bản thân mình tồn tại hiện hữu tương đối của mình, sức mạnh của những ham muốn và của thiên nhiên mù quáng. Sự đẩy nhau là hình thức thứ nhất của tự ý thức; vì vậy nó tương ứng với sự tự ý thức đã cảm thụ mình như là cái hiện hữu trực tiếp, cái cá biệt trừu tượng". Cần thấy rằng, sự sụp đổ của thế giới cổ đại bởi những mâu thuẫn bên trong và sự tấn công của các sắc tộc "man di" từ bên ngoài một phần liên quan đến vấn đề tự do, cả trong tư tưởng lẫn trong hiện thực. Chế độ chiếm hữu nô lệ trong quá trình tồn tại và phát triển của nó đã tước bỏ thiên chức làm người của 3/4 dân số, biến họ thành nô lệ, thành "công cụ 3 Häc viªn thùc hiÖn: NguyÓn H¶i Thμnh – Líp TriÕt 1 CH17 – Chuyªn ngµnh PPGD VËt lý. TiÓu luËn TriÕt häc – Chñ ®Ò “ Tù do vµ tÊt yÕu ”- GVHD - TS. Bïi V¨n Dòng. biết nói" và đối xử với họ như hàng hóa có thể trao đổi giữa các chủ nô. Cùng với đó, quan niệm về "công dân" và "nô lệ" cũng được xem xét từ góc độ người tự do và người không tự do. Nô lệ đồng nghĩa với thế giới động vật có tinh thần. Điều này giải thích vì sao sự ra đời và phổ biến nhanh chóng của Kitô giáo vào đầu Công nguyên được xem như sự giải thoát tinh thần, như lời cảnh tỉnh về cái chết khó có thể tránh khỏi của chế độ chiếm hữu nô lệ. Sự ra đời của Kitô giáo là một hiện tượng cách mạng trong sinh hoạt tôn giáo; nó là tôn giáo của người nghèo, của quần chúng bị áp bức, là sự tuyên truyền cho lối sống bình đẳng, dân chủ, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, nam nữ. Quá trình hợp pháp hóa Kitô giáo diễn ra song song với quá trình thay thế quan hệ xã hội chủ nô - nô lệ bằng quan hệ xã hội đi dần vào quỹ đạo của xã hội phong kiến cuối thế kỷ IV - đầu thế kỷ V. Sau khi trở thành quốc giáo, Kitô giáo đòi quyền độc tôn trong sinh hoạt tinh thần, trở thành một vương quốc với quyền uy tối thượng. Đại diện tiêu biểu cho triết học Kitô giáo là Ôguýtxtanh ở thời kỳ Giáo phụ và Tômát Đacanh trong triết học kinh viện. Theo thuyết Sáng thế, con người là hình ảnh của Thiên chúa, nên tự do cũng là món quà mà Thiên chúa ban cho con người, tự do tinh thần được coi trọng hơn tự do thân xác. Thậm chí, ngay cả khi con người bị biến thành nô lệ thì sự nô lệ thân xác vẫn không ngăn cản ý chí tự do. Tômát Đa canh cho rằng, tự do với tư cách một giá trị là sự giải thoát khỏi những ràng buộc của thế giới trần tục để vươn tới nơi sâu thẳm. Nhưng quan niệm như thế là sự đánh tráo tự do, thủ tiêu tự do hiện thực, biện minh cho tự do ảo tưởng, phi hiện thực. Vào đêm trước của cách mạng Pháp 1789, G.G.Rút xô đã nói đến tình trạng phổ biến của sự mất tự do: "Người ta sinh ra tự do, nhưng rồi đâu đâu con người cũng sống trong xiềng xích ". Chủ nghĩa thầy tu khổ hạnh là minh chứng rõ rệt của quan niệm "phụng sự Chúa quên thân mình" và đề cao tự do tâm linh, vượt qua mọi cám dỗ tội lỗi trong Kitôgiáo. Phục hưng là sự kết thúc đầy ý nghĩa lịch sử trung đại và cũng là sự chấm dứt cách hiểu theo lối Kitôgiáo về tự do, chỉ còn giữ lại tính hình thức của nó, nghĩa là xem tự do như món quà kỳ diệu mà Chúa ban cho con người. Song, con người tự do trước hết là tự do trong sự lựa chọn phương thức sống và tín ngưởng. Thời đại Phục hưng là thời đại chuyển tiếp từ chế độ phong kiến sang chủ nghĩa tư bản, tính chuyển tiếp này trong tư duy được thể hiện ra ở cuộc đấu tranh chống thần quyền và những tín điều bảo thủ, thuyết Thần là trung tâm được thay bằng thuyết Con người là trung tâm, chủ nghĩa thầy tu khổ hạnh được thay bằng chủ nghĩa hạnh phúc, thuyết định mệnh được thay bằng thuyết tự do cá nhân. Và, chủ nghĩa nhân văn đã mở đường cho cuộc đấu tranh thật sự chống lại cả thần quyền lẫn thế quyền trong thời Cận đại. Quan niệm cận - hiện đại về tự do luôn gắn kết với sự hình thành và khẳng định tư tưởng về con người cá nhân, về xã hội công dân và nhà nước pháp quyền. Quá trình chuyển từ thời đại phong kiến Trung cổ sang Cận đại là quá trình đánh giá lại vị trí và vai trò của con người trong xã hội, đề cao tự do như phẩm giá cao nhất, như bản tính cố hữu, cái phú bẩm nơi con người. Người ta gọi đó là sự hình thành một hệ biến thái mới về thế giới quan. Một mặt, thời Cận đại tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nhân cách và sự thực hiện những khả năng của nó. Chủ nghĩa cá nhân được xác lập trên cơ sở đồng nhất tự do cá nhân và tư hữu, trở thành sức 4 Häc viªn thùc hiÖn: NguyÓn H¶i Thμnh – Líp TriÕt 1 CH17 – Chuyªn ngµnh PPGD VËt lý. TiÓu luËn TriÕt häc – Chñ ®Ò “ Tù do vµ tÊt yÕu ”- GVHD - TS. Bïi V¨n Dòng. mạnh kích thích to lớn cho sự phát triển lực lượng sản xuất xã hội và sự hình thành nền dân chủ chính trị. Chính thời Cận đại với thế giới quan khoa học duy lý đã tạo ra những điều kiện cho sự giải phóng tinh thần và sự hiện thực hóa mọi khả năng của con người, cho quá trình con người thâm nhập vào cõi bí hiểm của tự nhiên. Các hình thức tạo dựng cuộc sống mới dựa trên cơ sở hợp lý, khoa học đem đến con người sự thuận lợi và tiện nghi mà các thời đại trước thậm chí chưa dám nghĩ đến. Hơn nữa, sự mở rộng vô điều kiện các giới hạn của tự do cá nhân còn mang đến cho từng cá nhân khả năng cảm nhận về con người với tư cách chủ thể thế giới, người sáng tạo duy nhất số phận mình. Mặt khác, sau khi giải thoát khỏi những quan hệ lỗi thời, chật hẹp, mang tính phường hội, con người cũng đồng thời tự tin hơn trong việc xác định vị trí của mình giữa cộng đồng và khẳng định ý nghĩa của tồn tại. Thay đổi quan niệm Trung cổ về con người như hình ảnh của Thiên chúa, các nhà tư tưởng thời Cận đại đặt con người vào vị trí trung tâm, biến nó thành con người tự chủ, tự quy định và đầy tham vọng chinh phục thế giới. Nhưng, vũ trụ vốn quá mênh mông, hờ hững trước những nhu cầu con người, nên mỗi bước tiến tới tự do, con người lại phải đặt mình trong tính tất yếu, trong sự nhận thức quy luật. Đó là cái giá phải trả cho tự do? Hơn nữa, bất chấp những thành quả đáng ngạc nhiên trong việc chinh phục tự nhiên và mở rộng phạm vi thực hiện những khả năng, con người vẫn chưa học được cách điều chỉnh thế giới mà mình tạo ra. Có vẻ như lạ lùng, song chủ nghĩa cá nhân - cái tiền đề cơ bản của sự khẳng định tính tự chủ của từng cá thể lại chứa đựng cả những yếu tố nô dịch con người. Cội nguồn biến thái này nằm ở khuynh hướng luận giải con người từ góc độ quyết định luận vật chất và thực dụng - vị lợi. Theo cách tiếp cận này, tự do con người cũng được hiểu trước hết như là sự tự do lựa chọn phương thức và nguồn khai thác phương tiện tồn tại, tự do mua và bán. Trong xã hội Phương Tây công nghiệp hiện nay, mối quan hệ giữa người làm công và người chủ mang tính chất công cụ và thực dụng. Người sở hữu tư bản sử dụng người làm thuê như bất kỳ công cụ nào, như máy móc. Về phần mình, người làm thuê cũng sử dụng người chủ sở hữu nhằm đạt được mục đích kinh tế thực dụng, họ không quan tâm đến điều gì khác ngoài tính lợi ích tương hỗ này. Không chỉ quan hệ thuần túy kinh tế mà cả nhiều quan hệ khác giữa người với người cũng có những hình thức biểu hiện tương tự. Bán sức lao động của mình, con người cũng cảm giác về mình như một thứ hàng hóa. "Tự do" như thế, theo C.Mác, là biểu hiện của tha hóa, của sự đánh mất tính loài đặc thù trong đời sống con người. Những năm 20 của thế kỷ XIX đã xuất hiện cách giải thích tự do theo ý chí luận, mà đại diện tiêu biểu là A. Sôpenhauơ. Ông cho rằng, ý chí là bản nguyên sống cố hữu của con người, ý chí sinh tồn hiện hữu khắp nơi và trở thành lý chí vũ trụ. Thế giới là ý chí và biểu tượng của Tôi, Tôi cảm nhận thế giới qua lăng kính ý chí và biểu tượng, bởi lẽ thế giới hiện ra không như nó vốn là như vậy, mà qua sự biểu tượng của Tôi. Ý chí của Tôi áp đặt cho thế giới đó một ý nghĩa chủ quan; ý chí tự do và sáng tạo dẫu sao cũng là mù quáng. Ý chí tự do đưa ta đến những miền đất mới mẻ, hoang sơ. Lý trí là kẻ phụng sự ý chí, chứ không phải là ngược lại. Từ đó, Sôpenhauơ cho rằng, sự tồn tại của “ thế giới cho ta ” ở một chừng mực nhất định là quá trình hiện thực hóa những 5 Häc viªn thùc hiÖn: NguyÓn H¶i Thμnh – Líp TriÕt 1 CH17 – Chuyªn ngµnh PPGD VËt lý. TiÓu luËn TriÕt häc – Chñ ®Ò “ Tù do vµ tÊt yÕu ”- GVHD - TS. Bïi V¨n Dòng. thiên hướng và tiềm năng cố hữu trong bản thân mỗi con người. Tự do ý chí sẽ không còn ý nghĩa, nếu khả năng của con người bị giới hạn theo những khuôn mẫu của lý trí. Chân lý duy nhất không dành chỗ cho sự tự do lựa chọn. Độc quyền, nhất nguyên, sự thiếu vắng tự do lựa chọn tự chúng đã mâu thuẫn với bản chất con người. Chủ nghĩa hiện sinh được xem như học thuyết triết học về sự tồn tại của con người trong thế giới và thế giới là thế giới của chính con người. Tìm kiếm ý nghĩa của hiện sinh như là tồn tại - ý thức, tồn tại trong âu lo, xao xuyến, nếm trải và sáng tạo, cái mà “ thế giới không con người ” không thể có được, các nhà hiện sinh luôn nhấn mạnh tính duy nhất của hiện sinh hay tồn tại con người, thể hiện ở chỗ con người là bản thể tự quy, tự tại mà những cái khác không thể sánh được. G.P.Xáctơrơ đã đề cập tới sự tự do lựa chọn thái độ sống của mỗi cá nhân, còn A.Camuy thì gắn tự do với trách nhiệm của cá nhân đối với xã hội. Ý tưởng con người - dự phóng được Xáctơrơ xem như thông điệp của tự do và sự tự vươn lên của con người. "Con người là một dự phóng, - Xáctơrơ viết, - sống bằng cuộc sống riêng của mình, thay vì là một đám rêu xanh, mốc meo, hoặc một bắp cải ôi". M. Haiđơgơ cũng như các nhà hiện sinh khác đã phê phán "trung bình tính" và coi sự "chuẩn hóa xã hội" là cái san phẳng tính độc đáo cá nhân. Ông viết: "Chúng ta thưởng thức và giải trí như "người ta" thưởng thức; chúng ta đọc, nhìn và phán đoán về văn chương và nghệ thuật như "người ta " đọc, nhìn và phán đoán... Người ta không là kẻ nào xác định, mà là tất cả, mặc dầu không phải là tổng số, quy định cách thể hữu của thường nhật tính... Trung bình tính, san bằng, xét như là những cách thể hữu của "người ta" cấu tạo cái mà người ta gọi là "công cộng tính". Các nhà hiện sinh còn gắn vấn đề tự do với mối quan hệ giữa cái bản chất và cái hiện hữu. Xáctơrơ cho rằng, cái hiện hữu của con người đi trước bản chất của nó, nhưng cách đặt vấn đề "hiện hữu đi trước bản chất" hay "bản chất đi trước hiện hữu ” cũng đều là con đường giả tạo của chân lý. Ý thức được cái Tôi của mình, con người đã không còn đơn giản là một phần của tự nhiên, nó không chỉ "đứng trong" tự nhiên, mà còn vượt ra khỏi giới hạn tự nhiên, vượt lên trên tự nhiên, con người nỗ lực buộc tự nhiên phục vụ những nhu cầu của mình. Và, cái chính là, bản chất của con người là cái cố hữu trong con người, chứ không phải đi sau hay đi trước sự hiện hữu của nó. Với tư cách một phạm trù triết học phức tạp, "tự do"...mang tính chất nhiều cấp độ và nhiều mặt. Do vậy, cần hiểu rõ thực chất, cơ sở và bản chất sâu xa của nó. Trước hết, hãy tìm hiểu các cấp độ biểu hiện của tự do. Trên cấp độ thứ nhất, cấp độ hời hợt nhất, tự do có thêm bộc lộ từ phương diện phủ định, tiêu cực của mình - như là tự do chạy trốn, né tránh một cái gì đó, tự do phá hủy, tự do không tính đến những thực tế hiện tồn. Đây là quan niệm ngây thơ, thuần phác về tự do. Tuy nhiên, nó có thể có những hệ quả mang tính tàn phá dữ dội nhất. Trên thực tế, tự do như vậy là sự man rợ và là chủ nghĩa ngu dân, thứ chủ nghĩa hoàn toàn không có điểm nào chung với văn hóa. Được áp dụng vào đời sống xã hội, nó luôn có thể sinh ra tình trạng hỗn loạn và vô chính phủ, sau đó là chế độ chuyên chế tất yếu thay thế cho tình trạng ấy. Do vậy, S. Phrancơ đã nhận xét: " Tự do không phải là bản nguyên phủ định, mà là bản nguyên khẳng định. Khi phủ định quyền lực, quyền uy, sự phân cấp, sự thờ cúng, tự do sẽ dẫn 6 Häc viªn thùc hiÖn: NguyÓn H¶i Thμnh – Líp TriÕt 1 CH17 – Chuyªn ngµnh PPGD VËt lý. TiÓu luËn TriÕt häc – Chñ ®Ò “ Tù do vµ tÊt yÕu ”- GVHD - TS. Bïi V¨n Dòng. từ chế độ vô chủ đến chế độ chuyên chế, tức là đến sự tự phủ định, và ngược lại, khát vọng tự quyết đích thực chỉ có thể được đáp ứng thông qua kỷ luật bên trong : của tinh thần, thông qua sự tôn trọng đối với những cơ sở và những giá trị đứng trên cá nhân". Cấp độ thứ hai của tự do trực tiếp sinh ra từ ý thức về tính vô căn cứ của tự do phủ định. Có thể xác định cấp độ này như là tự do lựa chọn có trách nhiệm. Vai trò, ý nghĩa đích thực có nhân tính của tự do bộc lộ ra ở đây. Có thể gọi cấp độ thứ ba của tự do là tự do hiện sinh. Đây không những là tự do lựa chọn, mà còn là tự do sáng tạo - sáng tạo ra cái thiện và cái ác. Bản chất của nó gắn liền với một thực tế là, trong cuộc sống của mình, con người không những lựa chọn giữa cái thiện và cái ác hiện tồn, mà còn tạo ra các hình thức của chúng mà trước đó chưa từng tồn tại. Cuộc sống không cấu thành một cách hoàn toàn từ những bối cảnh mang tính chuẩn mực: trong đa số tình huống, con người không biết trước bản thân tổng số những khả năng, những phương án cần phải hành động như thế nào; con người đòi hỏi phải sáng tạo, tự mình nghĩ ra cách thức ứng xử. Một điều dễ hiểu là, quá trình sáng tạo ra cái thiện và cái ác luôn đòi hỏi phải có những thể nghiệm tinh thần phức tạp. Nó gắn liền với sự tự quyết nội tâm. N.Berđiaép cho rằng: " Tự do là sự tự quyết từ nội tâm, từ đáy lòng, và nó đối lập với mọi sự quyết định từ bên ngoài với tư cách cái tất yếu ”.Cùng với các cấp độ của tự do, cũng có thể tách biệt các phương diện của nó: tự do chính trị, tự do pháp lý, tự do kinh tế và các hình thức tự do khác. Song, thiếu tự do tự quyết nội tâm thì tất cả những hình thức ấy của tự do đều không phải là tự do thực tại. Chẳng hạn, trong xã hội có thể có tự do pháp lý, song mọi người sẽ không sử dụng nó mà vẫn tiếp tục sống trong trạng thái không tự do. Một cách tương tự, sự hiện diện của tự do chính trị hoàn toàn không có nghĩa mọi cá nhân đều tự do về mặt chính trị: sẽ có những người xâm phạm đến tự do của người khác và cũng có những người không muốn hay không biết cách sử dụng tự do của mình. Do vậy, B.P.Vưchexlápsép đã có lý khi viết: "Tự do chính trị, tự do công dân, tự do pháp lý không bao hàm tất cả và không biểu thị bản chất đích thực của tự do, mà chỉ là điều kiện cho nó, chỉ là con đường để đạt tới và bảo vệ nó". Không nên gán ép tự do từ bên ngoài, từ phía sự cưỡng chế ở bên ngoài, cũng giống như không nên cưỡng chế con người thích cái mà nó không thích. Chính vì vậy mà tự do, xét từ bản chất sâu xa của nó, là tự do tự quyết nội tâm bằng tinh thần nhân văn mà nhân loại đã đúc kết qua hàng bao thế kỷ trong quá trình sáng tạo ra văn hóa làm người của mình. Để trở thành con người như một thực thể văn hóa thì chỉ riêng nhận thức là chưa đủ, mà còn cần phải sống, cần phải hiện sinh một cách có tính người nhờ “đồng hoá” toàn thể sự kết tinh tinh thần nhân văn của loài người thông qua giáo dục ở gia đình, ở nhà trường, ở xã hội. Do vậy, giáo dục ngày càng trở thành mệnh lệnh tối cao " đối với bổn phận và quyền làm người của con người trong tương lai. Nên hiểu như thế nào về mối quan hệ giữa tự do và tất yếu? Để có thể hiểu về mối quan hệ giữa tự do và tất yếu, hay nói cách khác là hiểu được quan điểm coi sự tồn tại của con người ở nhiều phương diện là cái quy định bản chất của nó, cần lưu ý rằng, sự hình thành ngôn ngữ và lời nói, các yếu tố tinh thần, 7 Häc viªn thùc hiÖn: NguyÓn H¶i Thμnh – Líp TriÕt 1 CH17 – Chuyªn ngµnh PPGD VËt lý. TiÓu luËn TriÕt häc – Chñ ®Ò “ Tù do vµ tÊt yÕu ”- GVHD - TS. Bïi V¨n Dòng. các phương tiện và phương thức sống, phong tục, thói quen, tập quán, truyền thống, các lối ứng xử ở các dân tộc khác nhau, phần lớn mang tính độc lập và thường gắn với những đặc trưng dân tộc, tôn giáo, nhưng lại hướng tới những mục tiêu thống nhất mang tính phổ quát, tính nhân loại. Chúng hình thành và được khẳng định một cách tự phát, cho dù có sự lựa chọn bước đầu. Nói " tự phát " vì trước hết, chúng được hình thành như cái " bản năng " sinh tồn, bảo tồn và phát triển con người, nhưng lại chưa được ý thức một cách trực tiếp và có hệ thống để đem lại một diện mạo bản thể luận rõ ràng. Khát vọng và sự bùng nổ sáng tạo là cơ sở của cuộc sống, còn cuộc sống là sự thực hiện những khát vọng và sự bùng nổ sáng tạo ấy. Tuy nhiên, chính cuộc sống lại đặt ra các nhu cầu, những giới hạn, những tính quy định cho hoạt động con người mà thiếu chúng, con người sẽ rơi vào tình trạng hỗn loạn, vô chính phủ, không thể kiểm soát được. Hai bản nguyên - khát vọng tự do và tính tất yếu đều xuất phát từ bản chất con người. Do vậy, nhận thức về tự do, cũng có nghĩa là nhận thức về mức độ của tự do. Ph.Ăng ghen viết: " Tự do là sự nhận thức được cái tất yếu... Tự do của ý chí không phải là cái gì khác hơn là cái năng lực quyết định một cách hiểu biết công việc... Tự do là sản phẩm tất yếu của sự phát triển lịch sử ". Kinh nghiệm lịch sử chứng minh rằng, trong bản chất con người, bên cạnh bản nguyên thiện, còn có bản nguyên ác, " thần " và " thú ". Chẳng phải ngẫu nhiên mà trong tất cả các tôn giáo, bằng cách này hay cách khác, đều đề cập tới cuộc đấu tranh giữa thiện và ác. Triết lý Phật giáo báo trước rằng nghiệp ác xuất phát từ chính con người và do vậy, từng người phải tự rèn luyện, tu dưỡng để vượt qua ác căn, vươn tới sự hoàn thiện nhân cách. Giải thoát tâm linh cũng đồng nghĩa với sự nhận thức về tự do, về sự giải thoát khỏi những ràng buộc vật chất tầm thường. Con người là một thực thể xã hội, mang những đặc tính xã hội, tính tập thể, hướng thiện, nhiệt tình, lòng nhân ái..., nhưng thú tính vẫn có chỗ trong con người với những mức độ khác nhau, đó là tập hợp của sự hung hãn, thói bạo dâm, tham lam, đố kỵ, kiêu căng, thành kiến... Trong lịch sử triết học, Platôn đã hình dung sự tương phản này bằng hình ảnh " cỗ xe linh hồn " với hai con ngựa có hai bản tính khác nhau - ngựa trắng kéo cỗ xe vươn tới cái thiện và sự phù hợp với linh hồn Vũ trụ, còn ngựa đen theo hướng ngược lại. Sự giằng co này chứng tỏ trong mỗi con người luôn diễn ra sự xung đột giữa hai thế lực. Trong trường hợp đó, sự sáng suốt của lý trí để cá nhân không ngừng " phản tỉnh ", nhìn lại chính mình, vươn lên khắc phục tội lỗi là đòi hỏi cần thiết. Đánh giá hành vi con người cần tính đến không chỉ các yếu tố hợp lý và lương thiện, mà cả sự không hoàn thiện của con người, bản năng phá hoại và vô trật tự của nó. Trong trường hợp này, tự do cần được hiểu và thực hiện như ý thức về tự do và hoạt động tự do có ý thức. Xã hội trước hết là một liên minh của các cá thể, sự tồn tại của cá nhân không có ý nghĩa bên ngoài liên minh này. Chất lượng xã hội phụ thuộc vào chất lượng cá nhân hợp thành nó, thể hiện ý chí cá nhân với tư cách những chủ thể sáng tạo ra đời sống xã hội, cùng với các thiên hướng, khát vọng, định hướng đạo đức, thẩm mỹ. Cũng như vậy, tự do cá nhân chi phối các điều kiện chính trị - xã hội. Tự do của con người được giới hạn, một mặt, bởi các nhu cầu, lợi ích, năng lực; mặt khác, bởi những điều kiện môi trường bên ngoài. Lẽ công bằng, một nội dung của 8 Häc viªn thùc hiÖn: NguyÓn H¶i Thμnh – Líp TriÕt 1 CH17 – Chuyªn ngµnh PPGD VËt lý. TiÓu luËn TriÕt häc – Chñ ®Ò “ Tù do vµ tÊt yÕu ”- GVHD - TS. Bïi V¨n Dòng. bình đẳng xã hội, phải được hình thành trên cơ sở hiểu biết nhu cầu và thiên hướng của con người cụ thể, hiện thực. Hướng đến tự do, con người nhận thấy nó hoàn toàn bị chi phối bởi những quy tắc và những giới hạn tự do của những thành viên khác trong xã hội. Giới hạn của tự do hành động được giới hạn bởi cả bản tính tự nhiên của con người lẫn của thế giới, tạo nên một không gian sinh tồn mang tính xã hội cho con người, hay không gian của tự do. Tự do chân chính chỉ có ý nghĩa với điều kiện là mỗi người thừa nhận những giới hạn của không gian này, cũng như tính tương hỗ hay chế ước nhau của quyền lợi và nghĩa vụ. Sự bình đẳng, sự " đồng quyền " trong nhận thức và hoạt động theo nguyên tắc ấy cũng là tất yếu khách quan của thời đại văn minh. Không có tự do trừu tượng, tự do " tự nhiên ", chỉ có tự do thể hiện trong hoạt động mang tính xã hội của con người. Việc đòi hỏi tự do tuyệt đối, gán cho tự do một ưu thế tuyệt đối trước những giá trị khác, dưới những hình thức khác nhau, cũng như việc đòi hỏi phải biện minh và sử dụng mọi phương tiện để đạt tới tự do đều là không tưởng. Tự do vừa là bản chất tự nhiên, vừa là khát vọng thường trực của mỗi người. Ai cũng yêu tự do, ai cũng khao khát tự do. Tự do mạnh mẽ và vĩ đại ở chỗ tìm kiếm nó trở thành bản năng sống còn của con người. Càng thiếu tự do, con người càng khao khát tự do, giống như sự thèm muốn bị thôi thúc bởi cơn khát khi không có nước. Chính vì thế, không một con người nào yên phận sống trong sự nô dịch của người khác và không một dân tộc nào cam chịu sống trong sự kìm kẹp của dân tộc khác. Các cuộc kháng chiến chính là để giải phóng con người ra khỏi sự nô dịch và kiềm toả. Sự mãnh liệt của khát vọng tìm kiếm tự do là một trong những tiêu chuẩn tất yếu để đo đạc sự lành mạnh của một dân tộc. Như đã nói ở trên, trong lịch sử phát triển của nhân loại, Phương Tây là mảnh đất đầu tiên có tự do, ở đó khát vọng tự do của con người được đáp ứng và chính sự gặp gỡ của con người với tự do đã tạo ra trạng thái phát triển rực rỡ. Kết quả của quá trình phát triển lâu dài của văn minh Phương Tây là: tự do, với tư cách như một đối tượng thơ ca, được mô tả như những thiên thần bay bên trên đời sống tinh thần con người; và, tự do, với tư cách như một đối tượng triết học, được cụ thể hoá thành những nguyên tắc cấu tạo ra xã hội, cấu tạo ra nhà nước. Cốt lõi của văn hoá Phương Tây chính là những tư tưởng, quan điểm về chủ nghĩa cá nhân, ý thức nhân quyền và thể chế dân chủ. Dựa trên tinh thần tuyệt đối của tự do cá nhân, Phương Tây coi tự do là chất xúc tác cơ bản của đời sống, là năng lượng tạo ra đời sống con người và lẽ tất yếu, trở thành linh hồn của mọi sự tiến bộ và phát triển. Tự do chỉ có thể nảy nở ở vùng đất mà những nhận thức về tự do cũng như mối quan tâm dành cho tự do được mở rộng và khơi sâu. Điều này đúng với Phương Tây, nơi các học giả bàn về tự do một cách sôi nổi và đầy cảm hứng, trong khi ở Phương Đông thì gần như xảy ra điều ngược lại, bởi lẽ hầu hết các học giả đều có khuynh hướng thu hẹp không gian tự do của con người. Khoa học nhận thức ở Phương Đông chưa làm rõ được khái niệm tự do cũng như xây dựng phạm trù tự do đúng đắn. Chính vì thế, người Phương Đông chưa hiểu đúng bản chất của tự do, vẫn xem tự do như một cái gì đó ở bên ngoài, bên trên cuộc sống. Trong quan niệm của họ, tự do là cái cho phép hay là cái được ban phát từ trên xuống, như là một ân sủng của đấng tối cao trao cho con người. Những nhận 9 Häc viªn thùc hiÖn: NguyÓn H¶i Thμnh – Líp TriÕt 1 CH17 – Chuyªn ngµnh PPGD VËt lý. TiÓu luËn TriÕt häc – Chñ ®Ò “ Tù do vµ tÊt yÕu ”- GVHD - TS. Bïi V¨n Dòng. thức lệch lạc và mơ hồ như thế về tự do đã làm hạn chế rất nhiều năng lực phát triển của mỗi cá nhân cũng như của cả cộng đồng. Hay nói cách khác, Phương Đông lạc hậu vì chưa bao giờ xem tự do như đối tượng chính hay linh hồn của tiến trình phát triển xã hội. Do đó, người ta nhận ra rằng, trong các cuộc cải cách, cái cần thay đổi trước tiên ở Phương Đông là nhận thức về tự do. Và, điều quan trọng nhất mà Phương Đông cần nhận thức là: tự do không phải là một loại quyền được trao tặng bởi bất kỳ ai, bất kỳ lực lượng nào mà nó là tài sản tự nhiên của con người. Điều này có nghĩa tự do không phải là không gian cho phép, không một nhà nước nào có quyền ban phát tự do cho con người. Nói cách khác, con người phải ra khỏi trạng thái nhận thức tự do như là sự nhân nhượng của bề trên đối với kẻ dưới, tức là trạng thái thụ động đón nhận tự do. Cần phải khẳng định tự do không phải là thứ gì đó ở bên ngoài cuộc sống, tự do thuộc về con người, tự do gắn liền với con người với tất cả hình hài cụ thể của nó. Tự do là nhà ở, tự do là đường đi, tự do là bãi cỏ rộng mênh mông, là thức ăn, là nước uống... Tự do là tất cả những gì liên quan đến đời sống con người kể cả vật chất lẫn tinh thần. Tự do muôn hình muôn vẻ và thiêng liêng đến mức không có định kiến nào trói buộc được nó, hễ bị kìm kẹp bởi định kiến là con người mất tự do. Tự do là một không gian dành cho mỗi cá nhân, tuỳ thuộc vào khả năng của mình, mỗi cá nhân đều có quyền làm chủ không gian ấy, khai thác nó và hơn nữa là mở rộng nó. Tự do là một quan hệ. Đối lập với tự do là lệ thuộc, là nô lệ. Sự ra đời của các thiết chế nhà nước trong xã hội có giai cấp với những thể chế chính trị khác nhau dường như đã hạn chế tự do của con người. Vì vậy, khởi điểm của hành trình nhận thức tự do của nhân loại là tự do trong các quan hệ xã hội. Tuy nhiên, để khẳng định quyền tự do chân chính của con người như một tất yếu, nhận thức của nhân loại đã phải viện dẫn đến tự do trong quan hệ với tự nhiên và với chính bản thân mình. Ở Trung Quốc, Lão Tử đề xướng thuyết vô vi, chủ trương không làm gì trái với tự nhiên, trái với đại đạo của trời đất. Tự nhiên ở đây được hiểu là những quy luật vận hành tất yếu của vũ trụ. Không làm trái với tự nhiên, hơn thế nữa, con người phải hoà mình vào tự nhiên. Vì vậy, " vô vi ” biểu hiện như một lối sống nhiều hơn là nhận thức triết học về tự do. Áp dụng vào đời sống xã hội, Lão Tử phản đối cách cai trị cưỡng chế, áp đặt đương thời: " Dân sở dĩ đói là vì trên thu thuế nhiều, dân sở dĩ khó trị là vì trên theo lối hữu vi". Khổng Tử cũng nói đến mệnh Trời nhưng với mục đích mượn cái vô hình làm chỗ dựa và làm tăng thêm uy lực cho cái hữu hình là hoàng đế và triều đình. Vì vậy, hợp với mệnh Trời thật ra là một quan hệ xã hội và về thực chất, là sự lệ thuộc vào uy quyền áp đặt của chế độ phong kiến. Triết học tôn giáo Ấn Độ sử dụng phạm trù giải thoát như một trạng thái tinh thần, vượt lên những ham muốn trần tục và sự khổ ải trần thế của con người, ít nhiều, đấy là một trạng thái đối lập với lẽ tự nhiên. Như vậy, ngoại trừ Lão Tử, Phương Đông thuyết minh nhiều cho cái bị cấm đoán hơn là cái được phép. Sự thống trị hàng ngàn năm của tư tưởng Khổng giáo cùng với sự kéo dài quá mức của thiết chế nhà nước phong kiến đã khiến xã hội nhầm lẫn khi coi tự do là cái được ban phát từ trên xuống, là ân huệ của nhà vua. Và điều này lại đưa đến một nhầm lẫn khác: tự do không phải là một vận động của lịch sử nên có thể áp đặt một mô 10 Häc viªn thùc hiÖn: NguyÓn H¶i Thμnh – Líp TriÕt 1 CH17 – Chuyªn ngµnh PPGD VËt lý. TiÓu luËn TriÕt häc – Chñ ®Ò “ Tù do vµ tÊt yÕu ”- GVHD - TS. Bïi V¨n Dòng. hình chủ quan từ bên ngoài, mô hình Phương Tây chẳng hạn. Ở Phương Tây, do sự đề cao vai trò của cá nhân, tự do được nhận thức và xây dựng như một phạm trù triết học quan trọng gắn với cái tất yếu. Phần lớn các nhà duy tâm chủ nghĩa đều coi tự do và tất yếu là hai khái niệm loại trừ lẫn nhau với hai khuynh hướng: Thứ nhất, tự do là tự do ý chí, là khả năng hành động phù hợp với sự thể hiện ý chí mà sự thể hiện này lại không do điều kiện bên ngoài quy định, thứ hai, con người không có chút tự do nào, tính tất yếu hoàn toàn thống trị. Điển hình cho khuynh hướng đầu tiên là Lốccơ với định nghĩa: " Tự do là khả năng con người có thể làm bất kì điều gì mình mong muốn mà không gặp bất kì cản trở nào ". Quan niệm này rõ ràng đã thách thức tính trách nhiệm và cả đạo đức, tự do được xem như một trạng thái bản năng. Khuynh hướng thứ hai lại tuyệt đối hoá tính khách quan mà thuyết định mệnh là một ví dụ. Trái ngược với cả hai khuynh hướng trên, Hê ghen là người đầu tiên đưa ra một quan điểm đúng đắn về quan hệ giữa tự do và tất yếu. Xuất phát điểm của Hêghen là quan niệm về tự do của Giáo hội Thiên Chúa giáo. Ông viết: " Tự do chủ quan hay tự do đạo đức này, chủ yếu được gọi là tự do theo nghĩa của người châu Âu. Căn cứ trên quyền tự do như vậy thì con người cần phải phân biệt giữa cái thiện và cái ác nói chung ". Từ quan hệ giữa thiện và ác, Hêghen đào sâu mối quan hệ giữa tự do và tất yếu, coi tự do là sự nhận thức được cái tất yếu, còn " cái tất yếu chỉ mù quáng chừng nào người ta chưa hiểu được nó ". Ở đây, Hê ghen đã vượt qua quan niệm đạo đức về tự do: tự do không phải ở chỗ lựa chọn giữa cái thiện và các ác, mà là ở sự lựa chọn giữa cái tất yếu và mù quáng. Tất yếu dường như là cái đối lập với tự do, cái mà tự do phải vượt qua để khẳng định mình. Tuy nhiên, Hê ghen quan niệm tất yếu là cái có quy luật của thế giới, là cái đưa thế giới tới một mục đích xác định, là "lý tính thế giới". Vì vậy, tất yếu của Hê ghen hoàn toàn không mù quáng. Khi tất yếu được con người nhận thức, nó mở ra cho con người khả năng bắt cái tất yếu phục tùng lợi ích và nhu cầu của mình, nghĩa là lý tính thế giới khẳng định được nó và nó chuyển hoá thành tự do. Chiến thắng của tự do cũng là chiến thắng của lý tính. Ông viết: "Chân lý của tất yếu là bản thân tự do". Như vậy, tự do của Hê ghen không chỉ giới hạn trong nhận thức: "...Tự do chính là ở chỗ làm sao để tồn tại là bản thân mình, tồn tại chỉ lệ thuộc vào bản thân mình, làm sao để tự quyết định được bản thân mình". Từ đây, có thể nhận ra rằng, Ph.Ăng ghen hoàn toàn tán thành Hêghen khi viết: "Tự do không phải là ở sự độc lập tưởng tượng đối với các quy luật của tự nhiên, mà là ở sự nhận thức được những quy luật đó và ở cái khả năng - có được nhờ sự nhận thức này - buộc những quy luật đó tác động một cách có kế hoạch nhằm những mục đích nhất định", "tự do là ở sự chi phối được chính bản thân và tự nhiên bên ngoài, một sự chi phối dựa trên sự nhận thức được những tất yếu của tự nhiên". Tất yếu biểu hiện không chỉ trong những quy luật tự nhiên, mà còn trong các quy luật xã hội. Nhìn từ quan hệ xã hội, tự do là một thể chế chính trị quy định quan hệ giữa người và người, giữa công dân và nhà nước. Cùng quan điểm với Hêghen, Rútxô khẳng định: "Làm theo kích thích của dục vọng là nô lệ, mà tuân theo các quy tắc của mình đặt ra là tự do". Quy tắc đó chính là pháp luật hay khế ước xã hội. Ông viết: "Với khế ước xã hội, con người mất đi cái tự do tự nhiên và cái quyền hạn chế được làm 11 Häc viªn thùc hiÖn: NguyÓn H¶i Thμnh – Líp TriÕt 1 CH17 – Chuyªn ngµnh PPGD VËt lý. TiÓu luËn TriÕt häc – Chñ ®Ò “ Tù do vµ tÊt yÕu ”- GVHD - TS. Bïi V¨n Dòng. những điều muốn làm mà làm được, nhưng mặt khác con người thu lại quyền tự do dân sự và quyền sở hữu những cái mà anh ta có". Trong quan hệ với thể chế chính trị, tự do là quyền tự nhiên của con người. Tuyên ngôn Lập quốc năm 1776 của Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp đều khẳng định điều này. Tuy nhiên, trong xã hội tư sản, tự do đã bị cắt xén bởi pháp luật của xã hội đó phụ thuộc vào ý chí của thiểu số chiếm đoạt tư liệu sản xuất. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã tập trung phân tích và chỉ ra khả năng tự do của con người và xã hội trong quan hệ đối lập với một phạm trù mới - phạm trù tha hoá. Trong guồng máy kinh tế của chủ nghĩa tư bản, cái đối lập với tự do là tha hoá. C.Mác và Ph.Ăngghen, trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, đã khẳng định: "Hoạt động tự do, có ý thức là tính chất loài của con người ”. Hoạt động sinh sống của con người là hoạt động có ý thức. Đó là một đặc trưng quan trọng để phân biệt con người với con vật. Hoạt động sinh sống có ý thức khiến con người trở nên tự do: "... Con người là một sinh vật có ý thức, nghĩa là đời sống của bản thân con người là một đối tượng của con người. Chính vì thế mà hoạt động của con người là hoạt động tự do. Lao động bị tha hoá đảo ngược quan hệ đó khiến cho con người chính vì là một sinh vật có ý thức, chỉ biến hoạt động sinh sống của mình, bản chất của mình thành phương tiện để duy trì sự tồn tại của mình mà thôi". Như vậy, logic của vấn đề tự do trong xã hội tư sản là phải xoá bỏ sự tha hoá. Mà xoá bỏ tha hoá trước hết là xoá bỏ chế độ tư hữu. Mặt khác, C.Mác và Ph. Ăngghen quan niệm thực chất của tự do là tự do phát triển toàn diện những khả năng của con người. Lập luận của hai ông là để có tự do, cá nhân phải được sống trong những "cộng đồng thực sự": "Chỉ có trong cộng đồng cá nhân mới có được những phương tiện để phát triển toàn diện những năng khiếu của mình và do đó, chỉ có trong cộng đồng, mới có thể có tự do cá nhân ”. Trong những cộng đồng của các xã hội từ chủ nghĩa tư bản trở về trước, " tự do cá nhân chỉ tồn tại đối với những cá nhân đã phát triển trong khuôn khổ của giai cấp thống trị và chỉ trong chừng mực họ là những cá nhân của giai cấp ấy”. C.Mác và Ph.Ăngghen gọi đấy là những "cộng đồng giả", "cộng đồng hư ảo", bởi bao giờ chúng cũng tồn tại độc lập với các cá nhân và "vì nó là sự liên hợp của một giai cấp chống lại một giai cấp khác, cho nên đối với giai cấp bị trị, nó không những là một cộng đồng hoàn toàn hư ảo mà còn là một xiềng xích mới". Do đó, "sự phụ thuộc của những cá nhân vào những giai cấp nhất định không thể bị xoá bỏ chừng nào chưa hình thành một giai cấp không phải bảo vệ một lợi ích giai cấp riêng biệt chống lại giai cấp thống trị. Cộng đồng thực sự mà C.Mác và Ph.Ăngghen nói đến là chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa cộng sản sẽ giải thoát con người khỏi sự tha hoá ấy để trả nó về trạng thái tự do. Khi đó, "những lực lượng khách quan, xa lạ, từ trước đến nay vẫn thống trị lịch sử thì sẽ do chính con người kiểm soát", con người bắt đầu tự mình làm ra lịch sử của chính mình một cách tự giác. Đấy chính là thời điểm mà Ph.Ăngghen gọi là " bước nhảy của nhân loại từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do" . Lúc đó, tự do không phải là một sự chia sẻ hay nhượng bớt như quan niệm của Rútxô, mà là một sự cộng đồng, bởi " Thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển 12 Häc viªn thùc hiÖn: NguyÓn H¶i Thμnh – Líp TriÕt 1 CH17 – Chuyªn ngµnh PPGD VËt lý. TiÓu luËn TriÕt häc – Chñ ®Ò “ Tù do vµ tÊt yÕu ”- GVHD - TS. Bïi V¨n Dòng. tự do của mỗi người là điều kiện của sự phát triển tự do của tất cả mọi người". Tự do không phải là của ban phát từ bề trên hay sự kết nối theo hàng dọc từ trên xuống, mà là sự kết nối theo hàng ngang trong một cộng đồng dân chủ, tiến bộ. Tóm lại, tự do không hề xa lạ, nó là bản chất tự nhiên của con người. Tự do gắn liền với đời sống con người từ quá khứ, đến hiện tại, đến tương lai như một công cụ để tồn tại, để sống và để phát triển. Càng ngày, những nghiên cứu về tự do càng cho thấy sự cần thiết phải biến tự do trở thành cấu trúc tinh thần hay trở thành thực phẩm hàng ngày của đời sống tinh thần con người. Con người phải thấy được giá trị, địa vị của tự do trong đời sống và ứng dụng nó để tạo ra hạnh phúc cho bản thân và cho cộng đồng. Do vậy, sẽ là trung thực và dũng cảm hơn, nếu thừa nhận rằng, con người tuyệt đối không phải lúc nào cũng tự do; rằng, trong xã hội đã, đang và sẽ có hai lĩnh vực - lĩnh vực tự do và lĩnh vực tất yếu. Khi đó những gì diễn ra do tất yếu, đã bắt buộc, do nghĩa vụ, do bổn phận cũng quan trọng không kém những gì diễn ra do sự sáng tạo tự do thực hiện. Vinh, ngày 13 tháng 09 năm 2009. Học viên thực hiện: Nguyễn Hải Thành. 13 Häc viªn thùc hiÖn: NguyÓn H¶i Thμnh – Líp TriÕt 1 CH17 – Chuyªn ngµnh PPGD VËt lý. TiÓu luËn TriÕt häc – Chñ ®Ò “ Tù do vµ tÊt yÕu ”- GVHD - TS. Bïi V¨n Dòng. TÀI LIỆU THAM KHẢO. * BÀI GIẢNG MÔN TRIẾT HỌC - Dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học - TS. Bùi Văn Dũng. * GIÁO TRÌNH TRIẾT HỌC - Dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành Triết học - BỘ GD& ĐT. * TẠP CHÍ TRIẾT HỌC. * TẤT YẾU VÀ TỰ DO - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN – TS. VƯƠNG THỊ BÍCH THUỶ - NXB Khoa học xã hội và nhân văn. 14 Häc viªn thùc hiÖn: NguyÓn H¶i Thμnh – Líp TriÕt 1 CH17 – Chuyªn ngµnh PPGD VËt lý.
DMCA.com Protection Status Copyright by webtailieu.net