7 kì quan thế giới cổ đại
7 kì quan thế giới cổ đại gồm vườn treo Babylon, hải đăng Alexandria, tượng thần Zeus ở Olympia, đền Artemis ở Ephesus, Tiểu Á, lăng mộ vua Maussollos tại Halicarnassus, chúa tể xứ Caria vùng vịnh Percic, bức tượng khổng lồ thần mặt trời Helios do người Hy Lạp dựng lên, Kim tự tháp Giza. Mời các bạn tham khảo tài liệu để tìm hiểu về lịch sử của 7 kỳ quan này.
7 KỲ QUAN THẾ GIỚI CỔ ĐẠI
1. Vườn treo Babylon.
2. Hải đăng Alexandria.
3. Tượng thần Zeus ở Olympia (chúa tể của các vị thần Hy Lạp do nhà điêu khắc vĩ
đại Pheidias tạc).
4. Đền Artemis ở Ephesus, Tiểu Á (Thổ Nhĩ Kỳ) được dựng lên để tôn vinh nữ thần
săn bắn và thiên nhiên hoang dã của Hy Lạp.
5. Lăng mộ vua Maussollos tại Halicarnassus, chúa tể xứ Caria vùng vịnh Percic.
6. Bức tượng khổng lồ thần mặt trời Helios do người Hy Lạp dựng lên tại một cảng
gần đảo Địa Trung Hải có tên tượng Rhodes.
7. Kim tự tháp Giza, một cấu bằng đá khổng lồ gần thành phố cổ Memphis, nơi chôn
pharaoh Ai Cập Khufu. Kim tự tháp Giza là kỳ quan duy nhất trong bảy kỳ quan cổ
đại còn tồn tại đến hôm nay. Kỳ quan biến mất sau cùng là hải đăng Alexandria.
I. VƯỜN TREO BABYLON
Vườn treo Babylon, một kiệt tác tiêu biểu của nền văn minh Lưỡng Hà thời cổ đại và là
một công trình kiến trúc tráng lệ độc nhất vô nhị. Vườn treo Babylon được xây dựng năm
3000 trước CN bên bờ nam sông Euphrates và cách thủ đô Baghdad, Iraq, 90km về phía
Nam. Từ xa xưa, Babylon đã được mệnh danh là “Cửa Thần” rất linh thiêng. Trước khi
cuộc chiến tranh Iraq nổ ra, mỗi năm có hàng chục vạn tín đồ, khách du lịch trên khắp thế
giới đổ về đây cúng lễ cầu phúc và du lịch thưởng ngoạn kỳ quan tráng lệ bậc nhất thế
giới. Nhân loại có lẽ còn phải mất nhiều công sức giải mã mới có thể lý giải nổi câu hỏi,
tại sao ở một vùng đất phần lớn là sa mạc, chỉ có dầu mỏ và ruồi vàng với những người
nông dân lại có thể xây dựng được công trình kiến trúc tráng lệ và bền chắc tồn tại cùng
thời gian suốt 5.000 năm qua? Babylon từng là thủ đô của Vương quốc Babylon cổ đại và
là trung tâm thương mại sầm uất nhất vùng Tây Á, nơi “con đường tơ lụa” đi qua. Tổng
thể khu vườn treo Babylon là những tường thành hùng vĩ, cung điện nguy nga tráng lệ,
đường sá, cầu cống… phản ánh trình độ thẩm mỹ, óc sáng tạo, đặc biệt kỹ thuật tính toán
xây dựng rất cao của những người nông dân Lưỡng Hà cổ đại. Chính vì vậy, vườn treo
Babylon được công nhận là một trong 7 kỳ quan của thế giới và là niềm tự hào không chỉ
của nhân dân Iraq mà còn của cả nhân loại.
Và hiện nay, không chỉ các nhà khảo cổ học mà nhân loại tiến bộ trên thế giới đều hết sức
lo lắng và bất bình trước thông tin báo chí đã nêu gần đây: Vườn treo Babylon ở Iraq,
một trong 7 kỳ quan thế giới đã tồn tại hơn 5.000 năm nay có nguy cơ bị biến mất. Đúng
vậy, vườn treo nổi tiếng này hiện đang dần trở thành đống hoang tàn vì sự tàn phá của
những lính Mỹ tại Iraq.
II. HẢI ĐĂNG ALEXANDRIA :
Hải đăng Alexandria do triều đại Ptolemy xây dựng trên đảo Pharos ngoài khơi thành phố
Alexandria thủ đô Ai Cập một thời, nơi có thư viện Alexandria nổi tiếng. Alexandria
được mệnh danh là hòn ngọc lấp lánh của Địa Trung Hải, thành phố lớn thứ hai và là
cảng chính của Ai Cập hiện nay. Alexandria do kiến trúc sư Dinocrates (332 – 331 TCN)
xây dựng tại vị trí của một ngôi làng cổ Rhakotis theo ý nguyện của Alexander đại đế để
bất tử hoá tên ông. Không bao lâu sau, Alexandria trở thành trung tâm văn hoá, chính trị,
kinh tế và tri thức của Ai Cập. Đến nay nhiều di tích vẫn còn tồn tại, Alexandria là thủ đô
của triều đại Ptolemy với vô số tượng đài, đền miếu. Nơi đây mọc lên hải đăng
Alexandria và thư viện Alexandria. Các nhân vật lịch sử của Ai Cập, La Mã như
Cleopatra, Julias Caesaz, Mark Antony và Octavian đều có dính líu ít nhiều đến thành
phố này. Alexandria nằm ở tây bắc sông Nile trải dài trên dải đất hẹp giữa Địa Trung Hải
và hồ Mariut. Nó có hai xa lộ lớn và một đường xe lửa đẫn đến Cairo. Thành phố là nơi
nghỉ mát mùa hè nổi tiếng nhất Trung Đông. Hải đăng Alexandria có lẽ là kỳ quan duy
nhất trong bảy kỳ quan cổ đại được sử dụng vào mục đích phục vụ cuộc sống hằng ngày.
Nó hướng dẫn cho tàu bè đi lại an toàn tại cảng lớn. Đối với các kiến trúc sư thì hải đăng
còn là công trình xây dựng cao nhất thế giới, và là tấm gương phản chiếu ánh sáng vào
ban ngày (ban đêm sử dụng đèn báo) vẫn còn là điều bí ẩn đối với nhiều nhà khoa học.
Theo sử sách, tấm gương nhìn thấy từ xa 50 km. Không lâu sau Alexander đại đế mất, vị
tướng Ptolemy Soter của ông lên nắm quyền tại Ai Cập. Chính Ptolemy đã đôn đốc việc
xây dựng thành phố Alexandria, thủ đô mới. Ngoài khơi thành phố là đảo nhỏ Pharos.
Đảo nối với đất liền bằng con đê biển Heptasđaion được xem là cảng thứ hai của thành
phố. Tàu buồm đi lại tấp nập quanh và trong khu vực cảng nên cần có một ngọn hải đăng
hướng dẫn để không mắc cạn tại dải bờ biển thoai thoải không dốc. Ptolemy vạch kế
hoạch xây dựng ngọn hải đăng vào năm 230 TCN nhưng khi ông mất nó mới hoàn tất
dưới triều đại của Ptolemy Philadelphus, con trai ông. Sostratus, người cùng thời với
Euclid, là kiến trúc sư trưởng công trình nhưng bản tính toán chi tiết hải đăng và các công
trình phụ trợ do thư viên Alexandria làm. Hải đăng được dâng hai vị thần cứu rỗi : đó
chính là Ptolemy Soter và Berenice, vợ ông. Trong hàng thế kỷ, hải đăng Alexandria, còn
được gọi là đèn biển Pharos phát huy hiệu quả rất tốt trong việc hướng dẫn tàu bè. Hình
ảnh của nó được in trên cả các đồng tiền La Mã. Khi người Arập chinh phục Ai Cập họ
hết sức khâm phục Alexandria và sự giàu có của thành phố này. Nhưng giới cầm quyền
mới dời thủ đô đến Cairo để cắt đứt sự nối kết với Địa Trung Hải. Tấm gương trên ngọn
hải đăng được tháo ra một cách bất cẩn nên không thể lắp đúng vào chỗ cũ. Năm 956
SCN, một trận động đất gây thiệt hại nhẹ cho ngọn hải đăng. Hai trận động đất mạnh sau
đó (1303 và 1323) tiếp tục gây thiệt hại lớn cho công trình. Năm 1449, thương buôn Arập
nổi tiếng Ibu Battuta nói là ông ta không thể đi vào công trình đã đổ nát này. Chương
cuối cùng của hải đăng Alexandria khép lại vào năm 1480 khi phó vương Ai Cập
Mamelouk quyết định củng cố hệ thống phòng thủ của Alexandria bằng cách xây một
công sự kiên cố ngay trên vị trí của ngọn hải đăng bằng cách sử dụng chính các vật liệu
lấy từ nó. Mô tả chính xác, chi li nhất về hải đăng Alexandria là mô tả của thương buôn
Arập Abou–Haggay Al–Andaloussi. Ghé thăm hải đăng năm 1166, ông nêu chi tiết sự
tráng lệ của lớp đá cẩm thạch bao quanh ngọn tháp. Theo ông thì tấm gương trên ngọn
hải đăng có công dụng đốt cháy các chiến thuyền của kẻ thù trước khi nó lọt vào cảng.
Ngoài phần bệ, hải đăng có ba tầng : khối vuông thấp nhất cao 55,9 m có lõi tròn, khối
giữa cao 27,45 m và khối trên cùng cao 7,3 m có hình tròn. Chiều cao tổng cộng của
ngọn hải đăng là 117 m tính từ cột mốc số 0 là mực nước biển, tương đương ngôi nhà cao
bốn mươi tầng. Trên nóc hải đăng là tượng thần Poseidon (thần biển cả, có bộ râu trắng,
tóc trắng mắt xanh với dải băng cuốn quanh đầu như thần Zeus). Poseidon là con của
thần Cronus và thần Rhea. Cronus đã nuốt Poseidon vào bụng nhưng lại nhả ra để ông
lớn lên với các anh chị khác. Khi Cronus bại trận Poseidon trở thành vua biển cả và vua
các hòn đảo. Có lúc Poseidon được mô tả như vị thần trần truồng tay cầm đinh ba mà
thần bão Cyclopes đã cho ông. Cây đinh ba biểu tượng cho vương quốc Poseidon, vương
quốc thứ ba của vũ trụ (tức biển cả).
III. TƯỢNG THẦN ZEUS Ở OLYMPIA :
Đây là bức tượng của vị thần mà các cuộc thi tài thể thao Olympic cổ được tổ chức để tôn
vinh ông. Tượng đặt tại thành phố cổ Olympia, nằm ở bờ biển phía tây Hy Lạp hiện nay,
cách thủ đô Athens 150 km. Theo lịch Hy Lạp cổ bắt đầu từ năm 776 TCN thì các cuộc
thi đấu cũng bắt đầu từ năm đó. Bức tượng Zeus kỳ vĩ do kiến trúc sư Libon thiết kế và
được xây dựng vào năm 450 TCN. Vào thời điểm nước Hy Lạp đang hùng mạnh, ngôi
đền kiểu Doric quá tầm thường đơn giản nên cần có các sửa đổi lớn. Giải pháp là đặt một
bức tượng khổng lồ trong đền. Điêu khắc gia Athens được giao nhiệm vụ “thiêng liêng”
này. Nhiều năm sau đó, ngôi đền thu hút số du khách và người hành hương đến từ khắp
nơi trên thế giới. Bước sang thế kỷ II TCN, bức tượng được tu sửa chút ít rồi đến thế kỷ I
SCN, hoàn đế La Mã Caligula tìm cách đưa bức tượng về Rome nhưng giàn giáo do các
nhân công của Caligula xây dựng bị đổ sụp. Sau khi các cuộc thi đấu Olympic bị cấm
năm 391 SCN, hoàng đế Theodosius cũng ra lệnh đóng cửa đền Zeus. Sau đó thành phố
Olympia bị động đất, trượt đất và ngập lụt tấn công. Đến thế kỷ V SCN, đền lại bị lửa
làm hư hại. Nhưng trước đó, bức tượng đã được những người Hy Lạp giàu có chuyển đến
Constantinople và tượng đứng vững tại đây cho đến khi nó bị lửa làm thiệt hại nặng vào
năm 462 SCN. Hôm nay bức tượng không còn lại gì ở ngôi đền cũ, trừ đá và vụn cát
cùng nền và những chiếc cột bị gãy của ngôi đền. Điêu khắc gia Pheidias bắt đầu xây
dựng bức tượng vào năm 440 TCN. Vài năm trước đó, ông đã phát triển một kỹ thuật đặc
biệt dùng cho việc xây dựng các bức tượng bằng vàng và ngà. Kỹ thuật này sử dụng các
khung gỗ lắp ghép như giàn giáo để phủ những tấm kim loại quý hoặc ngà voi lên mặt
ngoài công trình. Hiện di tích nhà xưởng của Pheidias ở Olympia vẫn tồn tại. Nó bằng
kích cỡ và theo đúng hướng với ngôi đền Zeus cũ. Tại xưởng này, Pheidias cho đẽo, khắc
những phần khác nhau của tượng trước khi mang đến đền lắp ghép. Nhưng khi bức tượng
hoàn tất, ngôi đền lại quá nhỏ so với nó. Một số người cho rằng bức tượng không cân
xứng với chiều cao dền. Thần Zeus ở trong tư thế ngồi, nếu ông đứng lên ngôi đền sẽ bị
bung mái. Nhưng cũng có người khen ngợi ý đồ của Pheidias. Chính nguy cơ ngôi đền bị
bung mái khi “vua các vị thần” đứng lên đã tạo cảm hứng cho nhiều nhà thơ và sử gia. Bệ
của tượng có bề rộng 6,5 m cao 1 m. Tượng cao 13 m tương đương với ngôi nhà bốn
tầng. Bức tượng cao đến nỗi các du khách chỉ có thể mô tả về chiếc ngai vàng thần Zeus
ngồi chớ không thấy rõ chi tiết cơ thể ông. Phần chân của chiếc ngai được trang trí bằng
các tượng nhân sư và những vị thần chiếc thắng có cánh. Thần Apollo, Artemis và con
gái của thần Niobe đều có mặt. Theo ghi chép của sử gia Hy Lạp Pausanias thì trên đầu
của thần Zeus là chùm tia Olive. Tay phải ông giữ biểu tượng chiến thắng làm bằng vàng
và ngà voi. Tay trái ông giữ một quyền trượng có con ó đậu ở đỉnh.
VÀI DÒNG VỀ THẦN ZEUS: Là con của thần Kronos và thần Rheia, Zeus theo gương
cha : lật đổ chính người sinh thành ra mình. Khi Kronos giết cha (thần Uranus), người
cha có điềm báo là ông cũng sẽ bị con trai bức hại. Do sợ hãi và tham lam, Kronos nuốt
những đứa con đầu ngay lúc chúng ra đời nhưng khi Rheia sinh hạ đứa con thứ sáu Zeus
bà đánh lừa chồng bằng cách đưa cho ông cục đá. Kronos nuốt cục đá và lời nguyền trở
thành hiện thực. Zeus được nuôi nấng bí mật cho đến ngày đủ lớn để phục kích Kronos
lúc đi săn. Ông đá Kronos vào bụng mạnh đến nỗi người cha già nua đã ói ra hòn đá và
năm đứa con (cả trai và gái) chưa tiêu hoá được. Đó là các thần Demeter, Hades, Hestia,
Hera và Poseidon. Sau đó Zeus tuyên bố là lãnh tụ của các vị thần thống trị các đỉnh núi
và những đám mây. Ông cưới Hera xinh đẹp, chị mình. Thần Zeus có nhiều mục tiêu phải
hoàn thành trước khi cuộc chiến thành Troy kết thúc. Người Hy Lạp bao vây thành Troy
được sự hỗ trợ của các vị thần Hera, Athene, Poseidon, Ares và Aphrodite nên trước sau
gì họ cũng thắng. Trong lúc đó, thần Zeus đối mặt với cuộc nổi loạn trên đỉnh Olympus.
Sau khi thần Aphrodite và thần Ares bị thương ở thành Troy, Zeus ra lệnh cho tất cả các
vị thần đứng ngoài cuộc chiến. Riêng ông sẽ đích thân đến ngọn Ida để chỉ huy cuộc dẹp
loạn và tạo uy thế cho Hector yêu dấu, chủ nhân Ida. Có nhiều con các vị thần tham gia
cuộc chiến thành Troy. Con trai Sarpedon của Zeus chết tại chiến trường trên tay đứa con
trai khác là Aias. Aphrodite bị thương khi bảo vệ thần Aineias. Askalaphos, con trai của
Ares cũng bị giết và cả Achilleus con trai nữ thần Tethys cũng phải hy sinh. Có lúc cuộc
chiến thất thế cho người Hy Lạp đến nỗi Hera buộc phải ra tay bằng cách đánh lừa Zeus