Bài giảng tham khảo về tài chính tiền tệ
Quá trình phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá dẫn đến sự xuất hiện của những "vật ngang giá chung". Đó là những hàng hoá có thể trao đổi trực tiếp với nhiều loại hàng hoá khác nhau. Đặc điểm của chúng là có giá trị sử dụng thiết thực, quý hiếm, dễ bảo quản, dễ vận chuyển và thường mang tính đặc thù của địa phương Trải qua quá trình phát triển, những "vật ngang giá chung" được thay đổi và ngày càng hoàn thiện để có thể đáp ứng cho việc trao đổi thuận tiện...
z
Tµi liÖu m«n häc tµi chÝnh TiÒn tÖ
Bài giảng tài chính tiền tệ
1
Tµi liÖu m«n häc tµi chÝnh TiÒn tÖ
MỤC LỤC
- Nguyên giá TSCĐ Là toàn bộ các chi phí mà doanh
nghiệp phải bỏ ra để có TSCĐ tính đến thời điểm đưa
tài sản đó vào trạng thái sẵn sàng sử dụng. ......25
3.5. TÀI SẢN LƯU ĐỘNG -VỐN LƯU ĐỘNG CỦA DOANH
NGHIỆP.............................................28
3.6. KẾT QUẢ KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP........29
Tài sản............................................65
Bảng cân đối tài sản đơn giản của ngân hàng trung
ương.................................................70
Có.................................................70
+ Bên có.........................................70
B. Tài khoản vốn.................................90
C. Cán cân giao dịch dự trữ chính thức...........90
Phương pháp biểu hiện trực tiếp ................91
Phương pháp biểu hiện gián tiếp.................91
- Chính sách hối đoái. Ngân hàng trung ương can
thiệp vào thị trường ngoại hối bằng cách mua bán
ngoại tệ trên thị trường. Khi tỷ giá lên cao, ngân
hàng trung ương tăng cường bán ngoại tệ ra thị
trường để kéo tỷ giá ngoại hối tụt xuống. Song vấn
đề quan trọng ở đây là ngân hàng trung ương phải
có dự trữ ngoại tệ lớn, nếu cán cân thanh toán của
một nước bị thiếu hụt thường xuyên thì khó có đủ
số ngoại tệ để thực hiện phương pháp này. ......94
10.3.1. CÁC PHƯƠNG TIỆN THANH TOÁN QUỐC TẾ ....94
a. Hối phiếu.....................................94
Lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa -Tỷ lệ lạm
phát............................................106
Chương 1. ĐẠI CƯƠNG VỀ TÀI CHÍNH VÀ TIỀN TỆ
1.1 BẢN CHẤT CỦA TIỀN TỆ
1.1.1. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TIỀN TỆ
Quá trình phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá dẫn đến sự xuất hiện
của những "vật ngang giá chung". Đó là những hàng hoá có thể trao đổi trực tiếp với
nhiều loại hàng hoá khác nhau. Đặc điểm của chúng là có giá trị sử dụng thiết thực,
quý hiếm, dễ bảo quản, dễ vận chuyển và thường mang tính đặc thù của địa
phương.
Trải qua quá trình phát triển, những "vật ngang giá chung" được thay đ ổi và
ngày càng hoàn thiện để có thể đáp ứng cho việc trao đổi thuận tiện hơn và phạm vi
trao đổi rộng lớn hơn. Sau những thứ hàng hoá không phải tiền tệ là những kim loại.
2
Tµi liÖu m«n häc tµi chÝnh TiÒn tÖ
Kim loại là những "vật ngang giá chung" được sử dụng rộng rãi nhất. Đ ầu tiên là
sắt, kẽm, rồi đến đồng và bạc . Đầu thế kỷ 19 thì vàng đóng vai trò "vật ngang giá
chung" thay thế cho tất cả các "vật ngang giá chung" khác, kim loại này đã được gọi
là ‘kim loại tiền tệ". Khi một khối vàng có trọng lượng và chất l ượng nh ất đ ịnh
được chế tác theo một hình dạng quy định nào đó thì được gọi là "tiền tệ". Vàng trở
thành vật ngang giá chung độc tôn trong trao đổi mua bán thì cái tên " Vật ngang giá
chung" được thay bằng cái tên là " tiền tệ. "
Vì tiền tệ có thể trao đổi trực tiếp với mọi hàng hoá trong bất kỳ điều kiện nào
cho nên nó có thể thoả mãn được rất nhiều nhu cầu của người sở hữu nó. Chính vì
vậy vàng -tiền tệ được coi là một thứ hàng hoá đặc biệt
Sau này, để đáp ứng nhu cầu của của nền sản xuất-trao đổi phát triển, tiền tệ
được thay thế bằng tiền kim loại, tiền giấy, tiền ghi sổ, tiền điện tử và đây là những
hình thái hiện đại của tiền tệ và hiện nay vẫn đang được sử dụng
1.1.2. BẢN CHẤT CỦA TIỀN TỆ
Qua xem xét sự ra đời và phát triển của tiền tệ, ta thấy bản chất của tiền tệ là:
"Tiền tệ là một thứ hàng hoá đặc biệt, đóng vai trò là vật ngang giá chung đ ể đo giá
trị của tất cả các loại hàng hoá khác được pháp luật thừa nhận và bảo hộ. Tiền tệ ra
đời, phát triển và tồn tại trong điều kiện lịch sử nhất định, đó là 2 tiền đ ề: nền s ản
xuất hàng hoá và nhà nước. Tiền tệ có thể thoả mãn nhiều nhu cầu của người sở
hữu nó, tương ứng với lượng giá trị mà người đó tích luỹ được".
Tiền tệ ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của sản xuất và trao
đổi hàng hoá.
Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển cao, tiền tệ bằng vàng dần dần đ ược thay
thế bằng hình thức khác với tư cách là những vật thay mặt cho vàng và đ ược b ảo
đảm giá trị bởi người phát hành ra nó dưới sự bảo hộ của pháp luật. Những hình
thức như vậy của tiền tệ đã mang lại nhiều thuận lợi hơn cho quá trình trao đổi hàng
hoá vì vậy chúng ngày càng được sử dụng rộng rãi.
Cho đến ngày nay thì quan niệm về tiền không còn bó hẹp là vàng với tư cách
là hàng hoá đặc biệt nữa mà tiền bây giờ là bất cứ những phương tiện nào được luật
pháp công nhận là vật đóng vai trò trung gian trao đổi, thậm chí đó chỉ là nh ững t ờ
giấy được in ấn những hình ảnh và màu sắc theo quy định nào đó.
1.2. CHỨC NĂNG CỦA TIỀN TỆ
1.2.1. TIỀN TỆ LÀM THƯỚC ĐO GIÁ TRỊ
Tiền tệ là đơn vị đo lường giá trị, nghĩa là nó được dùng để đo lường giá trị
các hàng hoá, dịch vụ khác trước khi đem ra trao đổi. Với chức năng này, nó giúp cho
sự trao đổi giảm bớt được số lượng giá cần tính trước khi trao đổi, làm cho quá trình
trao đổi thuận tiện hơn rất nhiều
1.2.2. TIỀN TỆ LµM PHƯƠNG TIỆN TRAO ĐỔI, THANH TOÁN
Trong nền kinh tế, tiền tệ làm phương tiện trao đổi khi nó được sử dụng đ ể
mua hàng hoá, dịch vụ hoặc thanh toán các khoản nợ . Việc dùng tiền tệ làm phương
tiện trao đổi đã nâng cao hiệu quả hoạt động của nền kinh tế, vì nó tiết ki ệm đ ược
các chi phí quá lớn so với quá trình trao đổi trực tiếp ( Hàng đổi hàng). Bởi vì khi trao
3
Tµi liÖu m«n häc tµi chÝnh TiÒn tÖ
đổi trực tiếp như vậy thì những người tham gia trao đổi phải tìm được sự trùng nhau
về nhu cầu, thời gian trao đổi và không gian trao đổi. Quá trình trao đổi chỉ có th ể
thực hiện được khi có sự phù hợp đó. Tiền tệ làm môi giới trung gian trao đổi đã
khắc phục được các hạn chế đó của quá trình trao đổi trực tiếp. Phạm vi trao đ ổi
không bị hạn chế, có thể là trao đổi thanh toán trong nước cũng như trao đ ổi thanh
toán quốc tế
1.2.3. TIỀN TỆ LÀM PHƯƠNG TIỆN DỰ TRỮ GIÁ TRỊ
Sau khi bán hàng, nếu người sở hữu tiền tệ không thực hiện việc mua hàng hoá
tiếp theo, thì lúc này tiền tạm thời ngừng lưu thông và chúng tồn tại dưới dạng ‘giá
trị dự trữ’. Tiền tệ làm phương tiện dự trữ giá trị nghĩa là nó là nơi chứa sức mua
hàng hoá trong một thời gian nhất định. Nhờ chức năng này mà người ta có thể tách
thời gian từ lúc có thu nhập đến khi tiêu tiêu dùng nó. Chức năng này r ất quan tr ọng
vì mọi người đều không muốn và không thể chi tiêu hết thu nhập của mình ngay khi
nhận nó, mà phải dự trữ một phần để sử dụng trong tương lai
1.3. SỰ PHÁT TRIỂN CÁC HÌNH THÁI CỦA TIỀN TỆ
1.3.1. HOÁ TỆ
Hoá tệ là lấy hàng hoá làm tiền tệ, đây là hình thái đầu tiên của tiền tệ và
được sử dụng trong một thời gian dài. Hàng hoá được sử dụng làm tiền tiền tệ có 2
loại : Hàng hoá không phải kim loại và kim loại. Do vậy hoá tệ cũng có 2 loại
Hoá tệ không kim loại. Người ta sử dụng hàng hoá không phải kim loại làm
tiền tệ. Đây là hình thái cổ nhất của tiền tệ Tuỳ theo từng quốc gia, từng địa phương
người ta dùng những hàng hoá khác nhau để làm tiền tệ ( bò, cừu, thuốc lá, muối...)
Nói chung đó là những vật dụng quan trọng, hay những đặc sản của mỗi dân tộc,
mỗi địa phương. Hoá tệ không kim loại được sử dụng đã đem lại nhiều thuận lợi
trong việc trao đổi hàng hoá. Nhưng dần dần nó xuất hiện nhiều hạn chế, bất l ợi
cho quá trình trao đổi như dễ hư hỏng, khó bảo quản, khó vận chuyển, khó phân chia
hay gộp lại, chỉ được công nhận trong từng địa phương.
Hoá tệ kim loại ( Kim tệ). Người ta lấy kim loại làm tiền tệ. Giá trị của đồng
tiền phụ thuộc vào khối lượng và chất lượng phần kim loại đúc nên tiền.Các kim
loại đã được sử dụng để đúc thành tiền là sắt, đồng, kẽm, bạc, và cuối cùng vai trò
tiền tệ được cố định ở vàng. Vàng có nhiều ưu điểm hơn các kim loại khác là tính
đồng nhất của vàng rất cao. Điều đó làm cho việc đo lường giá trị hàng hoá trong quá
trình trao đổi thuận tiện hơn . Vàng dễ phân chia mà không ảnh hưởng đ ến giá tr ị
vốn có của nó. Vàng dễ mang theo và thực hiện chức năng dự trữ rất thuận tiện
Tuy nhiên khi trình độ sản xuất phát triển lên, khối lượng hàng hoá dịch vụ
đưa ra trao đổi ngày càng nhiều trong khi khả năng về vàng lại có hạn thì việc tìm
kiếm ra một hình thái tiền tệ mới để thay thế vàng là việc cần thiết.
1.3.2. TÍN TỆ
Tín tệ là loại tiền tệ mà bản thân nó không có giá trị, hoặc giá trị của nó rất
nhỏ không đáng kể, nhưng nhờ sự tín nhiệm của mọi người mà nó được lưu dụng.
Tín tệ có 2 loại là tiền kim loại ( dùng kim loại để đúc thành tiền) và tiền giấy ( sử
dụng giấy để làm tiền). Giá trị của tiền không phụ thuộc vào nguyên liệu làm tiền
mà nó phụ thuộc vào những dấu hiệu ghi trên mặt đồng tiền do nhà nước quy định
4
Tµi liÖu m«n häc tµi chÝnh TiÒn tÖ
Tiền kim loại với kim tệ ở chỗ: Trong kim tệ giá trị chất kim loại đúc thành
tiền bằng giá trị ghi trên bề mặt đồng tiền. Còn trong tiền kim loại thì hai giá trị này
không có liên hệ gì với nhau, có thể gán cho nó một giá trị nào cũng được.
Tiền giấy có 2 loại là tiền giấy khả hoán và tiền giấy bất khả hoán. Lúc đầu
những tờ giấy bạc ngân hàng là những dấu hiệu đại diện cho vàng đáng lẽ phải có
trong lưu thông. Những tờ giấy bạc này được tự do chuyển đổi thành vàng theo luật
định. Nghĩa là trên tờ giấy bạc đã ghi rõ có thể đổi được bao nhiêu vàng. Tiền giấy
bất khả hoán là loại tiền giấy được lưu hành nhưng không thể đem đ ến ngân hàng
đẻ đổi lấy vàng. Đây là loại tiền giấy mà hiện nay các quốc gia đang sử dụng..
Việc sử dụng tín tệ bây giờ trở nên thông dụng do tính thuận tiện của nó trong
việc làm phương tiện trao đổi hàng hoá. ưu điểm của nó là: Dễ mang theo đ ể làm
phương tiện trao đổi, thanh toán nợ. Thuận tiện khi thực hiện chức năng dự trữ. Chỉ
cần thay đổi các con số trên bề mặt đồng tền là có một lượng giá trị lớn hơn hay nhỏ
hơn được biểu hiện. Bằng chế độ độc quyền phát hành và những quy định nghiêm
ngặt của chính phủ, tiền giấy có thể giữ được giá trị của nó. Hạn chế của tín tệ
xuất hiện khi trao đổi ở quy mô lớn, phạm vi rộng và tốc độ nhanh. Hơn nữa nó có
thể mất giá trị khi dự trữ .
1.3.3. BÚT TỆ (TIỀN GHI SỔ)
Đây là những khoản tiền gửi không kỳ hạn ở ngân hàng. Đó là tiền do hệ
thống ngân hàng thương mại tạo ra trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng.
Việc sử dụng đồng tiền ghi sổ được thực hiện bằng các bút toán ghi Nợ, ghi Có trên
các tài khoản tiền gửi không kỳ hạn ở ngân hàng
Bút tệ không có hình thái vật chất nhưng nó cũng có những tính chất của tín tệ
là được sử dụng để thanh toán qua các công cụ thanh toán của ngân hàng như séc,,
lệnh chuyển tiền.... Hiên nay là thời đại của tiền ghi sổ. Nó có những ưu điểm là:
Giảm bớt một các đáng kể về chi phí lưu thông tiền mặtnhư các chi phí in tiền, bảo
quản, vận chuyển, đếm, đóng gói.. Nhanh chóng và thuận tiện cho các chủ nhân tham
gia thanh toán qua ngân hàng. Bảo đảm an toàn trong việc sử dụng đ ồng tiền. Tạo
điều kiện cho ngân hàng trung ương quản lý và điều tiết lượng tiền cung ứng. Ưu
điểm nổi bật là khi nó được sử dụng để thanh toán với quy mô không hạn chế, phạm
vi trao đổi rộng và trao đổi với tốc độ rất nhanh.
1.3.4. TIỀN ĐIỆN TỬ
Tiền điện tử là loại tiền được sử dụng qua hệ thống thanh toán tự động
(Nhưng chưa có sự thống nhất coi đây là một hình thái tiền tệ. Có quan điểm cho
rằng đây chỉ là phương tiện chi trả với sự chuyển dịch vốn bằng điện tử mà thôi)
1. 4. BẢN CHẤT CỦA TÀI CHÍNH
1.4.1. SỰ RA ĐỜI CỦA PHẠM TRÙ TÀI CHÍNH
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã xác nhận rằng, vào thời kỳ cuối của
chế độ công xã nguyên thuỷ. Lúc đó phân công lao động xã hội đã bắt đầu phát triển,.
Trong điều kiện lịch sử đó, sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển, theo đó là tiền tệ
đã xuất hiện. Đồng thời cũng vào thời kỳ này chế độ tư hữu xuất hiện, xã hội bắt
đầu phân chia thành các giai cấp và có sự đấu tranh giữa các giai cấp trong xã hội.
Chính sự xuất hiện sản xuất - trao đổi hàng hoá và tiền tệ đã là một trong các nguyên
5
Tµi liÖu m«n häc tµi chÝnh TiÒn tÖ
nhân chủ yếu thúc đẩy mạnh mẽ sự phân chia giai cấp và đối kháng giai cấp. Trong
điều kiện lịch sử đó, nhà nước đã xuất hiện.
Khi nhà nước xuất hiện, với tư cách là người có quyền lực chính trị, nhà nước
đã nắm lấy việc đúc tiền, in tiền và lưu thông đồng tiền, tác động đến sự vận động
độc lập của đồng tiền trên phương diện quy định hiệu lực pháp lý của đồng tiền và
tạo ra môi trường pháp lý cho việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ.
Thông qua các thứ thuế bằng tiền và công trái bằng tiền, nhà nước đã tập trung
vào tay mình một bộ phận sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân dưới hình thức
tiền tệ để lập ra các quỹ tiền tệ riêng có quỹ ngân sách nhà nước và các quỹ tài chính
nhà nước khác phục vụ cho hoạt động của nhà nước và thực hiện các nhiệm vụ phát
triển kinh tế – xã hội. Tạo ra những mối quan hệ kinh tế biểu hiện bằng tiền tệ giữa
nhà nước với các tổ chức và dân cư
Trong điều kiện kinh tế hàng hoá - tiền tệ, hình thức tiền tệ đã được các chủ
thể trong xã hội sử dụng vào việc tham gia phân phối sản phẩm xã hội và thu nhập
quốc dân để tạo lập nên các quỹ tiền tệ riêng phục vụ cho các mục đích riêng của
mỗi chủ thể. Ở các chủ thể khác như các tổ chức kinh tế, các tổ chức xã hội, các hộ
gia đình, các quỹ tiền tệ có thể được hình thành và sử dụng cho những mục đích trực
tiếp (sản xuất hoặc tiêu dùng) thông qua hành vi trao đổi thành những quỹ vật tư,
hàng hoá, dịch vụ phục vụ cho sản xuất hay tiêu dùng, sinh hoạt; cũng có thể được
hình thành như những tụ điểm trung gian để tự cung ứng phương tiện tiền tệ cho
những mục đích trực tiếp. Từ đó xuất hiện những mối quan hệ kinh tế giữa các tổ
chức và dân cư với nhau
Tóm lại từ thời kỳ này trong xã hội xuất hiện những mối quan hệ kinh tế giữa
nhà nước với các tổ chức, cá nhân với nhau. Ta gọi những mối quan hệ kinh tế đó là
"Tài chính"
Những phân tích kể trên cho nhận xét rằng, trong những điều kiện lịch sử nhất
định, tài chính đã xuất hiện và tồn tại theo với sự xuất hiện và tồn tại của nền sản
xuất hàng hoá - tiền tệ và nhà nước. Do đó, có thể coi sản xuất hàng hoá - tiền tệ và
nhà nước là những tiền đề khách quan quyết định sự ra đời và tồn tại của tài chính.
Trải qua các hình thái kinh tế – xã hội khác nhau trong tiến trình phát triển c ủa
xã hội loài người, với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của kinh tế hàng hoá -tiền
tệ, hình thức tiền tệ đã trở thành hình thức chủ yếu của thu nhập và chi tiêu của nhà
nước cũng như mọi chủ thể khác trong việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ. Như
vậy, sự phát triển kinh tế hàng hoá tiền tệ đã tạo điều kiện khách quan cho sự mở
rộng các quan hệ tài chính. Nói khác đi, phạm vi của các quan hệ tài chính phụ thuộc
vào sự phát triển của các quan hệ hàng hoá - tiền tệ trong các mối quan hệ kinh tế
của xã hội.
Cũng cần nhận rõ rằng, trong tiến trình phát triển của xã hội loài người, thông
qua chính sách và cơ chế quản lý kinh tế của mình, nhà nước trong một đ ất nước
nhất định có lúc có tác động thúc đẩy, có lại có tác động kìm hãm sự phát triển c ủa
sản xuất hàng hoá -tiền tệ và do đó thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của tài
chính; đồng thời, mọi nhà nước đề luôn tìm cách sử dụng tài chính làm công cụ tham
gia phân phối sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân; tập trung các nguồn tài chính
vào tay nhà nước để đảm bảo cho các nhu cầu chi tiêu và hoạt động của nhà nước.
6
Tµi liÖu m«n häc tµi chÝnh TiÒn tÖ
Điều đó có nghĩa là nền sản xuất hàng hoá - tiền tệ và nhà nước là tiền đề phát
triển của tài chính. Đến một khi xã hội không còn nền sản xuất hàng hoá, không còn
tiền tệ và không còn nhà nước thì trong xã hội cũng không còn phạm trù tài chính
nữa. Vậy có thể nói tài chính là một phạm trù kinh tế, nó ra đời, phát triển và tồn tại
trên hai tiền đề là nền sản xuất hàng hoá - tiền tệ và nhà nước.
Trong hai tiền đề kể trên thì sản xuất hàng hoá - tiền tệ là nhân tố mang tính
khách quan, có ý nghĩa quyết định đối với sự ra đời, tồn tại và phát triển của tài chính
và nhà nước là nhân tố có ý nghĩa định hướng tạo ra hành lang và điều tiết sự phát
triển của tài chính.
1.4.2. BẢN CHẤT CỦA TÀI CHÍNH
Bản chất của tài chính được thể hiện thông qua các quan hệ kinh tế chủ yếu
trong phân phối tổng sản phẩm xã hội dưới các hình thức giá trị sau:
Quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và các
tầng lớp dân cư
Quan hệ kinh tế giữa các tổ chức tài chính trung gian với các tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội và các tầng lớp dân cư
Quan hệ kinh tế các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và các tầng lớp dân cư
với nhau và các quan hệ kinh tế trong nội bộ các chủ thể đó
Quan hệ kinh tế giữa các quốc gia với nhau
1.5. CHỨC NĂNG CỦA TÀI CHÍNH
1.5.1. CHỨC NĂNG PHÂN PHỐI
Chức năng phân phối của tài chính là một khả năng khách quan của phạm trù tài
chính. Con người nhận thức được và vận dụng khả năng khách quan đó đ ể tổ chức
việc phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị. Khi đó tài chính đ ược s ử d ụng
với tư cách là một công cụ phân phối .Nhờ có chức năng phân phối mà các nguồn lực
đại diện cho những bộ phận của cải xã hội được đưa vào các quỹ tiền tệ khác nhau,
để sử dụng cho các mục đích khác nhau, đảm bảo những nhu cầu và những lợi ích
khác nhau của đời sống xã hội.
Nghiên cứu về chức năng phân phối của tài chính ta cần làm rõ các vấn đề sau:
Thứ nhất : Tài chính phân phối cái gì ? Đối tượng phân phối của tài chính là của cải
xã hội dưới hình thức giá trị, là tổng thể các nguồn tài chính có trong xã h ội. (hay:
Các nguồn tài chính là cái mà tài chính phân phối )
Nguồn tài chính là gì ?
Xét về mặt nội dung thì nguồn tài chính bao gồm 4 bộ phận
Bộ phận của cải xã hội mới sáng tạo ra trong kỳ. Đó là tổng sản phẩm quốc
nội (GDP).
Bộ phận của cải xã hội còn tồn lại từ thời kỳ trước. Đó là phần tích luỹ trong
quá khứ của xã hội và dân cư.
Bộ phận của cải được chuyển từ nước ngoài vào và bộ phận của cải được
chuyển từ trong nước ra nước ngoài
Bộ phận tài sản, tài nguyên quốc gia có thể cho thuê, nhượng bán có thời hạn.
7
Tµi liÖu m«n häc tµi chÝnh TiÒn tÖ
Xét về mặt hình thức, nguồn tài chính có thể tồn tại dưới hai dạng
Nguồn tài chính hữu hình là nguồn tài chính được biểu hiện bằng hình thức giá
trị và hình thức hiện vật.
Dưới hình thức giá trị, nguồn tài chính có thể tồn tại dưới dạng tiền tệ (nội tệ,
ngoại tệ) và vàng. Nguồn tài chính tồn tại dưói dạng giá trị đang vận động thực tế
trong chu trình tuần hoàn của nền kinh tế. Nhờ sự vận động của các nguồn tài chính
này mà các quỹ tiền tệ được tạo lập và được sử dụng cho các mục đích khác nhau
Dưới hình thức hiện vật, nguồn tài chính có thể tồn tại dưới dạng bất động
sản, tài nguyên, đất đai.. gọi chung là tài sản. Nguồn tài chính dưới dạng hi ện v ật
được gọi là nguồn tài chính tiềm năng. Trong nền kinh tế thị trường tài sản có thể
chuyển hoá thành tiền một cách nhanh chóng và dẽ dàng. Khi tài sản thực hiện giá trị
nó sẽ biến thành các khối tiền tệ hoà vào các luồng tiền tệ của chu trình tuần hoàn
kinh tế và khi đó nguồn tài chính tiềm năng chuyển thành nguồn tài chính thực tế
Nguồn tài chính vô hình là nguồn tài chính tồn tại dưới dạng những sản phẩm
không có hình thái vật chất như: những dữ liệu, những thông tin, những phát minh,
sáng chế, bí quyết kỹ thuật. Những sản phẩm này bản thân chúng có giá tr ị và trong
nền kinh tế thị trường khi qua mua bán chúng có thể chuyển thành tiền. Do đó chúng
được coi là một bộ phận cấu thành của tổng thể các nguồn tài chính.
Thứ hai : Ai là chủ thể của sự phân phối này ? Chủ thể phân phối có thể là nhà nước
các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, các hộ gia đình hay cá nhân dân cư. Chủ thể
phân phối có thể xuất hiện trong các tư cách sau:
Chủ thể là người có quyền sở hữu nguồn tài chính.
Chủ thể là người có quyền sử dụng các nguồn tài chính.
Chủ thể là người có quyền lực chính trị.
Chủ thể là người chịu sự ràng buộc các quan hệ xã hội.
Thứ ba: Kết quả của phân phối tài chính là gì? Kết quả phân phối là các quỹ tiền tệ
được hình thành và được sử dụng
Thứ tư: Quá trình phân phối của tài chính diễn ra khi nào ?
Phân phối của tài chính là quá trình phân phối diễn ra một cách thường xuyên,
liên tục bao gồm cả phân phối lần đầu và phân phối lại. Phân phối lần đ ầu là s ự
phân phối được tiến hành trong lĩnh vực sản xuất cho những chủ thể tham gia vào
quá trình sáng tạo ra của cải vật chất hoặc thực hiện các dịch vụ trong các đ ơn v ị
sản xuất và dịch vụ. Phân phối lần đầu được thực hiện trước hết và chủ y ếu trong
khâu cơ sở của hệ thống tài chính (tài chính doanh nghiệp, tài chính hộ gia đình).
Trong phân phối lần đầu, giá trị sản phẩm xã hội trong lĩnh vực sản xuất đ ược chia
và được đưa vào các quỹ tiền tệ . Một phần để bù đắp những chi phí vật chất đã tiêu
hao trong quá trình sản xuất hoặc tiến hành dịch vụ. Một phần hình thành quỹ tiền
lương để trả lương cho người lao động. Một phần góp vào hình thành các quỹ bảo
hiểm. Một phần thu nhập dành cho các chủ sở hữu về vốn hay nguồn tài nguyên bao
gồm các cổ đông, các trái chủ, các ngân hàng.
Phân phối lại là tiếp tục phân phối những phần thu nhập cơ bản, những quỹ
tiền tệ được hình thành trong phân phối lần đầu ra phạm vi toàn xã hội ho ặc theo
những mục đích cụ thể hơn của các quỹ tiền tệ.
8
Tµi liÖu m«n häc tµi chÝnh TiÒn tÖ
Thứ năm: Tính khách quan của phân phối tài chính ? Sự cần thiết của phân phối l ại
bắt nguồn từ các đòi hỏi khách quan. Thứ nhất, để bảo đảm cho lĩnh vực không sản
xuất có nguồn tài chính (vốn tiền tệ) để tồn tại, duy trì hoạt động và phát triển. Thứ
hai, do đòi hỏi của việc chuyên môn hoá và phân công lao động xã hội. Thứ ba, đ ể
đảm bảo công bằng xã hội trong phân phối
Thứ sáu: Sự phân phối tài chính diễn ra đến bao giờ? Mỗi nguồn tài chính được hình
thành, trải qua quá trình phân phối chúng được di chuyển qua các luồng khác nhau để
tới những tụ điểm vốn khác nhau. Cuối cùng cũng đến giai đoạn chuyển hoá (Khi
chúng được sử dụng cho mục đích tiêu dùng ở thị trường tư liệu sản xuất) hoặc kết
thúc tồn tại ( Khi chúng được sử dụng cho mục đích tiêu dùng ở thị trường vật phẩm
tiêu dùng).
1.5.2. CHỨC NĂNG GIÁM ĐỐC
Chức năng giám đốc của tài chính cũng là một khả năng khách quan của phạm
trù tài chính. Con người nhận thức và vận dụng khả năng khách quan này của tài
chính để tổ chức công tác kiểm tra tài chính. Khi đó tài chính được sử dụng với tư
cách là một công cụ kiểm tra, đó là kiểm tra tài chính.
Giám đốc đối với quá trình thực hiện chức năng phân phối của tài chính. Và vì
phân phối các nguồn tài chính là phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị, do
đó giám đốc là kiểm tra bằng đồng tiền.
Chức năng giám đốc của tài chính là chức năng mà nhờ vào đó việc kiểm tra
bằng đồng tiền được thực hiện đối với quá trình vận động của các nguồn tài chính
để tạo lập các quỹ tiền tệ hay sử dụng chúng theo các mục đích đã định.
Đối tượng của giám đốc tài chính là quá trình vận động của các nguồn tài chính,
quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ.
Chủ thể của giám đốc tài chính cũng chính là các chủ thể phân phối. Bởi vì, để
các quá trình phân phối đạt tới tối đa tính mục đích, tính hợp lý, tính hiệu quả, bản
thân các chủ thể phân phối phải tiến hành kiểm tra xem xét các quá trình phân phối
đó.
Kết quả của giám đốc tài chính là phát hiện ra những mặt được và chưa đ ược
của quá trình phân phối, từ đó giúp tìm ra các biện pháp hiệu chỉnh các quá trình vận
động của các nguồn tài chính, quá trình phân phối của cải xã hội theo các mục tiêu đã
định nhằm đạt hiệu quả cao của việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ.
Đặc điểm của giám đốc tài chính là giám đốc bằng đồng tiền. Giám đốc tài
chính là loại giám đốc toàn diện, thường xuyên, liên tục và rộng rãi. Giám đ ốc tài
chính được thực hiện thông qua việc phân tích các chỉ tiêu tài chính, đó là những ch ỉ
tiêu mang tính chất tổng hợp, phản ánh đồng bộ các mặt hoạt động khác nhau c ủa
một đơn vị cũng như của toàn bộ nền kinh tế.
Mối quan hệ giữa hai chức năng
Là những thuộc tính khách quan vốn có bên trong của phạm trù tài chính, chức
năng phân phối và chức năng giám đốc của tài chính có mối liên hệ hữu cơ gắn bó
với nhau. Sự hiện diện của chức năng phân phối đòi hỏi sự cần thiết của chức năng
giám đốc để đảm bảo cho quá trình phân phối được đúng đắn, hợp lý hơn theo mục
tiêu đã định. Công tác giám đốc có thể diễn ra đồng thời với công tác phân phối, v ới
quá trình tổ chức sự vận động của các nguồn tài chính, quá trình tạo lập và sử dụng
9
Tµi liÖu m«n häc tµi chÝnh TiÒn tÖ
các quỹ tiền tệ, cũng có thể diễn ra độc lập tương đối, không đi liền ngay với hành
động phân phối, mà có thể đi trước hành động phân phối, hoặc có thể được thực
hiện sau khi hành động phân phối đã kết thúc.
1.6. HỆ THỐNG TÀI CHÍNH
1.6.1. QUAN NIỆM HỆ THỐNG TÀI CHÍNH VÀ CÁC BỘ PHẬN TÀI CHÍNH
Hệ thống tài chính là tổng thể các luồng vận động của các nguồn tài chính
trong các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế quốc dân, nhưng có quan hệ hữu cơ với
nhau về việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ ở các chủ thể kinh tế -xã hội
hoạt động trong các lĩnh vực đó.
Hệ thống tài chính có vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế là đảm bảo
nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế xã hội. Hệ thống tài chính của một quốc gia là
một thể thống nhất do nhiều bộ phận tài chính hợp thành.
Có thể chỉ ra các tiêu thức chủ yếu của một bộ phận tài chính là:
Một bộ phận tài chính phải là một điểm hội tụ của các nguồn tài chính. Nói
cách khác, được coi là một bộ phận tài chính nếu ở đó có các quỹ ti ền t ệ đ ặc thù
được tạo lập và được sử dụng. Nơi nào không có việc tạo lập và sử dụng một quỹ
tiền tệ riêng thì không được coi là một bộ phận tài chính độc lập.
Được coi là một bộ phận tài chính nếu ở đó các hoạt động tài chính, sự vận
động của các nguồn tài chính, việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ luôn gắn liền
với một chủ thể phân phối cụ thể, xác định.
Được xếp vào dùng một bộ phận tài chính nếu các hoạt động tài chính có cùng
tính chất, đặc điểm, vai trò, có tính đồng nhất về hình thức các quan hệ tài chính và
tính mục đích của quỹ tiền tệ trong lĩnh vực hoạt động.
1.6.2. CẤU TRÚC CỦA HỆ THỐNG TÀI CHÍNH
Cấu trúc hệ thống tài chính gồm những tụ điểm vốn và bộ phận dẫn vốn
được tổ chức theo sơ đồ sau
Tài chính Ng©n
Doanh nghiệp s¸ch
Nhµ n-
íc
ThÞ tr-êng tµi
chÝnh vµ Tæ chøc
tµi chÝnh trung
gian
Tµi chÝnh d©n Tµi
c- chÝnh
a. Tài vµ c¸c tæ ®èi
chính chøc x· héi ngo¹i
doanh nghiệp
Tại đây nguồn tài chính xuất hiện và đây cũng là nơi thu hút phần quan trọng
các nguồn tài chính trong nền kinh tế. Trong hệ thống tài chính thì tài chính doanh
10
Tµi liÖu m«n häc tµi chÝnh TiÒn tÖ
nghiệp có khả năng tạo ra các nguồn tài chính khác. Cho nên tài chính doanh nghiệp
có tác động lớn đến đời sống xã hội, đến sự phát triển của nền sản xuất
Tài chính doanh nghiệp có quan hệ với các bộ phận khác của hệ thống tài chính
trong quá trình hình thành và sử dụng vốn. Quan hệ với tài chính hộ gia đình thông
qua trả lương, thưởng, lợi tức cổ phần, trái phiếu; nhận vốn góp bằng việc dân cư
mua cổ phiếu, trái phiếu...Quan hệ với ngân sách thông qua nộp thuế; và ngân sách
nhà nước cấp vốn cho doanh nghiệp. Quan hệ với các tổ chức tài chính trung gian
thông qua việc thu hút nguồn tài chính để tạo vốn hoặc trả nợ gốc trả lãi vay, gửi
tiền, lấy lãi.. Quan hệ giữa tài chính doanh nghiệp với các bộ phận tài chính khác có
thể là trực tiếp với nhau, cũng có thể thông qua thị trường tài chính.
b. Ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước gắn liền với các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước,
đồng thời là phương tiện vật chất cần thiết để hệ thống chính quyền nhà nước thực
hiện được nhiệm vụ của mình. Trong nền kinh tế thị trường, ngân sách nhà nước còn
có vai trò to lớn trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội. Đó là vai trò đ ịnh
hướng phát triển sản xuất, điều tiết thị trường, bình ổn giá cả, điều chỉnh đ ời sống
xã hội...
Ngân sách nhà nước cần có các nguồn vốn được tập trung từ các tụ điểm vốn
thông qua các chính sách thu như thuế, phí, lệ phí...
Ngân sách nhà nước thực hiện các khoản chi cho tiêu dùng thường xuyên và
chi đầu tư kinh tế. Việc cấp phát vốn ngân sách nhà nước cho các mục đích khác
nhau sẽ làm tăng nguồn vốn ở các tụ điểm vốn;
Hoạt động thu chi ngân sách nhà nước sẽ nẩy sinh mối quan hệ giữa nhà nước
với các tổ chức kinh tế, với các tầng lớp dân cư, giữa ngân sách nhà nước với các bộ
phận khác
c. Tài chính hộ gía đình và các tổ chức xã hội
Các tổ chức xã hội là khái niệm chung để chỉ các tổ chức chính trị - xã hội, các
đoàn thể xã hội, các hội nghề nghiệp. Các tổ chức này còn được gọi là các tổ chức
phi chính phủ.
Các tổ chức xã hội có quỹ tiền tệ riêng để đảm bảo hoạt động của mình.
Các quỹ tiền tệ ở đây được hình thành từ nhiều nguồn rất đa dạng như: Đóng
góp hội phí của các thành viên tham gia tổ chức. Quyên góp, ủng hộ, tặng, biếu c ủa
các tập thể và cá nhân. Tài trợ từ nước ngoài. Tài trợ của chính phủ và nguồn từ
những hoạt động có thu của các tổ chức này.
Các quỹ tiền tệ của các tổ chức xã hội chủ yếu được sử dụng cho mục đích
tiêu dùng trong hoạt động của các tổ chức đó. Khi các quỹ chưa được sử dụng, số dư
ổn định của chúng có thể tham gia thị trường tài chính thông qua các quỹ tín dụng
hoặc các hình thức khác (mua tín phiếu, trái phiếu, ).
Các quỹ tương hỗ trong dân cư (như quỹ bảo thọ, quỹ bảo trợ quốc phòng, an
ninh, ) đều là những quỹ có cùng tính chất với các quỹ của các tổ chức xã hội.
Trong dân cư (các hộ gia đình) các quỹ tiền tệ được hình thành từ tiền lương,
tiền công, thu nhập của các thành viên trong gia đình do lao động hay sản xuất kinh
doanh; từ nguồn thừa kế tài sản; từ nguồn biếu tặng lẫn nhau trong quan hệ gia đình
11
Tµi liÖu m«n häc tµi chÝnh TiÒn tÖ
hay quan hệ xã hội ở trong và từ ngoài nước; từ các nguồn khác (như lãi tiền gửi
ngân hàng, lợi tức từ những khoản góp vốn, mua trái phiếu, cổ phiếu, )
Quỹ tiền tệ của các hộ gia đình được sử dụng chủ yếu cho mục đích tiêu dùng
của gia đình. Một phần tham gia vào quỹ ngân sách nhà nước dưới hình thức nộp
thuế, phí, lệ phí. Tham gia vào các quỹ bảo hiểm theo các mục đích bảo hiểm khác
nhau (bảo hiểm tài sản, bảo hiểm con người). Tham gia vào các quỹ tín dụng dưới
hình thức gửi tiền tiết kiệm. Đầu tư vào sản xuất kinh doanh trong phạm vi kinh tế
hộ gia đình. Tham gia vào thị trường tài chính qua việc góp cổ phần, mua cổ phiếu,
trái phiếu... Tài chính hộ gia đình có đặc điểm là phân tán và đa dạng. Nguồn tài
chính không quy tụ vào những tụ điểm lớn mà phân bố rải rác trong dân cư. Tài chính
dân cư có quan hệ với các bộ phận khác trong hệ thống có thể thường xuyên hoặc
không thường xuyên
d. Tài chính đối ngoại
Trong nền kinh tế thị trường khi các quan hệ kinh tế được quốc tế hoá thì hệ
thống tài chính cũng là hệ thống mở, và quan hệ tài chính đối ngoại rất quan trọng.
Các quan hệ này không tập trung vào một tụ điểm mà nó phân tán, đan xen trong các
quan hệ kinh tế khác. Nhưng do tính chất đặc biệt và vai trò quan trọng của nó nên ta
xếp nó thành một bộ phận tài chính trongnhệ thống tài chính có tính chất đ ộc l ập
tương đối
Các kênh vận động của tài chính đối ngoại là: Quan hệ viện trợ hoặc vay vốn
nước ngoài cho quỹ ngân sách nhà nước, cho các doanh nghiệp. Quan hệ về tiếp
nhận vốn đầu tư nước ngoài giữa các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước. Quá trình
thanh toán xuất nhập khẩu giữa các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước. Việc thực
hiện các hợp đồng tái bảo hiểm, chuyển phí bảo hiểm, thanh toán bảo hiểm đối với
các pháp nhân nước ngoài và ngược lại. Quá trình chuyển tiền và tài sản giữa các cá
nhân trong nước với nước ngoài
e. Bộ phận dẫn vốn: Thị trường tài chính và các tổ chức tài chính trung gian
Bộ phận dẫn vốn thực hiện chức năng dẫn vốn giữa các tụ điểm vốn trong
hệ thống.
Hoạt động của thị trường tài chính là dẫn vốn từ người có tiền nhà rỗi sang
người cần vốn qua hoạt động tài chính trực tiếp. Hoạt động dẫn vốn trực tiếp diễn
ra như sau: Người cần vốn bán ra thị trường các công cụ nợ, các cổ phiếu, hoặc thực
hiện các món vay thế chấp. Người có vốn sẽ sử dụng tiền của mình mua các công cụ
nợ, các cổ phiếu. đó. Vậy là vốn được chuyển trực tiếp từ người có vốn sang người
cần vốn
Các trung gian tài chính thực hiện việc dẫn vốn thông qua hoạt động gián
tiếp. Trước hết các trung gian tài chính huy động vốn từ người có vốn bằng nhiều
hình thức để tạo vốn kinh doanh cho mình. Sau đó họ sử dụng vốn kinh doanh này
cho những người cần vốn vay lại hoặc thực hiện các đầu tư khác nhau
Như vậy các trung gian tài chính tập trung được các nguồn vốn nhỏ từ các hộ
gia đình, các tổ chức kinh tế thành một lượng vốn lớn, đáp ứng được các nhu cầu về
vốn lớn nhỏ khác nhau. Khả năng này thị trường tài chính không thể làm được hoặc
có làm thì hiệu quả không cao. Trung gian tài chính bao gồm các ngân hàng th ương
mại, các tổ chức tài chính trung gian phi ngân hàng : công ty bảo hiểm, quỹ trợ c ấp,
công ty tài chính, quỹ đầu tư....
12
Tµi liÖu m«n häc tµi chÝnh TiÒn tÖ
Chương 2. NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
2.1. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
2.1.1 KHÁI NIỆM
Luật ngân sách nhà nước đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt nam khoá IX, kỳ họp lần thứ 9 thông qua ngày 20 tháng 3 năm 1996 cũng có ghi:
"Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu chi của nhà nước trong dự toán đã
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm
để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước".
Xét về phương diện pháp lý: Ngân sách nhà nước là một đạo luật dự trù các
khoản thu, chi bằng tiền của nhà nước trong một thời gian nhất định, thường là một
năm. Đạo luật này được cơ quan lập pháp của quốc gia ban hành.
Xét về bản chất kinh tế: Mọi hoạt động của ngân sách nhà nước đều là hoạt
động phân phối các nguồn tài nguyên quốc gia. Về nội dung kinh tế, ngân sách nhà
nước thể hiện các mối quan hệ kinh tế trong phân phối. Đó là hệ thống các quan hệ
kinh tế giữa một bên là nhà nước với một bên là các tổ chức kinh tế xã hội, các tầng
lớp dân cư.
Xét về tính chất xã hội: Ngân sách nhà nước luôn luôn là một công cụ kinh tế
của nhà nước, nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà
nước.
2.1.2. VAI TRÒ CỦA NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
Trong hệ thống tài chính thống nhất, ngân sách nhà nước là khâu tài chính tập
trung giữ vị trí chủ đạo. Ngân sách nhà nước cũng là khâu tài chính được hình thành
sớm nhất, nó ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với sự tồn tại của hệ thống quản
lý nhà nước và sự phát triển của kinh tế hàng hoá, tiền tệ. Vai trò tất yếu của ngân
sách Nhà nước ở mọi thời đại và trong mọi mô hình kinh tế đều rất quan tr ọng.
Trong cơ chế thị trường. Ngân sách nhà nước không chỉ đóng vai trò thu chi đ ơn
thuần mà còn là công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế xã hội. Cụ thể là:
a. Điều tiết trong lĩnh vực kinh tế
Chuyển sang cơ chế thị trường, trong lĩnh vực kinh tế, ngân sách nhà nước định
hướng việc hình thành cơ cấu kinh tế mới, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh
và chống độc quyền. Điều đó được thực hiện thông qua các chính sách thuế ( gi ảm,
miễn, hoàn thuế) và chính sách chi tiêu (cấp vốn) của ngân sách nhà nước để vừa
kích thích và vừa gây sức ép với các doanh nghiệp, nhằm kích thích sự tăng tr ưởng
kinh tế.
b. Điều tiết trong lĩnh vực xã hội
Trong cơ chế thị trường hiện nay, việc thực hiện các nhiệm vụ có tính chất
chung toàn xã hội, ngân sách nhà nước có vai trò quan trọng hàng đầu. S ự tồn tại và
hoạt động có hiệu quả của bộ máy nhà nước, lực lượng quân đội, công an. Sự phát
triển của các hoạt động xã hội, y tế, văn hoá có ý nghĩa quyết đ ịnh. Việc thực hi ện
các nhiệm vụ này về cơ bản thuộc về nhà nước và không vì mục tiêu lợi nhuận.
Ngoài ra, hàng năm chính phủ vẫn có sự chú ý đặc biệt cho tầng lớp dân cứ có thu
nhập thấp nhất. Như các loại trợ giúp trực tiếp cho người có thu nhập thấp, người
có hoàn cảnh đặc biệt. Các loại trợ giúp gián tiếp dưới hình thức trợ giá cho các mặt
13
Tµi liÖu m«n häc tµi chÝnh TiÒn tÖ
hàng thiết yếu (lương thực, điện, nước, ...), Các khoản chi phí đ ể thực hiện chính
sách dân số, chính sách việc làm, các chương trình quốc gia lớn về chống mù ch ữ,
chống dịch bệnh, các chi phí cho việc cung cấp các hàng hoá khuyến dụng, hàng hoá
công cộng, ...
Thuế cũng được sử dụng để thực hiện vai trò tái phân phối thu nhập, đảm bảo
công bằng xã hội. Việc kết hợp giữa thuế trực thu và thuế gián thu, ngân sách Nhà
nước sử dụng chính sách thuế để điều tiết thu nhập của tầng lớp có thu nhập cao,
điều tiết tiêu dùng, bảo đảm thu nhập hợp lý của các tầng lớp người lao động.
c. Điều chỉnh trong lĩnh vực thị trường
Trong nền kinh tế thị trường. Giá cả chủ yếu phụ thuộc vào quan hệ cung cầu
hàng hoá trên thị trường. Để ổn định giá cả, chính phủ có thể tác động vào cung hoặc
cầu hàng hoá trên thị trường thông qua thuế và thông qua chính sách chi tiêu của ngân
sách nhà nước. Bằng nguồn cấp phát của chi tiêu ngân sách nhà nước hàng năm, các
quỹ dự trữ nhà nước về hàng hoá và tài chính được hình thành. Trong trường hợp thị
trường có nhiều biến động, giá cả lên quá cao hoặc xuống quá thấp, nhờ lượng dự
trữ hàng hoá và tiền, chính phủ có thể điều hoà quan hệ cung - cầu hàng hoá, vật tư
để bình ổn giá cả trên thị trường, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và ổn đ ịnh sản
xuất.
Chính phủ sử dụng ngân sách nhà nước nhằm khống chế và đẩy lùi nạn l ạm
phát một cách có hiệu quả bằng cách cắt giảm các khoản chi tiêu ngân sách, chống
tình trạng bao cấp, lãng phí trong chi tiêu, đồng thời có thể tăng thuế tiêu dùng đ ể
hạn chế cầu, mặt khác có thể giảm thuế với đầu tư, kích thích sản xuất phát triển
để tăng cung. ngoài ra, việc chính phủ phát hành các công cụ nợ để vay nhân dân
nhằm bù đắp thiếu hụt của ngân sách nhà nước cũng góp phần to lớn vào việc làm
giảm tốc độ lạm phát trong nền kinh tế quốc dân.
2.2. THU VÀ CHI CỦA NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
2.2.1. THU CỦA NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
Thu ngân sách nhà nước là việc nhà nước dùng quyền lực của mình đ ể tập
trung một phần nguồn tài chính quốc gia hình thành quỹ ngân sách nhà nước nh ằm
thoả mãn các nhu cầu của nhà nước.
a. Đặc điểm của Thu ngân sách Nhà nước
Xét về mặt nội dung kinh tế, thu ngân sách nhà nước có những đặc điểm sau
Thu ngân sách nhà nước chứa đựng các quan hệ phân phối nảy sinh trong quá
trình nhà nước dùng quyền lực chính trị để tập trung một bộ phận tổng sản phẩm
quốc dân để hình thành quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước.
Sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước là điều kiện xuất hiện các khoản
thu ngân sách nhà nước. Các khoản thu ngân sách nhà nước là tiền đề vật chất không
thể thiếu được để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.
Cơ cấu các khoản thu ngân sách nhà nước đều gắn liền với chức năng, nhiệm
vụ và quyền lực chính trị của nhà nước.
Thu ngân sách nhà nước là gắn chặt với thực trạng kinh tế và sự vận động của
các phạm trù giá trị như giá cả, lãi suất, thu nhập. Sự vận động của các phạm trù đó
14
Tµi liÖu m«n häc tµi chÝnh TiÒn tÖ
vừa tác động đến sự tăng giảm mức thu, vừa đặt ra yêu cầu nâng cao tác dụng đi ều
tiết của các công cụ thu ngân sách nhà nước.
b. Phân loại thu ngân sách nhà nước
Thu trong cân đối ngân sách nhà nước gồm có : Thu thuế, phí, lệ phí. Thu v ề
bán và cho thuê các tài sản thuộc sở hữu của nhà nước. Các khoản thu từ hoạt đ ộng
kinh tế của nhà nước . Thu từ hoạt động sự nghiệp. Thu hồi quỹ dự trữ nhà nước.
Thu tiền sử dụng đất, từ hoa lợi công sản và đất công ích. Các khoản huy động đóng
góp của các tổ chức, cá nhân ở trong, ngoài nước. Các khoản di sản nhà nước đ ược
hưởng. Thu kết dư ngân sách năm trước. Các khoản tiền phạt, tịch thu. Các khoản
thu khác theo quy định của pháp luật. Các khoản viện trợ không hoàn lại
Thu để bù đắp sự thiếu hụt của ngân sách nhà nước, bao gồm các khoản vay
trong nước và vay nước ngoài, khi các khoản chi ngân sách nhà nước vượt quá các
khoản thu trong cân đối của ngân sách. Bao gồm vay trong nước và vay nước ngoài .
Các khoản vay trong nươc được thực hiện dưới hình thức phát hành tín phiếu kho
bạc, trái phiếu chính phủ. Các khoản vay nước ngoài được thực hiện thông qua các
khoản viện trợ có hoàn lại, vay nợ của chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế và
các công ty.
2.2.2. CHI CỦA NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
Chi của ngân sách nhà nước là quá trình phân phối, sử dụng quỹ ngân sách nhà
nước theo những nguyên tắc nhất định cho việc thực hiện các nhiệm vụ của nhà
nước. Thực chất, chi ngân sách nhà nước chính là việc cung cấp các phương tiện tài
chính cho các nhiệm vụ của nhà nước.
a. Đặc điểm chi ngân sách
Chi ngân sách nhà nước luôn gắn chặt với những nhiệm vụ kinh tế chính trị, xã
hội mà chính phủ phải đảm nhận trước mỗi quốc gia. Mức độ, phạm vi chi tiêu ngân
sách Nhà nước phụ thuộc vào tính chất nhiệm vụ của chính phủ trong mỗi thời kỳ.
Tính hiệu quả của các khoản chi ngân sách Nhà nước được thể hiện ở tầm vĩ
mô và mang tính toàn diện cả về hiệu quả kinh tế trực tiếp, hiệu quả về mặt xã hội
và chính trị, ngoại giao.
Xét về mặt tính chất, phần lớn các khoản chi ngân sách Nhà nước đều là các
khoản cấp phát không hoàn trả trực tiếp mà mang tính bao cấp.
b. Phân loại chi ngân sách
Chi ngân sách chia ra hai loại là chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển
Chi thường xuyên là những khoản chi để tài trợ cho hoạt động của các cơ quan
nhà nước nhằm duy trì đời sống quốc gia. Về nguyên tắc, các khoản chi này phải
được tài trợ bằng các khoản thu thu trong cân đối của ngân sách nhà nước. Gồm có:
- Chi về chủ quyền quốc gia: tức là các chi phí mà các cơ quan nhà nước cần
phải thực hiện để bảo vệ chủ quyền quốc gia, trên các lĩnh vực quốc phòng, an ninh,
ngoại giao, thông tin đại chúng, ...
- Chi phí liên quan đến sự điều hành và duy trì hoạt động của các cơ quan nhà
nước để thực hiện những nhiệm vụ được giao phó
15
Tµi liÖu m«n häc tµi chÝnh TiÒn tÖ
- Chi phí do sự can thiệp của nhà nước vào các hoạt động kinh tế, văn hoá, xã
hội để cải thiện đời sống nhân dân. Những chi phí này thuộc loại chi phí chuyển
nhượng, như: trợ cấp cho các cơ quan nhà nước để thực hiện các hoạt đ ộng s ự
nghiệp, trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội, hỗ trợ quỹ bảo hiểm xã hội, trả
lãi, nợ của chính phủ, ...
Chi đầu tư phát triển là tất cả các chi phí làm tăng thêm tài sản quốc gia nh ư :
Mua sắm máy móc, thiết bị và dụng cụ. Xây dựng mới và tu bổ công sở, đ ường sá,
kiến thiết đô thị. Cấp vốn cho các doanh nghiệp nhà nước. Góp vốn vào các công ty,
vào các đơn vị, tổ chức sản xuất kinh doanh...
2.3. THÂM HỤT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
2.3.1. KHÁI NIỆM THÂM HỤT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
Thâm hụt ngân sách hà nước (hay còn gọi là thiếu hụt ngân sách nhà nước, bội
chi ngân sách nhà nước) là tình trạng khi tổng chi tiêu của ngân sách nhà nước vượt
quá các khoản thu không mang tính hoàn trả (thu trong cân đối) của ngân sách nhà
nước. Để phản ánh mức độ thâm hụt ngân sách nhà nước, người ta thường sử dụng
chỉ tiêu tỷ lệ thâm hụt so với GDP hoặc so với tổng số thu trong ngân sách nhà nước.
2.3.2. NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN THÂM HỤT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
Trong lịch sử, thâm hụt ngân sách hà nước đã trở thành hiện tượng khá phổ
biến trong các nước đang phát triển và những nước kinh tế chậm phát triển.Tuy
nhiên, ở mỗi nước, những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thâm hụt ngân sách nhà
nước khác nhau. Trước hết đó là những nguyên nhân mang tính khách quan
-Do diễn biến của chu kỳ kinh doanh
-Do tác động của điều kiện tự nhiên, của các yếu tố bất khả kháng.
Thứ hai là những nguyên nhân mang tính chủ quan, thuộc về trình độ quản lý và
điều hành ngân sách nhà nước.
2.3.3 ẢNH HƯỞNG CỦA THÂM HỤT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
Tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước với tỷ lệ cao và triền miên sẽ làm tăng
lãi suất thị trường. Cản trở đầu tư. Thúc đẩy tình trạng nhập siêu. Khó khăn cho việc
tìm kiếm việc làm. Đời sống của người lao động gặp khó khăn
2.3.4. MỘT SỐ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG THÂM HỤT NGÂN
SÁCH NHÀ NƯỚC
Để khắc phục tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước, chính phủ các nước đã
nghiên cứu và sử dụng nhiều giải pháp khác nhau như: Tăng thu, giảm chi ngân sách
nhà nước. Phát hành tiền để bù đắp bội chi. Sử dụng dự trữ ngoại tệ. Vay trong
nước và nước ngoài.
Mỗi giải pháp trên đây đều có những tác dụng và những mặt hạn chế nhất định,
cần tuỳ thuộc vào những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của nền kinh tế đất nước
để lựa chọn những giải pháp thích hợp. Tuy nhiên, nhìn toàn diện, thực hiện tốt công
tác quản lý và điều hành ngân sách nhà nước vẫn là biện pháp tốt nhất cho các quốc
gia để hạn chế, khắc phục tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước.
2.4. TỔ CHỨC HỆ THỐNG VÀ PHÂN CẤP NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
2.4.1. TỔ CHỨC HỆ THỐNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
16
Tµi liÖu m«n häc tµi chÝnh TiÒn tÖ
Ngân sách nhà nước là một hệ thống các quan hệ kinh tế trong lĩnh lực phân
phối giữa các thành viên xã hội. Các quan hệ kinh tế thuộc phạm vi ngân sách nhà
nước không hoạt động một cách riêng lẻ, rời rạc mà có mối quan hệ ràng buộc, tác
động qua lại lẫn nhau tạo thành hệ thống ngân sách nhà nước.
Nhìn chung ở các nước trên thế giới, hệ thống ngân sách nhà nước đều được tổ
chức phù hợp với hệ thống hành chính theo hiến pháp quy định. Thế giới có 2 mô
hình tổ chức hành chính là: mô hình nhà nước liên bang và mô hình nhà nước thống
nhất.
+ Ở những nước có Tổ chức hành chính liên bang (Mỹ, Canađa, Đ ức, ...), hệ
thống ngân sách Nhà nước được tổ chức thành 3 cấp: ngân sách liên bang, ngân sách
bang và ngân sách địa phương.
+ Ở các nước có mô hình tổ chức hành chính thống nhất (Anh, Pháp, Nhật, ...)
hệ thống ngân sách Nhà nước gồm ngân sách trung ương và ngân sách của các cấp
chính quyền địa phương.
+ Ở Việt nam, có 4 cấp hành chính là: trung ương, tỉnh (và thành phố trực thuộc
trung ương), huyện (và cấp tương đương), xã (và cấp tương đương), tức là có chính
quyền trung ương và các chính quyền địa phương (tỉnh, huyện, xã). ở mỗi cấp chính
quyền địa phương vẫn tồn tại các uỷ ban nhân dân và hội đồng nhân dân, trong đó
hội đồng nhân dân có nhiệm vụ ra nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội
và ngân sách của địa phương.
Về tổ chức hệ thống ngân sách nhà nước ở nước ta, luật ngân sách nhà nước
quy định: "Ngân sách nhà nước bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách các cấp
chính quyền địa phương (ngân sách địa phương)".
Ngân sách nhà nước ở nước ta là một thể thống nhất bao gồm toàn bộ các
khoản thu và chi của nhà nước trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ của nhà nước. Sự thống nhất thể hiện là: Dự toán ngân sách và quyết toán
ngân sách hàng năm trình quốc hội là bao gồm tất cả các khoản thu chi của ngân sách
trung ương và ngân sách địa phương. ở địa phương, dự toán ngân sách và quyết toán
ngân sách địa phương hàng năm trình hội đồng nhân dân tỉnh là bao gồm tất cả các
khoản thu chi của tỉnh và huyện.
2.4.2. PHÂN CẤP NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
Phân cấp ngân sách nhà nước, là giải quyết tất cả các mối quan hệ giữa chính
quyền nhà nước trung ương với các cấp chính quyền địa phương có liên quan tới
hoạt động của ngân sách nhà nước. Nội dung là giải quyết các quan hệ sau:
Quan hệ về chế độ, chính sách (kể cả chế độ kế toán và quyết toán ngân sách).
Làm rõ: mỗi cấp chính quyền nhà nước có quyền ban hành những loại chế độ, chính
sách, định mức nào liên quan đến hoạt động ngân sách nhà nước. Giải quyết tốt mối
quan hệ này sẽ khắc phục được tình trạng rối loạn trong quản lý và điều hành ngân
sách nhà nước.
Quan hệ về vật chất, tức là quan hệ trong việc phân chia nhiệm vụ chi và
nguồn thu cũng như trong cân đối ngân sách của các cấp chính quyền nhà nước.
Theo chế độ phân cấp ngân sách nhà nước hiện nay được quy định tại các điều
khoản trong chương III của luật ngân sách nhà nước, mỗi cấp ngân sách đều có các
khoản thu được hưởng trọn vẹn 100% và các khoản thu được phân chia theo tỷ lệ %
17
Tµi liÖu m«n häc tµi chÝnh TiÒn tÖ
nhất định. Riêng ngân sách các địa phương (tỉnh, huyện, xã) còn được khoản thu tr ợ
cấp trực tiếp từ ngân sách cấp trên.
Về chi tiêu, mỗi cấp ngân sách đều có các khoản chi thường xuyên và chi đầu
tư tuỳ thuộc vào phạm vi thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mỗi cấp chính
quyền nhà nước theo luật định.
Quan hệ chu trình ngân sách, tức là quan hệ về quản lý trong chu trình vận
động của ngân sách nhà nước, từ khâu lập ngân sách đến chấp hành và quy ết toán
ngân sách. Trong hệ thống các mối quan hệ này còn bao gồm cả quan hệ trong kiểm
tra và thanh tra ngân sách nhà nước.
2.4.3 NĂM NGÂN SÁCH VÀ CHU TRÌNH NGÂN SÁCH
Năm ngân sách (hay còn gọi là năm tài chính, tài khoá) là giai đoạn mà trong đó
dự toán thu - chi tài chính của nhà nước đã được phê chuẩn có hiệu lực thi hành.
Hiện nay ở tất cả các nước trên thế giới, thời gian cho 1 năm ngân sách bằng
với thời gian của 1 năm dương lịch (12 tháng). Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế, chính
trị xã hội ở mỗi nước khác nhau nên thời điểm bắt đầu và kết thúc của 1 năm ngân
sách giữa các nước có sự khác nhau. ở Việt nam, năm ngân sách được tính từ 1/1 đến
31/12 năm dương lịch.
Chu trình ngân sách chỉ toàn bộ các hoạt động từ khâu lập dự toán ngân sách
đến khâu chấp hành và cuối cùng là quyết toán ngân sách nhà nước. Do đó, thời gian
của 1 chu trình ngân sách (tính từ lúc lập dự toán cho đến khi quyết toán ngân sách)
không trùng với năm ngân sách và dài hơn thời gian của 1 năm ngân sách.
18
Tµi liÖu m«n häc tµi chÝnh TiÒn tÖ
Chương 3. TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
3.1. KHÁI NIỆM TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
Để tiến hành sản xuất kinh doanh thì nhà kinh doanh phải có đ ầy đ ủ các yếu
tố của quá trình sản xuất kinh doanh. Để có các yếu tố đó, doanh nghiệp cần có tiền
ứng ra để mua sắm, xây dựng. Số tiền ứng trước đó gọi là vốn của doanh nghiệp.
Với số tiền ban đầu đó doanh nghiệp sẽ tổ chức cho nó vận động. Chính sự vận
động biến đổi hình thái như trên của vốn tạo ra quá trình sản xuất kinh doanh c ủa
doanh nghiệp. Trong quá trình vận động của vốn, doanh nghiệp phải có những mối
quan hệ kinh tế với môi trường. Đó là: Các mối quan hệ giữa doanh nghiệp và nhà
nước. Các mối quan hệ giữa doanh nghiệp với các tổ chức, cá nhân trên các thị
trường như thị trường hàng hoá, thị trường sức lao động, thị trường tài chính. Các
mối quan hệ phát sinh trong nội bộ của doanh nghiệp.
Vậy: Tài chính doanh nghiệp là hệ thống các mối quan hệ kinh tế dưới hình
thái tiền tệ giữa doanh nghiệp và môi trường xung quanh nó, những mối quan hệ này
nảy sinh trong quá trình tạo ra và phân chia các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp.
3.2. CHỨC NĂNG TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
3.2.1. CHỨC NĂNG PHÂN PHỐI
Chức năng phân phối của tài chính doanh nghiệp là một khả năng khách quan
của phạm trù tài chính. Chủ doanh nghiệp vận dụng khả năng khách quan đó để tổ
chức phân phối nguồn tài chính của doanh nghiệp .
Phân phối tài chính doanh nghiệp là phân phối các nguồn lực tài chính của
doanh nghiệp trong quá trình tạo lập và sử dụng vốn của doanh nghiệp. Chủ thể
phân phối là chủ doanh nghiệp với tư cách là người chủ sở hữu, người có quyền sử
dụng các nguồn tài chính, và nhà nước với tư cách là người có quy ền l ực chính tr ị...
cũng tham gia phân phối nguồn tài chính của doanh nghiệp. Kết quả phân phối là các
quỹ tiền tệ của doanh nghiệp được hình thành và sử dụng. Quá trình phân phối của
tài chính doanh nghiệp diễn ra đến khi nào doanh nghiệp còn tồn tại.
3.2.2. CHỨC NĂNG GIÁM ĐỐC
Chức năng giám đốc của tài chínhdoanh nghiệp cũng là một khả năng khách
quan của phạm trù tài chính. Chủ doanh nghiệp nhận thức và vận dụng khả năng này
để tổ chức công tác kiểm tra tài chính doanh nghiệp. Khi đó tài chính đ ược s ử d ụng
với tư cách là một công cụ kiểm tra tài chính
Thực hiện chức năng giám đốc của tài chính doanh nghiệp là giám đốc quá
trình vận động của các nguồn tài chính của doanh nghiệp mà cụ thể là quá trình tạo
lập và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp. Thông qua việc phân tích tình hình
tài chính của doanh nghiệp, phát hiện ra những ưu, nhược điểm, những hạn chế, tồn
tại để tìm biện pháp khắc phục, để tình hình tài chính của doanh nghiệp tốt hơn.
3.3. NGUỒN VỐN CỦA DOANH NGHIỆP
3.3.1. KHÁI NIỆM
a.Vốn của doanh nghiệp
Để tiến hành sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải có đủ các yếu tố của quá
trình sản xuất kinh doanh. Đó là sức lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao
19
Tµi liÖu m«n häc tµi chÝnh TiÒn tÖ
động. Để có các yếu tố đó thì phải có tiền để mua sắm, xây dựng. Nghĩa là phải có
trước một số tiền nhất định. Só tiền có trước đó gọi là tiền vốn c ủa doanh nghi ệp.
Vậy: Vốn của doanh nghiệp là số tiền ứng trước để mua sắm tài sản để sản xuất
kinh doanh.
Vốn của doanh nghiệp sẽ được tổ chức vận động nhằm mục đích sinh lời. Nếu
số tiền ứng ra để mua sắm, xây dựng tài sản cố định thì gọi là vốn cố đ ịnh. Nếu
ứng ra cho tài sản lưu động thì gọi là vốn lưu động. Vốn là điều ki ện không th ể
thiếu được để thành lập một doanh nghiệp và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh
doanh. Trong mọi loại hình doanh nghiệp, vốn phản ánh nguồn lực tài chính được
đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Số vốn phản ánh quy mô sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp
b. Nguồn vốn của doanh nghiệp
Để có số vốn cần thiết, doanh nghiệp phải huy động từ đâu ? Đó là các nguồn
vốn của doanh nghiệp. Vậy : Nguồn vốn của doanh nghiệp là nguồn hình thành nên
vốn của doanh nghiệp.
Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp và các đặc điểm cụ thể, mỗi doanh nghiệp có
thể có các phương thức tạo vốn và huy động vốn khác nhau. Trong điều kiện kinh tế
thị trường, các phương thức huy động vốn cho doanh nghiệp được đa dạng hoá, giải
phóng các nguồn tài chính trong nên kinh tế, thúc đẩy sự thu hút vốn vào các doanh
nghiệp. Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế và thị trường tài chính sẽ sớm tạo
điều kiện để các doanh nghiệp mở rộng khả năng thu hút vốn vào kinh doanh.
3.3.2. CÁC PHƯƠNG THỨC TẠO VỐN CỦA DOANH NGHIỆP
Nguồn vốn và các phương thức tạo vốn (còn gọi là phương thức tài trợ) mà các
doanh nghiệp có thể khai thác. Nếu xét theo quyền sở hữu nguồn vốn thì doanh
nghiệp được tạo vốn bằng những phương thức sau
Phương thức 1: Nguồn vốn tự có của chủ doanh nghiệp ( Nguồn vốn chủ sở hữu)
Khi doanh nghiệp được thành lập bao giờ chủ doanh nghiệp cũng phải đầu tư
một số vốn nhất định. Tuỳ theo từng loại hình doanh nghiệp mà nguồn vốn t ự có
ban đầu có biểu hiện khác nhau. Đối với doanh nghiệp nhà nước nguồn vốn tự có
ban đầu chính là vốn do ngân sách nhà nước cấp. Đối với công ty tư nhân, chủ doanh
nghiệp phải có đủ số vốn pháp định cần thiết để xin đăng ký thành lập doanh
nghiệp. Vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải có theo quy đ ịnh của pháp luật đ ể
thành lập doanh nghiệp. Chủ doanh nghiệp phải bỏ ra số tiền này, đó là nguồn vốn
tự có ban đầu của công ty. Đối với công ty cổ phần, nguồn vốn do các cổ đông đóng
góp là yếu tố quyết định để hình thành công ty. Mỗi cổ đông là một chủ sở hữu của
công ty và chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trên trị giá số cổ phần mà họ nắm giữ. Đ ối
với các công ty như trách nhiệm hữu hạn, công ty liên doanh, vốn ban đ ầu là s ố v ốn
do các thành viên đóng góp.
Vốn tự có của chủ doanh nghiệp thường lớn hơn nhiều so với vốn pháp định,
nhất là sau một thời gian hoạt động và để mở rộng kinh doanh hoặc vì những lý do
khác mà chủ doanh nghiệp bỏ thêm vốn vào kinh doanh gọi là số vốn chủ bỏ thêm.
Ngoài ra nguồn vốn chủ sở hữu còn bao gồm cả những nguồn tài chính của
doanh nghiệp được sử dụng tạm thời làm vốn kinh doanh như lợi nhuận chưa chia,
các quỹ chuyên dùng của doanh nghiệp
20