18 quy luật bất biến phát triển danh tiếng công ty
(Phần cuối)
“Những kẻ buôn cái chết” - cái tên khủng khiếp đó đã miêu tả một cách cô
đọng và chính xác mặt trái danh tiếng của DuPont ở Mỹ vào thập niên 1930, thời kỳ
đen tối trước Thế chiến thứ II. Đang thu về những món lợi nhuận khổng lồ nhờ các
vụ buôn bán đạn dược suốt Thế chiến thứ I, các nhà điều hành của công ty hóa chất
này bỗng dưng bị gọi đến trước ủy ban điều trần của Thượng viện Mỹ để trả lời chất
vấn về việc đầu cơ trục lợi trong thời gian chiến tranh. Mặc dù tiền lãi từ đạn dược chỉ
chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng doanh thu ngày càng tăng của công ty, nhưng
DuPont vẫn bị nhơ danh.
Vậy danh tiếng của họ đã bị ô uế như thế nào? Khi công ty thử tìm hiểu
ý nghĩ của công chúng trong một cuộc thăm dò quy mô lớn, họ nhận ra rằng họ đang
đối mặt với một rào cản rất cao nếu muốn vượt qua hình ảnh “những kẻ buôn cái
chết”. Kết quả nghiên cứu cho thấy chưa đầy một nửa công chúng Mỹ có ấn tượng tốt
về DuPont. Các nhà điều hành mất tinh thần và lúng túng không biết phải làm gì nữa.
Quy tắc 2
HÃY TỰ ĐÁNH GIÁ DANH TIẾNG CỦA BẠN
DuPont quay sang cầu cứu một hãng quảng cáo ở New York có tên
Batten, Barton, Durstine & Osborn (nay là BBDO Worldwide). Một đối tác của hãng
này là Bruce Barton đề xuất một “chiến dịch tạo hình ảnh mới” trị giá nửa triệu đô-la.
Nền tảng của chiến dịch này là sự tài trợ của công ty cho một chương trình phát thanh
mới mang tên “Đoàn kỵ binh của nước Mỹ”.
Trong chiến dịch này, những đoạn quảng cáo lắm lời chịu trách nhiệm
giới thiệu tất cả những gì không liên quan đến chất nổ, cụ thể là các sản phẩm kinh
doanh của DuPont như chất chống đông, giấy bóng kính và phụ tùng ô tô. Cùng lúc
đó, hãng còn đưa ra khẩu hiệu nổi tiếng của DuPont: “Những điều tốt đẹp hơn cho cuộc
sống… nhờ hóa chất”. Tiến trình diễn ra rất chậm chạp, nhưng đến giữa thập niên 50,
kết quả khảo sát cho thấy danh tiếng doanh nghiệp đang hồi phục một cách khả quan:
bốn trong số năm người được hỏi trả lời rằng họ có cảm nhận tích cực đối với DuPont.
Câu chuyện thành công này minh họa lòng nhiệt tâm và kiên trì của
DuPont đối với việc đánh giá và quản lý danh tiếng. Công ty tin tưởng mãnh liệt vào
tầm quan trọng của việc nghiên cứu có hệ thống các hoạt động nhằm kiểm soát những
thăng trầm của danh tiếng, cũng như hướng dẫn các chiến lược quản lý danh tiếng.
Các nhà lãnh đạo của họ hiểu rằng trước khi có thể thay đổi nhận thức của công
chúng, công ty phải lập ra một phương pháp đánh giá chi tiết, rõ ràng và đáng tin cậy
về nhận thức đó. Cố gắng điều chỉnh danh tiếng khi trong tay không có phương pháp
đánh giá được xem là chính xác thì quả là việc làm liều lĩnh.
Có lẽ cũng là chuyện thường tình khi một công ty vốn chỉ miệt mài
nghiên cứu khoa học lại sớm nhìn thấy giá trị của việc nghiên cứu danh tiếng. Mặc dù
DuPont được sáng lập năm 1802 bởi một người nhập cư đến từ nước Pháp, nhưng
ngay từ khi thành lập, công ty đã tự hào xem mình là một phần không thể thiếu trong
lịch sử Hoa Kỳ và luôn bảo vệ danh tiếng hơn 200 năm tuổi của mình. Đầu thế kỷ 19,
Eleuthère Irénée du Pont chạy trốn cuộc cách mạng Pháp đến Tân thế giới và chỉ hai
năm sau ông đã bắt đầu mở nhà máy chuyên sản xuất thuốc súng bên bờ sông
Brandywine ở Delaware. Trong số những khách hàng đầu tiên của ông có Thomas
Jefferson – người đã đặt thuốc súng cho Bộ Chiến tranh Hoa Kỳ, và sau đó cho việc đi
săn và phá đá ở khu Monticello của mình. Hai thế kỷ tiếp theo trôi qua, DuPont đã
nhanh chóng phát triển thành công ty hóa chất lớn nhất nước Mỹ, đóng góp nhiều cho
xã hội Mỹ, từ tất chân bằng sợi nylon cho đến áo chống đạn Kevlar.
Nhờ thường xuyên theo dõi danh tiếng của mình nên công ty có thể
phản ứng kịp thời trước sự thay đổi nhận thức của công chúng về mình và toàn ngành
công nghiệp. Phó chủ tịch phụ trách đối ngoại toàn cầu Kathleen Forte nói: “Chúng
tôi đánh giá danh tiếng một cách có hệ thống để biết điều gì đang tạo ra tiếng vang và
điều gì không. Đến nay, chúng tôi đã ghi nhận và đánh giá được nhiều thuộc tính khác
nhau của danh tiếng”.
Bên cạnh những quan điểm tiêu chuẩn của công chúng và kết quả nghiên
cứu thị trường, DuPont còn là đơn vị tiên phong trong việc phát triển các phương pháp
đánh giá danh tiếng tinh vi và phức tạp hơn. Cách đây hơn 30 năm, khi danh tiếng
doanh nghiệp chẳng mấy khi được bàn đến, công ty đã đặt ra một trong những phương
pháp đánh giá danh tiếng chi tiết đầu tiên.
Phòng quan hệ công chúng phối hợp với bộ phận nghiên cứu hành vi
người tiêu dùng thuộc phòng quảng cáo đã thực hiện một cuộc khảo sát đầy tham vọng
vào năm 1971 nhằm tìm hiểu quan điểm của các nhóm đối tượng khác nhau về danh
tiếng doanh nghiệp của DuPont. Họ yêu cầu “những người trưởng thành có ảnh
hưởng”, các nhà giáo dục và sinh viên đánh giá DuPont theo nhiều mục khác nhau,
bao gồm “tạo ra các sản phẩm chất lượng cao”, “giàu sáng kiến”, “cổ phiếu tăng
trưởng tốt, nên mua”, “cách quản lý thông minh và nhiệt tình”, “điều kiện làm việc
tốt”, “quan tâm đến tệ nạn xã hội”, “gây ô nhiễm”, “quá giàu và quá quyền lực”.
Những người được hỏi phải cho điểm từng mục theo mức độ tốt/xấu, đồng thời nói rõ
mục đó quan trọng như thế nào đối với họ và DuPont đáp ứng kỳ vọng của họ đến
mức nào.
Kết quả: DuPont được tiếng là đơn vị dẫn đầu trong các hoạt động
nghiên cứu và công nghệ, và nói chung đây là một công ty tốt đang trên đà phát triển.
Thế nhưng danh tiếng của họ lại không được tốt trong lĩnh vực tạo ra sản phẩm và dịch
vụ chất lượng cao. Đây không phải là nơi làm việc lý tưởng. Và công chúng cũng cho
rằng họ chưa quan tâm đầy đủ đến các vấn đề xã hội và môi trường. Các chuyên viên
DuPont đã dựa trên dữ liệu này để xây dựng chiến lược quan hệ công chúng. Tuy
nhiên, phương pháp quan trọng hơn kết quả. Nghiên cứu này cho thấy DuPont đã vượt
xa các công ty khác trong nhận thức về quy trình chăm sóc danh tiếng.
DuPont còn thử nghiệm nhiều phương pháp đánh giá khác nhau, cả định
tính lẫn định lượng, trong đó có một nghiên cứu đánh giá thương hiệu DuPont trị giá
11 đến 14 tỷ đô-la, với giá trị tiềm năng có thể lên đến 19 tỷ đô-la.
DuPont “cân đong” lại danh tiếng của mình sau mỗi thay đổi lớn của
doanh nghiệp, chẳng hạn như sự kiện làm giới kinh doanh ngạc nhiên khi họ tham gia
vào lĩnh vực dầu lửa năm 1981 với việc mua Conoco. Công ty cũng phải kiểm soát
danh tiếng của mình đối với công chúng để phát hiện những tác động có thể có do sự
thay đổi xu hướng chính trị - xã hội. Các giá trị của người Mỹ đã thay đổi và hình ảnh
DuPont cũng thay đổi.
Thái độ chống kinh doanh và phá vỡ niềm tin ở Mỹ vào thập niên 50 đã
đe dọa danh tiếng của DuPont, nhắc nhở họ việc bổ sung các nội dung thuộc về ý thức
hệ vào mỗi thông điệp quảng cáo. Thế là trên các phương tiện truyền thông liên tục
xuất hiện những chương trình quảng cáo dạy đời. Chúng rêu rao những đóng góp kinh
tế của DuPont, tán thành giảm thuế đối với các phí tổn dành cho mục đích nghiên cứu
và không ngớt tuyền truyền lợi ích của các nghiên cứu hóa học. Đến thập niên 70, các
tổ chức bảo vệ môi trường tập trung chú ý vào nạn ô nhiễm do ngành công nghiệp hóa
chất gây ra. Thập niên 80 khép lại cũng là lúc DuPont nhận ra mình đã bị xem là đơn
vị gây ô nhiễm hàng đầu ở Mỹ. Công ty hiểu họ cần gấp rút khôi phục lại thanh danh
của mình. Edgar Woolard – giám đốc điều hành tại thời điểm đó – biết rằng công ty
phải làm nhiều hơn những chiêu thức quảng bá màu mè và lập tức điều chỉnh mọi hoạt
động của công ty theo hướng có trách nhiệm hơn với môi trường. Thật vậy, DuPont đã
giảm thiểu lượng chất thải, cải tạo các quy trình sản xuất không phù hợp, đồng thời
kiểm soát việc tiêu thụ năng lượng.
DuPont đã thành công trong việc cải thiện danh tiếng về môi trường,
nhưng các nghiên cứu về hình ảnh doanh nghiệp cho thấy họ vẫn cần thay đổi nhận
thức của công chúng về chính mình. Vào giữa thập niên 90, cuộc nghiên cứu theo mô
hình “nhóm trọng điểm” gồm các nhà đầu tư, khách hàng, nhân viên và nhiều quan
chức chính phủ làm ban lãnh đạo công ty giật mình: đa số những người được hỏi chỉ
xem DuPont như một tập hợp rời rạc với mấy nhà khoa học quanh năm ẩn mình trong
tòa tháp ngà mà không cần biết đến thế thái nhân tình. Hy vọng được nhìn nhận là chu
đáo và gần gũi với công chúng hơn, DuPont phát động một chiến dịch quảng cáo mới,
trong đó “bộ mặt nhân văn” của công ty được giới thiệu thông qua việc phác thảo hình
ảnh các nhà khoa học và những câu chuyện của họ về việc làm cầu bằng chất dẻo và
cải tiến bàn chải đánh răng. Sau khi xem quảng cáo này, tất cả các thành viên của
nhóm trọng điểm đều có cảm nhận tốt hơn về DuPont.
Chưa hết, DuPont còn hy vọng thay đổi cái tiếng bảo thủ của mình
thành một danh tiếng tốt đẹp về sự năng động và đổi mới, cũng như phá vỡ quan niệm
cho rằng công nghiệp hóa chất một là ngành buồn tẻ, nhàm chán và đặc biệt là từng
bước phá hủy môi trường sống.
Chủ tịch kiêm giám đốc điều hành, Charles O. Holliday, Jr., tuyên bố:
“DuPont là một công ty khoa học. Cần xác định vị trí mới mô tả hết tính chất của
DuPont”. Thế là công chúng bắt đầu được nghe khẩu hiệu quảng cáo “Phép màu của
khoa học” mỗi khi người ta nhắc đến DuPont. Ông nói thêm: “Cốt lõi danh tiếng của
chúng tôi mang thuộc tính khoa học. Khoa học là một sự liên tưởng tuyệt vời vì nó liên
quan đến những nỗ lực cải thiện chất lượng cuộc sống. Điều đó giúp thông điệp của
chúng tôi tiếp cận được với từng cá nhân trong xã hội”.
Trước khi thay đổi khẩu hiệu, công ty đã chuẩn bị kỹ lưỡng đúng theo
phong cách đặc trưng của mình. Họ thận trọng nghiên cứu, lấy ý kiến công chúng vì sợ
rằng biết đâu người tiêu dùng có thể suy diễn từ “phép màu” mang âm hưởng tôn giáo
nhiều quá chăng. Nhưng khẩu hiệu “Phép màu của khoa học” đã được thử nghiệm và
được người tiêu dùng, nhân viên và khách hàng ở 6 nước chấp nhận.
Giờ đây, DuPont đang hy vọng bội thu những vụ mùa danh tiếng. Một
nghiên cứu gần đây cho thấy gần 60% người tiêu dùng Mỹ có thái độ tích cực với
DuPont, khoảng 3/4 nhà điều hành doanh nghiệp cũng vậy. Ban lãnh đạo công ty đang
lên kế hoạch biến đổi những ý kiến trung lập và tiêu cực thông qua chiến dịch “Phép
màu của khoa học”.
DUY TRÌ DANH TIẾNG
Bước đầu tiên trong việc quản lý danh tiếng là đánh giá danh tiếng, bởi
bạn không thể quản lý thứ mà bạn không đánh giá được. Muốn vậy, các công ty phải
khai thác dữ liệu nghiên cứu và tìm hiểu xem các đối tượng khác nhau nhận thức về họ
ra sao, cũng như yếu tố nào tác động đến danh tiếng của họ. Họ mạnh ở điểm nào, và
yếu ở điểm nào? Danh tiếng của họ như thế nào, nếu đem so sánh với hình ảnh của các
đối thủ cạnh tranh chính? Giải đáp xong những câu hỏi này là các công ty đã sẵn sàng
cho phần việc khó khăn hơn là củng cố danh tiếng để thu hút khách hàng, nhân viên và
các nhà đầu tư.
Ngày càng nhiều công ty noi gương DuPont trong hoạt động chăm sóc
và kiểm soát danh tiếng của mình. Những vụ kiện tụng doanh nghiệp gần đây và
những phán quyết nghiêm khắc của tòa án vì hoạt động kế toán mờ ám và quản trị
doanh nghiệp bê bối chắc chắn đã góp phần làm mọi người quan tâm nhiều hơn đến
danh tiếng. Nhưng trên thực tế, danh tiếng doanh nghiệp bắt đầu thu hút sự chú ý của
các giám đốc điều hành từ cuối thập niên 90, ngay trước khi Enron sụp đổ.
Joy Marie Sever – giám đốc phụ trách danh tiếng của Harris Interactive –
nói: “Các vụ bê bối doanh nghiệp khiến mọi người hiểu rõ hơn công việc mà chúng tôi
đang làm, tuy hầu hết khách hàng của chúng tôi không hề liên quan đến bất kỳ vụ bê
bối nào. Nhiều người quan tâm đến danh tiếng của họ từ trước khi những vụ bê bối đó
bị phanh phui”.
Tuy nhiên, các khách hàng của Sever vẫn chỉ là thiểu số. Chưa đến một
nửa số công ty – chỉ 41% – nói rằng họ đã soạn thảo sẵn chương trình khảo sát khách
hàng để đánh giá danh tiếng của mình, như kết quả một cuộc khảo sát các nhà điều
hành do hãng quan hệ công chúng Hill & Knowlton và tạp chí Chief Executive thực
hiện. Thật đáng ngạc nhiên là có tới 73% công ty đánh giá danh tiếng của mình bằng
cách … nghe ngóng, dò hỏi, trong khi 27% dựa vào các bảng xếp hạng danh tiếng do
báo chí phát hành. Những doanh nghiệp nhỏ ít có khả năng đầu tư vào các nghiên cứu
khách hàng, chỉ có 32% so với 48% ở các công ty lớn. Các ngành công nghiệp năng
lượng, tiện ích công cộng, dịch vụ tài chính, chăm sóc sức khỏe có nhiều khả năng
nhất trong việc thuê các hãng nghiên cứu thực hiện dự án nghiên cứu khách hàng.
Vấn đề nan giải là có quá nhiều công ty chỉ đánh giá danh tiếng vào
những thời điểm gặp rắc rối và đa số không duy trì được hoạt động kiểm tra, giám sát
một cách có phương pháp. Giám đốc điều hành James Gregory của CoreBrand – một
hãng tư vấn đặt tại Stamford, Connecticut – nói: “Nhiều công ty thích thay đổi nhà
cung cấp dịch vụ nghiên cứu, hoặc dùng một trong rất nhiều đại lý quảng cáo của họ,
nhưng sức mạnh thật sự của biện pháp đánh giá danh tiếng lại là khả năng theo dõi
hoạt động đó qua thời gian bằng cách áp dụng một phương pháp nhất quán”.
Có rất nhiều hệ thống đánh giá, theo dõi và quản lý danh tiếng đáng tin
cậy để các công ty lựa chọn. Quy trình này không phải là một môn khoa học chính xác
và nhiều phương pháp khác nhau đã được áp dụng để đánh giá các yếu tố cấu tạo nên
danh tiếng. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải nắm vững phương pháp của từng hãng
nghiên cứu, nhất là các thành phần liên quan đang được khảo sát và các đặc điểm đang
được nghiên cứu.
Hãy thận trọng nếu ví trí trong bảng xếp hạng về mức độ thỏa mãn của
khách hàng tăng lên. Lướt qua bất kỳ số báo nào của tạp chí The Wall Street bạn đều
dễ dàng bắt gặp ba hoặc bốn mẩu quảng cáo tự khen ngợi mình là “chiếm vị trí đầu
bảng” trong một cuộc khảo sát nào đó. Dù những danh hiệu như vậy có thể ít nhiều
ảnh hưởng khiến lượng khách hàng mua xe hơi, điện thoại di động và máy tính gia
tăng chút đỉnh, nhưng lời ngợi khen đó chỉ tập trung vào chất lượng sản phẩm và dịch
vụ, nên chẳng mấy khi bạn đánh giá được danh tiếng một cách tổng thể.
Các công ty sẽ tìm đến những bảng xếp hạng xứng đáng hơn như Chỉ
số Danh tiếng của Harris Interactive, hay danh sách những công ty được ngưỡng mộ
nhất do tạp chí Fortune bình chọn. Những cuộc khảo sát như vậy là phương pháp luận
và cung cấp một tiêu chuẩn đánh giá hoàn chỉnh hơn về danh tiếng doanh nghiệp. Các
nghiên cứu hàng năm được đánh giá cao khác là bảng xếp hạng Sức mạnh Thương
hiệu của CoreBrand, dựa trên kết quả xếp hạng của các nhà điều hành cao cấp về sự
hiểu biết và cảm nhận tích cực của họ đối với công ty; và cuộc khảo sát nhận thức của
độc giả về danh tiếng, chất lượng quản lý, tiềm năng đầu tư của hơn 800 công ty do
phòng nghiên cứu thị trường thuộc The Wall Street Journal thực hiện.
Nhưng ngay cả những bảng xếp hạng được cho là đáng tin cậy nhất
cũng chỉ có một giá trị giới hạn. Các công ty cần nhiều hơn những cuộc khảo sát kiểu
“một cỡ áo vừa cho mọi khổ người” như vậy. Họ phải định kỳ tìm hiểu về khách hàng
của mình thông qua phòng nghiên cứu thị trường của công ty, các hãng quảng cáo hay
quan hệ công chúng, hoặc hãng nghiên cứu độc lập như Harris Interactive, Roper-
ASW, Opinion Research Corporation, Walker Information… John Gilfeather - phó
chủ tịch RoperASW - nói: “Khi ‘đo thân nhiệt’ của một công ty, tôi muốn đặt những
câu hỏi mở về sự yêu thích. Tôi muốn biết những cảm nhận này tích cực hay tiêu cực
đến mức nào”.
Việc nghiên cứu khách hàng cho phép các nhà quản lý doanh nghiệp tập
trung vào những đặc điểm danh tiếng thiết thực nhất đối với họ, cũng như thu thập tin
tức về các đối thủ cạnh tranh. Trước sự khốc liệt, dữ dội của thị trường viễn thông,
AT&T đã liên tục thực hiện nhiều cuộc nghiên cứu khách hàng về vấn đề danh tiếng.
Cứ mỗi hai tháng, công ty lại lấy số liệu về vị trí của họ trong nhận thức của nhân
viên, công chúng, các nhà đầu tư chủ động, các cổ đông, và các nhà hoạt động cộng
đồng. Ngoài ra, các báo cáo hàng quý còn cung cấp ý kiến phản hồi về trải nghiệm và
nhận thức của khách hàng. Kết quả là trong thời gian đó, ai nấy đều ghét cay ghét đắng
công ty điện thoại này. Càng có thêm thông tin, công ty càng hiểu rằng tốt hơn cả là cố
tìm mọi cách xoa dịu thái độ thù địch của khách hàng.
“Các bảng xếp hạng công khai chỉ cho bạn cái quyền được khoe khoang
khoác lác, chứ thật ra chẳng giúp gì cho bạn trong việc quản lý thương hiệu doanh
nghiệp”, - Robert Atkyns, giám đốc thương hiệu toàn cầu, quản lý tài sản thương hiệu và
nghiên cứu quan hệ công chúng tại AT&T, nói. - “Chúng tôi thích tự mình tiến hành các
cuộc nghiên cứu, bởi nó cho phép chúng tôi tiếp cận gần hơn với vấn đề của chính mình.
Việc liên tục giám sát danh tiếng cần thiết hơn là chỉ đơn giản phản ứng lại cuộc khủng
hoảng dưới hình thức kiểm soát thiệt hại”.
Các công ty cần chia dữ liệu nghiên cứu thành từng nhóm dựa trên
các đặc điểm như giới tính, lứa tuổi, thành phần xã hội … Đối với một vài công ty,
các nhà đầu tư có thể là thành phần quan trọng, trong khi công ty khác có thể lại quan
tâm nhiều đến thái độ của những người đang quay lưng với họ. Altria Group quyết
định tăng cường nghiên cứu thương hiệu doanh nghiệp bằng cách tìm hiểu thái độ của
nhiều đối tượng khác nhau. Họ thường xuyên tham khảo ý kiến của người tiêu dùng,
nhưng vẫn dành sự ưu tiên ngày càng tăng cho những phụ nữ “có tiếng nói quyết định”.
Công ty thuốc lá và thực phẩm này cũng tập trung nghiên cứu tại các bang nơi vấn đề
chính sách xã hội được chú trọng, chẳng hạn như việc tăng thuế thuốc lá hoặc hạn chế
hút thuốc nơi công cộng…
Có những công ty tin tưởng vào hệ thống đánh giá chi tiết của mình đến
độ biến danh tiếng doanh nghiệp thành một tiêu chuẩn để đánh giá hiệu suất hoạt động,
thậm chí là cơ sở xác định chế độ lương bổng của nhà điều hành. Đây là một động thái
táo bạo và khá cực đoan, nhưng nó có tác dụng cảnh tỉnh, giúp các nhà điều hành cấp
cao ý thức rõ ràng – thông qua các con số cụ thể - về tài sản vô hình này, vì danh tiếng
cá nhân của họ luôn song hành cùng danh tiếng doanh nghiệp. Bên cạnh các chỉ số về
kết quả tài chính, Ngân hàng Quốc gia Australia đã đưa các biện pháp đánh giá danh
tiếng doanh nghiệp vào hệ thống ghi điểm hiệu suất hoạt động của giám đốc điều
hành. Và Alticor, công ty mẹ của doanh nghiệp bán hàng trực tiếp Amway, đã ràng
buộc danh tiếng doanh nghiệp của mình vào chính hiệu suất hoạt động và chế độ lương
thưởng cho ban quản lý. Mark Bain, phó chủ tịch phụ trách thông tin liên lạc của
Alticor, nói: “Danh tiếng sẽ được tập trung và chú ý, nếu nó là một phần trong kế
hoạch hàng năm của một phòng ban hay một thị trường, nên hiển nhiên cũng phải là
một phần trong thu nhập của nhà quản lý”.
CÁC NGHIÊN CỨU DANH TIẾNG ĐIỂN HÌNH
Bạn đã bao giờ tự hỏi tại sao Johnson & Johnson lại xếp thứ nhất trong
cuộc khảo sát Chỉ số Danh tiếng của Harris Interactive, nhưng chỉ xếp thứ sáu trong
danh sách các công ty được ngưỡng một nhất tại Mỹ của tạp chí Fortune, và thứ ba
trong bảng xếp hạng Sức mạnh Thương hiệu của CoreBrand? Toàn bộ vấn đề nằm ở
chỗ đối tượng và những đặc điểm của doanh nghiệp được khảo sát.
AI ĐỨNG ĐẦU?
Các bảng xếp hạng danh tiếng doanh nghiệp khác nhau đáng kể do có sự
khác nhau trong cách thức lựa chọn đối tượng và phương pháp khảo sát. Sau đây là
danh sách 10 doanh nghiệp hàng đầu từ ba bảng xếp hạng danh tiếng có uy tín nhất:
CHỈ SỐ DANH TIẾNG
Khảo sát 22. 500 người do Harris Interactive và Viện Danh tiếng thực hiện.
1. Johnson & Johnson 6. Maytag
2. Harley-Davidson 7. Eastman Kodak
3. Coca-Cola 8. Home Depot
4. United Parcel Service 9. Dell
5. General Mills 10. 3M
CÁC CÔNG TY ĐƯỢC NGƯỠNG MỘ NHẤT CỦA MỸ
Trưng cầu ý kiến 10. 000 nhà điều hành, giám đốc và nhà phân tích chứng
khoán, do Hay Group thực hiện cho tạp chí Fortune.
1. Wal-Mart 6. Johnson & Johnson
2. Southwest Airlines 7. Microsoft
3. Berkshire Hathaway 8. FedEx
4. Dell 9. Starbucks
5. General Electric 10. Procter & Gamble
SỨC MẠNH THƯƠNG HIỆU
Khảo sát 10. 000 nhà điều hành cao cấp của các công ty lớn, do Core-Brand
thực hiện.
1. Coca-Cola 6. Campbell Soup
2. United Parcel Service 7. FedEx
3. Johnson & Johnson 8. PepsiCo
4. Microsoft 9. Harley-Davidson
5. Walt Disney 10. General Electric
Đây là ba chỉ số danh tiếng nổi tiếng và được quan tâm nhiều nhất. Tuy
vậy, tất cả đều chỉ có giá trị tham khảo nhằm so sánh các công ty một cách tương đối
và là điểm khởi đầu tốt để các công ty nghiên cứu khách hàng của mình sâu hơn.
Chỉ số Danh tiếng
Một trong những bảng xếp hạng danh tiếng được biết đến nhiều nhất là
Chỉ số Danh tiếng (Reputation Quotient, viết tắt là RQ), được thiết lập bởi Harris
Interactive – vốn nổi tiếng với các công trình khảo sát, thăm dò ý kiến công chúng - và
Viện Danh tiếng – một tổ chức có trụ sở đặt tại thành phố New York. RQ được đánh
giá cao vì nó luôn phản ánh chính xác nhất quan điểm tổng thể của người dân Mỹ nhờ
biết thu hút nhiều thành phần liên quan khác nhau. Để đơn giản và tiết kiệm chi phí,
nhiều bảng xếp hạng chỉ lấy ý kiến của các nhà điều hành doanh nghiệp và các nhà
phân tích đầu tư, trong khi Harris tiếp nhận quan điểm của hơn 20. 000 người được
lựa chọn ngẫu nhiên cho cuộc nghiên cứu trực tuyến hàng năm của mình. Sau đó,
Harris phân loại kết quả theo từng nhóm nhỏ, như nhà đầu tư, khách hàng, hay nhân
viên công ty. Các đối tượng tham gia khảo sát được yêu cầu xếp hạng một nhóm 60
công ty “nổi tiếng nhất” đã chọn trước theo 20 đặc điểm thuộc sáu mục: sức lôi cuốn,
sản phẩm và dịch vụ, hiệu quả tài chính, trách nhiệm xã hội, môi trường làm việc, tầm
nhìn và năng lực lãnh đạo. Kết quả RQ được công bố hàng năm trên tờ The Wall Street
Journal.
Các công ty được ngưỡng mộ nhất của Fortune
Báo cáo hàng năm của tạp chí Fortune về các công ty được ngưỡng mộ
nhất nước Mỹ là sự tổng hợp ý kiến của 10. 000 nhà điều hành, giám đốc và nhà phân
tích chứng khoán do hãng tư vấn nguồn nhân lực Hay Group tiến hành. Để có danh
sách “Top ten” chung, từ danh sách đã sàng lọc trước, những người tham gia trả lời
chọn ra 10 công ty mà họ ngưỡng mộ nhất thuộc bất kỳ ngành công nghiệp nào. Với
bảng xếp hạng của riêng từng ngành công nghiệp, họ được yêu cầu xếp hạng các công
ty lớn nhất trong ngành dựa trên 8 tiêu chí: trách nhiệm xã hội, tốc độ đổi mới, giá trị
đầu tư lâu dài, việc sử dụng tài sản doanh nghiệp, tài năng nhân viên, hiệu quả tài
chính, chất lượng sản phẩm và dịch vụ, và năng lực quản lý.
CoreBrand
Hãng tư vấn CoreBrand tập trung vào ý kiến của các nhà điều hành cao
cấp ở những công ty lớn để đánh giá danh tiếng doanh nghiệp. Nghiên cứu có tên Sức
mạnh Thương hiệu (Brand Power) của họ xếp loại công ty dựa trên các tiêu chuẩn như
mức độ hiểu biết về danh tiếng, chất lượng quản lý và tiềm năng đầu tư. Đặc biệt, bên
cạnh việc xếp hạng danh tiếng, CoreBrand còn phát triển phương pháp đánh giá giá trị
gia tăng của thương hiệu (Brand Equity). Họ “cho” thương hiệu doanh nghiệp một giá
trị rồi tính toán giá trị đó theo tỷ lệ phần trăm trên tổng vốn thị trường của một công ty.
Kết quả xếp hạng Brand Power và Brand Equity có khác nhau đôi chút: Microsoft,
General Electric và Wal-Mart thống trị bảng xếp hạng về giá trị gia tăng của thương
hiệu, trong khi Coca-Cola, United Parcel Service và Johnson & Johnson dẫn đầu
trong cuộc khảo sát danh tiếng.
NHỮNG “NHÂN VẬT” MỚI THAM GIA VÀO VIỆC ĐÁNH GIÁ DANH
TIẾNG
Trong số những công ty mới thử bước chân vào lĩnh vực đánh giá danh
tiếng có Rating Research – công ty đã mượn ý tưởng đánh giá mức độ tín nhiệm để
xây dựng hệ thống tính điểm. Điều đó cũng chẳng làm ai ngạc nhiên, khi nhà sáng lập
Rating Research từng làm quản lý tại Dịch vụ Đầu tư Moody’s, còn hai nhà điều hành
khác trước đây cũng từng làm việc cho Moody’s.
Tương tự như phương pháp của Moody’s, Rating Research cũng xếp loại
các công ty theo chữ cái – từ AAA đến C – và xếp riêng trong từng ngành công nghiệp,
chứ không trộn lẫn chúng lại với nhau. Vào năm 2003, hãng này đã đánh giá các công
ty trong ngành điện lực, ngân hàng, cửa hàng bách hóa và cửa hàng giảm giá, dược
phẩm.
Johnson & Johnson, Merck & Company và Pfizer đã dẫn đầu ngành
dược với xếp hạng AAA, trong khi Forest Laboratories đứng ở vị trí cuối cùng với thứ
hạng BB. Trong lĩnh vực ngân hàng, Fifth Third Bancorp và Northern Trust
Corporation chiếm thứ hạng đầu với hạng AA, và sáu công ty có hạng thấp nhất là
BB. Wal-Mart giành vị trí cao nhất là AA trong bảng xếp hạng cửa hàng bách hóa và
giảm giá, trong khi Kmart đứng cuối hàng với hạng CCC. Và trong ngành điện lực,
những “người chiến thắng” là Duke Energy Corporation và Southern Company (AA),
còn PG&E Corporation (CCC) đứng cuối bảng xếp hạng.
Jeffrey Resnick, trưởng phòng nghiên cứu tại Rating Research, nói:
“Đánh giá mức độ tín nhiệm được sử dụng để đánh giá khả năng trả nợ của một công
ty về lâu dài, và danh tiếng cũng được đặt trên cơ sở đó. Hiếm có công ty nào không
vướng phải tranh cãi hay rắc rối, nhưng vấn đề là liệu danh tiếng mà họ xây dựng được
đã đủ mạnh hay chưa”. Rating Research khảo sát các nhà điều hành cấp cao và các nhà
phân tích tài chính bằng cách sử dụng hơn 20 đặc điểm chung, và được bổ sung thêm
những yếu tố phù hợp với từng ngành công nghiệp cụ thể. Rating Research tin rằng
hầu hết các nhà điều hành và phân tích đều am hiểu vấn đề danh tiếng, nhưng cũng
như một số loại xếp hạng khác, họ quên mất hai thành phần liên quan chính là khách
hàng và nhân viên.
ĐÁNH GIÁ DANH TIẾNG MOODY’S
Đây là xếp hạng các công ty dược của Rating Research dựa trên việc khảo sát ý
kiến của các nhà điều hành và phân tích tài chính.
AAA BBB
Johnson & Johnson Abbott Laboratories
Merck Alcon
Pfizer Allergan
AA Bristol-Myers Squibb
Amgen Roche
Eli Lilly Schering-Plough
GlaxoSmithKline Wyeth
A BB
Astra Zeneca Forest Laboratories
Aventis
Bayer
Genentech
Novartis
ĐÁNH GIÁ DANH TIẾNG DJIA 30
NFO WorldGroup đã khảo sát các nhà đầu tư về danh tiếng doanh nghiệp và đề
nghị họ phân chia 30 công ty theo Chỉ số Trung bình Công nghiệp Dow Jones (Dow
Jones Industrial Average) thành ba nhóm. Và đây là kết quả.
MẠNH
Coca-Cola, Johnson & Johnson, Walt Disney, Intel, Microsoft, Procter &
Gamble, General Electric, DuPont, Home Depot, United Technologies, Wal-Mart,
Eastman Kodak.
DỄ BỊ TỔN HẠI
3M, Hewlett-Packard, IBM, McDonald’s, International Paper, Merck, Boeing,
Honeywell, Caterpillar, General Motors, Citigroup, American Express, AT&T, J. P.
Morgan Chase, Exxon Mobil, Alcoa.
CÓ NGUY CƠ RỦI RO
SBC Communications, Altria Group (Philip Morris).
Trong lúc bầu không khí u ám thời kỳ “hậu Enron” đang đè nặng lên
giới doanh nghiệp Mỹ, Rating Research nhanh chóng cho ra đời sản phẩm mới: bảng
đánh giá danh tiếng đạo đức. Theo đó, các công ty cũng được xếp hạng theo chữ cái,
từ E1 đến E5.
Một phương pháp đánh giá danh tiếng mới lạ khác là Chỉ số Công bằng,
Danh tiếng và Quan điểm Doanh nghiệp (CORE) của NFO World-Group. Hệ thống
đánh giá danh tiếng này có độ tập trung hẹp hơn so với hầu hết các hệ thống khác –
như 30 công ty theo Chỉ số Trung bình Công nghiệp Dow Jones – và không xếp theo
số, mà phân loại theo mức độ dễ phục hồi, mạnh, dễ bị tổn hại, hay có nguy cơ rủi ro.
2. 250 nhà đầu tư cá nhân tham gia khảo sát sẽ chấm điểm, và NFO World-Group chỉ
việc cộng lại rồi công bố kết quả.
Năm 2002, không công ty nào được xếp hạng là dễ hồi phục, 12 công ty
xếp loại mạnh, 16 công ty được xem là dễ bị tổn hại, và 2 công ty bị cho là có nguy cơ
rủi ro. Các nhà đầu tư xếp hạng công ty dựa trên hơn 20 yếu tố, và những yếu tố quan
trọng nhất vẫn không thay đổi: sự thỏa mãn của khách hàng, hoạt động kinh doanh
minh bạch, trung thực, chất lượng sản phẩm và dịch vụ, sự tín nhiệm và tin tưởng.