Âm điệu dân tộc trong chúng ta
Còn bao lâu nữa bạn có thể nghe câu Vọng Cổ trên đất Mỹ? Tôi đã nghe tiếng thở dài của một bạn trẻ trong trại họp bạn trong vùng Louisville, Kentucky, cách đây vài năm. Tôi đã nghe tiếng kêu thống thiết của nghệ sĩ lão thành Việt Hùng, Mission Viejo, California. Tôi cũng đã nghe tiếng vọng từ tâm thức tôi trong nhiều năm qua về âm điệu dân tộc có còn trong chúng ta như ngày nào đó không.
Âm Điệu Dân Tộc Trong Chúng Ta
[08/07/2007 - Tác giả: admin1 - Vietnam Review]
TS. Nguyễn Thuyết Phong
Institute for Vietnamese Music
Hình (BMC): Biểu diễn đàn tranh tại trường Los Amigos, California.
Còn bao lâu nữa bạn có thể nghe câu Vọng Cổ trên đất Mỹ? Tôi đã nghe tiếng thở dài của
một bạn trẻ trong trại họp bạn trong vùng Louisville, Kentucky, cách đây vài năm. Tôi đã
nghe tiếng kêu thống thiết của nghệ sĩ lão thành Việt Hùng, Mission Viejo, California. Tôi
cũng đã nghe tiếng vọng từ tâm thức tôi trong nhiều năm qua về âm điệu dân tộc có còn
trong chúng ta như ngày nào đó không.
Tuy nhiên, không phải chỉ có câu Vọng Cổ, mà lo âu, thổn thức của nhiều người trong
chúng ta dường như đang hướng về cả một truyền thống âm nhạc dân tộc Việt Nam--
trong hay ngoài nước. Tôi không nêu ra vấn đề ở đây rằng chúng ta phải làm gì cho âm
nhạc truyền thống dân tộc. Vì đó là vấn đề quá lớn, vượt ngoài tầm tay của chúng ta để
giải quyết. Tôi chỉ xin bàn về thế nào một âm diệu được gọi là dân tộc và giá trị của nó
trong tâm hồn chúng ta ra sao.
Âm Nhạc Dân Tộc hay Cổ Nhạc?
Danh từ nhạc dân tộc hiện nay tương đối thông dụng. Nhưng hiểu đúng đắn về nó không
phải là chuyện dễ. Chúng ta còn có các từ ngữ khác như: cổ nhạc (hay nhạc cổ), nhạc cổ
điển, và nhạc truyền thống. Thậm chí có người còn gọi cải lương hoặc vọng cổ thay vì
gọi nhạc dân tộc. Tôi nghĩ cần phải giải quyết vấn đề danh xưng trước khi tìm hiểu về
nội dung của nó.
Trước nhất, có lẽ do phản ứng tâm lý hay vì tính phân biệt mà danh từ dân tộc mới có mặt.
Phản ứng nầy chỉ xuất hiện từ đầu thế kỷ 20 với từ cổ nhạc để phân biệt với nhạc cải
cách hay tân nhạc. Danh từ nhạc dân tộc có lẽ xuất hiện chậm hơn (vào nửa thế kỷ sau
đó). Còn danh từ nhạc truyền thống do tôi thường dùng trong 3 thập niên qua trong các
buổi nói chuyện, diễn giảng trong các đại học, các sách hoặc bài viết. Các bạn người
miền Nam thì thấy đâu đâu cũng nghe người ta ca cải lương hay ca vọng cổ, vì thế sẽ nói
chung chung là nhạc cải lương hay vọng cổ, dù rằng cải lương chỉ là 1 thể loại sân khấu
trong nhiều loại sân khấu trong cả nước Việt Nam; trong khi ấy vọng cổ chỉ là 1 trong
nhiều bài bản của cải lương.
Sự bùng nổ của phong trào canh tân theo Tây học và sự có mặt của người Pháp trên đất
nước ta vào thời thuộc địa đưa đến việc làm quen với nhạc Tây ở các tỉnh, thành. Vì thế
khoảng năm 1920 trở đi diễn ra tình trạng nhạc Tây hát lời ta. Tiếp theo tự sáng tác nhạc
theo phong cách tây phương và hát lời Việt gọi là nhạc cải cách, dần dà về sau gọi là tân
nhạc, nhạc mới, hoặc gần đây hơn có người gọi là ca khúc 1. Trước tình huống trên,
người ta bắt đầu phân chia ranh giới "cũ" (cổ) và "mới" (tân). Vì thế, đờn ca tài tử, ca huế,
ca trù, hay các loại nghệ thuật truyền thống dân tộc được gán cho danh từ cổ mà hằng
nghìn năm trước đây chưa từng có. Nếu nhận xét sâu xa hơn, chúng ta thấy đây là một hiện
tượng quan trọng trong âm nhạc Việt Nam. Không những chỉ là việc phân biệt cũ và mới,
mà còn là một đấu tranh giữa hai khuynh hướng làm nhạc khác nhau. Kẻ theo mới tự cho
mình là tiến bộ theo trào lưu thế giới, người theo cũ cảm thấy bị thiệt thòi, mất mát, và
thậm chí bị khinh chê là lỗi thời. Theo mới cũng có thể đồng nghĩa với lai căng, theo tây;
bảo vệ cái cũ có thể bị xem là lạc hậu, dậm chân tại chỗ. Đây là vấn đề bàn cải rất nhiều
trong giới Dân tộc nhạc học (Ethnomusicology) khi phải định nghiã thế nào là tân nhạc
(hay nhạc lai căn hay lai văn-hoá--accultured music) đối trọng với nền nhạc truyền thống
lâu đời trong một quốc gia.
Theo thiển ý tôi, tôi không thấy hợp lý khi gọi nhạc truyền thống của dân tộc Việt là nhạc
cổ vì bản chất của nền âm nhạc nầy luôn biến thiên. Người ta dùng từ cổ nhạc, chỉ với
mục đích để nói cho ngắn gọn thôi. Nếu đem so với nền âm nhạc cổ (hay cổ điển--
classical music) Tây phương, chúng ta sẽ thấy nhạc cổ điển Tây phương là loại nhạc giữ
nguyên dạng cũ, giữ vẻ cố định (tĩnh) theo ý muốn của các nhà soạn nhạc. Trong khi ấy,
các bài bản truyền thống của ta chỉ giữ cái làn diệu mẫu làm nền cho việc sáng tạo chữ
nhạc mới (động). Lấy ví dụ, bài Vọng Cổ được diễn tả với hàng trăm âm điệu khác nhau.
Hay bản Long Ngâm (theo tục truyền do Trịnh Trọng Tử sáng tác năm 1310) hiện nay còn
trình tấu trong nhạc cung đình Huế với một dạng rất có thể khác với khi xưa. Vì thế, việc
gọi một nền âm nhạc của dân tộc có mặt lâu đời trên đất nước ta là nhạc dân tộc hay nhạc
truyền thống dân tộc nghe ra hợp lý hơn. Nó vừa tránh được sự va chạm ý kiến cũ và mới,
nó lại vừa phân biệt rõ ràng được nhạc của dân tộc ta đối với nhạc của các dân tộc khác
trên thế giới.
Âm Điệu Dân Tộc: Cấu Trúc Cơ Bản
Chúng ta thường nghe nói, mỗi dân tộc có một nền âm nhạc với những đặc trưng của nó.
Nhưng trong một quốc gia không chỉ có một dân tộc mà thôi, mà còn có rất nhiều dân tộc
sống chung trên một mãnh đất lịch sử dựng nước và giữ nước. Biên giới địa lý và biên giới
dân tộc, vì thế, không hẳn phải đồng nghĩa nhau. Trong lúc dự hội nghị Âm Nhạc và Giáo
Dục tại viện đại học Nanyang ở Singapore, tôi gặp một bạn sinh viên ban Tiến Sĩ Vật Lý
đang nghe nhạc bằng Discman. Sau một lúc nói chuyện, tôi mới hiểu ra rằng anh ta đang
nghe một CD nhạc của Madona và thích thú cho rằng đây là nhạc xứng đáng đại diện cho
nước Mỹ. Tôi mới hỏi anh ta có biết nhạc Blue Grass, Blues, Gospel, hay dân nhạc
Apallachian hay không? Anh ta không biết tôi đang nói gì vì anh ta chưa từng nghe những
danh từ nầy bao giờ. Vì thế, nếu bảo rằng một Madona hay Michael Jackson là đại diện,
biểu trưng cho âm nhạc của nước Mỹ quả là chuyện hết sức sai lệch. Nó chứng tỏ sự hạn
chế tầm kiến thức về dân tộc và những giá trị văn hóa độc đáo của nó. Nước Mỹ không
chỉ có nhạc của một dân tộc đa số (da trắng) hay một loại nhạc, mà trong ấy có nhiều
truyền thống âm nhạc đa chủng hợp thành.
Đất nước Việt Nam gồm cả những 54 dân tộc. Phải công minh mà cho rằng ngoài dân tộc
đa số (Việt) còn có nhiều truyền thống âm nhạc khác của các dân tộc thiểu số. Hiện nay
nhạc của các dân tộc thiểu số nầy chưa được biết đến một cách thoả đáng hay nghiên cứu
đầy đủ. Mà làm sao đi đến thoả đáng khi mà âm nhạc của riêng người Việt là rừng là biển,
chưa ai có thể với tới hết. Tình hình hiện nay không những chúng ta chưa hiểu hết, chưa
nghiên cứu hết, mà thậm chí còn hiểu lầm, ngộ nhận nữa. Như vậy, thế nào là âm điệu
dân tộc?
Ở đây chúng ta chỉ bàn về âm điệu của dân tộc Việt và cụ thể chỉ nên đặt giới hạn ở mặt
giai điệu, âm hưởng, và cấu trúc của nó thôi.
Cách tiến hành giai điệu của mỗi truyền thống âm nhạc các dân tộc trên thế giới rất khác
nhau. Cái gì làm nhạc dân tộc ta khác với các dân tộc khác--ở trong nước cũng như trên thế
giới? Trước nhất, ta phải nói đến hai khía cạnh: thanh nhạc và khí nhạc. Nói một cách
khác, âm thanh của các bài hát và làn điệu của nhạc cụ là hai phần tử vừa bổ sung cho
nhau, vừa có thể đứng độc lập nhau. Những bài dân ca, truyện kể nguyên trước đây không
có nhạc đệm. Làm sao có nhạc cụ đệm khi vừa làm việc ngoài đồng áng, tay lấm chân bùn,
hoặc hò chèo thuyền trên sông, mà vừa có nhạc đệm? Ngay cả trong hát quan họ, một thể
loại dân ca điển hình, hát trong lễ hội Lim, mà người ta cũng không dùng nhạc cụ đệm.
Khi đi vào nhạc thính phòng (ca trù, ca huế, tài tử) bài hát và khí nhạc mới quyện lấy nhau.
Rồi từ đó lại nẩy sinh ra hòa tấu nhạc cụ riêng lẻ dựa vào các bài hát đã có.
Tuy nhiên, dù là thanh nhạc hay khí nhạc, âm điệu Việt Nam vẫn phải có một quy tắc,
phương pháp chặt chẽ, cố định, lâu đời. Quy tắc ấy là hệ thống thang âm, điệu thức hết
sức độc đáo, không thua kém các dân tộc nào khác trên thế giới. Tôi xác định điểm nầy căn
cứ trên nghiên cứu, tham khảo, tham luận quốc tế và bảo tàng mà tôi thực hiện từ 3 thập
niên qua.
Hệ thang âm (scale system) trong âm nhạc Việt, phân tích ra ta sẽ thấy các giai diệu có từ 2
cho đến 12 âm chính. Nếu kể cả các âm phụ, một bản nhạc có thể lên đến 16 âm. Đặc
điểm của hệ thang âm Việt Nam là cung bậc cao thấp khác nhau. Cụ thể, nó cho thấy
nhiều âm quãng rất dị biệt với nhạc phương Tây mà chúng ta thường quen thuộc. Một
nhạc sĩ mà tôi có dịp phỏng vấn ở Orange County cho rằng nhạc dân tộc có những nốt "lơ
lớ." Thực ra, người trong nghề nhạc truyền thống dùng hai từ chuyên môn là non (flat) và
già (sharp). Họ thường nhắc nhở người đàn, người hát phải lưu ý sử dụng cho đúng cung
bậc. Vì nếu không sẽ bị chinh (chênh lệch). Tôi và các giáo sư ở đại học Washington
(Seattle), đã đo các tầng số sai biệt trong hệ Ellis (gồm 1200 cents trong một quãng tám)
giữa những âm già hoặc non hơn âm (degree) tiêu chuẩn trong khoảng 5 đến 10 cents. Các
âm quãng quá nhỏ nầy mà người Việt có thể nghe được nhỏ hơn ngay cả quarter tone mà
các nhạc sĩ nhạc cổ điển Tây phương có thể nhận ra. Như vậy, điều nầy còn cho thấy
trình độ thẩm âm của người Việt rất cao.
Nếu trong tiếng nói của người Việt có nhiều dấu giọng, trong âm nhạc dân tộc giai điệu
được phát triển cùng chiều với tiếng nói và làm nó thêm đậm đà, tinh tế hơn lên. Sự cách
điệu hóa ngôn ngữ nầy thể hiện trong tất cả các bài hát, trong các thể ngâm thơ. Tiến trình
âm nhạc trong ngâm thơ khởi đi từ cách đọc một bài thơ với những chữ nhấn giọng, lên
giọng, âm lượng to, nhỏ, hay vè (vè Thông Tầm, vè Mụ đội, v.v.) hoặc nói thơ (như nói
thơ Vân Tiên, nói thơ Sáu Trọng, v.v.), cho đến cách ngâm Kiều, ngâm sa mạc, bồng mạc,
ngâm xuân, v.v. Nếu bạn nghe lại từng chữ, từng tiếng phát âm và so với cách nói thông
thường, bạn sẽ nhận ra thế nào là nhạc điệu dân tộc qua tiếng nói.
Một nét tương đồng với thanh nhạc là, trong khí nhạc, các nhạc cụ như tranh, nhị, nguyệt,
đáy đều phải có phím cao lên để ngón tay người đàn có thể bấm sâu xuống cho việc luyến
láy. Cây đàn ghi-ta (lục huyền cầm) từ phương trời châu Âu, vào khoảng thập niên 1920
cũng phải "bị" móc sâu ở khoảng giữa các phím để tập nói tiếng ta! Và trong quá trình
"Việt hóa" ấy, nó đã thành thục, và trở thành một nhạc cụ nồng cốt trong âm nhạc cải
lương.
Đi sâu hơn vào chi tiết tỉ mỉ của âm thanh, bạn sẽ nhận ra sự luyến láy tài tình của nhạc sĩ
và ca sĩ. Trong âm nhạc học, sự uốn nắn chữ nhạc (note) nầy được gọi là ornamentation.
Nó là một nghệ thuật độc đáo, mà chỉ một số ít dân tộc trên thế giới ứng dụng thành
phương pháp, quy luật lâu đời và tuyệt nhiên quan trọng, trong đó có dân tộc Việt. Trong
một buổi họp mặt ở Kent State Univesity, khi bàn về cảm thức khi nghe nhạc để biết
được buồn hay vui, Giáo sư John Lee (Giám Đốc Trường Âm Nhạc thuộc viện đại học
nầy) nói ta phải nghe một hợp âm (chord) hoặc 1 làn điệu trong nhạc Âu Mỹ mới biết
đuợc. GS Lee quay sang hỏi tôi nghĩ như thế nào trong nhạc Việt Nam? Tôi trả lời, trong
nhạc dân tộc Việt, chỉ cần một chữ nhạc (note) là người ta có thể biết ra ngay là buồn hay
vui. Để cho các giáo sư và sinh viên được dịp thể nghiệm, tôi bước sang góc phòng bên kia
và đánh lên một tiếng đàn bầu luyến láy theo hơi xuân, rồi đến một tiếng theo ai, một
tiếng theo hơi đảo, v.v. và hỏi các vị thấy cảm giác có khác nhau hay không. Mọi người
bừng tĩnh ra đấy là sự thật. Một cô sinh viên bật thốt lên: thật kỳ diệu!
Thế cũng cho thấy thêm một khía cạnh nữa trong nhạc nước ta, rằng chỉ cần nghe một
tiếng đàn, người sành điệu cũng biết được người đàn hay hay dở. Ôi, chỉ một tiếng đàn mà
có thể làm rung động lòng người! Hiện tượng siêu tuyệt mà Nguyễn Tuân, trong quyển
Chùa Đàn, đã huyền thoại hóa tiếng đàn khi luyến láy hay đến nổi chảy máu trên đầu ngón
tay. Trong Truyện Kiều, hay vô số những truyện tích dân gian đề cập đến chữ đàn tuyệt
diệu. Sức hấp dẫn của một tiếng đàn điêu luyện, vì thế, còn chứng tỏ sự học tập lâu dài,
năng khiếu "trời cho", và tính sáng tạo trong âm nhạc chuyên nghiệp. Tôi xin nhấn mạnh
chữ "sáng tạo" ở đây, để bạn đọc hiểu rằng âm nhạc truyền thống Việt không phải là
nhạc "cổ", vì nó luôn luôn đổi mới và gắn liền với tên tuổi người nghệ sĩ. Nó là dấu ấn
trong nghệ thuật âm nhạc của mỗi cá nhân có một quá trình học tập và làm nhạc vững
vàng.
Một khía cạnh sau cùng là sự thành hình giai điệu trong âm nhạc dân tộc. Vì âm nhạc dân
tộc mang tính điệu thức (modal) nên ngoài thang âm, chữ luyến láy (ornaments), còn có các
làn điệu mẫu (melodic patterns) lập đi lập lại nhiều lần. Nó gợi cho chúng ta một tình cảm
chủ yếu, duy trì trong phạm vi một lớp (section) hay một bài. Thuật ngữ trong âm nhạc
Việt rất phong phú và có giá trị văn hóa cao. Để chỉ cho loại tình cảm trong bài nhạc ra sao
người ta dùng các danh từ chuyên môn như: "hơi", "điệu" hay "điệu thức", "giọng", "thể",
v.v. tùy theo địa phương, tùy theo truyền thống Bắc, Trung hay Nam. Ca trù dùng đến 36
giọng khác nhau. Trong đờn ca tài tử, cải lương và ca Huế có các hơi xuân, ai, đảo, oán,
bắc, hạ, thiền, v.v. Những từ nầy rất khó dịch sang tiếng nước ngoài vì tính chuyên dùng,
có liên hệ đến địa phương ngữ, cũng như môi trường sinh hoạt xã hội. Cần nói thêm, trong
lúc trình diễn chúng ta còn thấy có sự chuyển thể giai điệu (hay chuyển điệu), từ nam sang
bắc, từ ai sang xuân, v.v. hoặc chuyển hệ, đi từ thang âm nầy sang một thang âm khác
trong các đoạn nhạc, các lớp của toàn bài.
Âm Điệu Dân Tộc: Bản Thể Văn Hóa Của Chúng Ta
Những yếu tố đa dạng, phong phú và tế nhị vừa nêu trên mang tính hết sức đặc trưng trong
truyền thống âm nhạc dân tộc Việt. Đó là nền tảng âm thanh không phải chỉ vài ba năm,
mà là sự kết tinh của nhiều thế hệ, nhiều thế kỷ. Đó cũng không phải chỉ là một khía cạnh
âm thanh của người Việt, mà là một thể hiện tập trung của ngôn ngữ, tập quán, đời sống
sinh hoạt xã hội, và tư duy mỹ cảm. Âm điệu dân tộc là sự phản ánh những giá trị độc đáo
của con người.
Chúng ta không thể tách rời âm nhạc khỏi bản thân của con người đã làm ra nó. Chúng ta
phải hãnh diện về nó, vì nó là thành tựu của cả lao động trí óc (suy tư, sáng tác, v.v.) lẫn
lao động chân tay (người thợ đóng đàn, di chuyển đàn, xếp đặt sân khấu trình diễn, v.v.).
Những dàn đại nhạc, những loại nghệ thuật sân khấu dân gian và cung đình, những hình
thức ca nhạc tri âm tri diệu (thính phòng), những nghi thức lễ nhạc Phật Giáo, những
truyền thống ca múa dân gian (múa gậy, múa xuân phả, hát dân ca, v.v.) là cả một kho tàng
vô cùng qúi báu và rộng lớn của dân tộc ta. Phải nói, đãy là bản sắc văn hóa của người
Việt mà chúng ta có đầy đủ lý do để tự hào.
Một giọng hát, một câu hò "Chiều chiều trước bến Văn Lâu ..." một câu quan họ, hay một
câu vọng cổ cất lên làm ta thấy cả "hồn dân tộc trong ấy" (xin mượn câu nói chan chứa ý
nghĩa nầy của nghệ sĩ Việt Hùng) 2 . Tại sao? Vì âm điệu ấy thoát ra từ tiếng nói, từ ngón
tay đầy mỹ cảm của dân tộc Việt.
Trong nhiều năm qua, tôi làm một thử thách nho nhỏ cho chính mình là đi nhiều miền của
đất nước Việt Nam, lắng nghe từng diệu hát dân ca quan họ ở Bắc Ninh, bài chòi ở Bình
Định, hò lý ở Mõ Cày (Bến Tre), quan sát từ những điệu múa xuân phả (điệu múa mang
mặt nạ, rất hiếm có trên thế giới), múa đội đèn ở Thanh Hoá, múa hoa đăng cung đình
Huế, múa dâng bông ở Khánh Hòa, những đêm ngồi lê trên chiếu chèo Hà Nội hay tuồng
(hát bội), cải lương, ở các thành phố và tỉnh lẻ. Rồi đến những đêm nằm trên nhà sàn cao
nguyên mà nghe tiếng tiếng đàn goong, nghe tiếng cồng chiêng lễ hội Giarai, Banar mà tôi
thấy yêu qúi quê hương Việt Nam làm sao. Những kỷ niệm không thể kể hết qua hằng
ngàn trang giấy. Nó vẫn còn hạn hẹp. Duy chỉ có một điều làm lòng tôi thấy an tâm nhất:
dân tộc Việt có âm điệu sâu hằng nghìn năm, rộng như biển cả, rừng nghìn trùng. Âm điệu
dân tộc tiềm tàng trong những sử ca, trong Bình Ngô Đại Cáo, trong Kiều, trên sông Hồng,
sông Hương, trên dòng Hậu Giang miên man, trên đồng lúa xanh như ngọc, và trong tiềm
thức trong mỗi con người Việt Nam. Ước mong âm điệu dân tộc vẫn còn mãi trong chúng
ta.