Tổng quan về Ổ cứng Hard Disk Drive (HDD)
Welcome to my “Just about Hard Disk Drive” Tutorial ! Tôi đã tốn khá nhiều thời gian
cho việc chỉnh sửa bộ tutor này đồng thời cũng quyết định bỏ ra 150.000 đ để mua
một cái ổ cứng 2.1GB của Seagate về chụp hình minh hoạ (chụp bằng webcam của
tiệm nên chất lượng hơi kém) cho các bạn dễ hiểu. Đồng thời trong bộ tutor này tôi
cùng một số bạn trong nhóm đã cố gắng hết sức “dùng những gì gần gũi và đơn
giản nhất trong đời thường để mô tả và minh họa thay thế cho các từ ngữ chuyên
môn rất khó hiểu, phức tạp”. Mặc dù đã được kiểm tra kỹ nhưng tất nhiên nó sẽ còn
rất nhiều thiếu sót mong các lão cùng nhau đọc và góp ý để tôi sớm khắc phục.
1/ Cơ bản về ổ cứng (HDD):
Trên thị trường hiện nay ổ cứng xuất hiện rất nhiều và có rất nhiều chuẩn giao tiếp
như IDE, SCSI, SATA… Trong bộ Tutorial này tôi chỉ lấy duy nhất chuẩn ổ cứng IDE
(Intergrate Drive Electronics) để phân tích và minh họa.
A. Cấu trúc vật lý của ổ cứng:
Ổ cứng (Harddisk driver) là một kiểu thiết bị lưu trữ dữ liệu (storage device). Mục
đích chính của các nhà sản xuất trong việc chế tạo ra thiết bị này đó chính là lưu trữ
dữ liệu. Mục đích chính của các nhà sản xuất trong việc chế tạo ra thiết bị này đó
chính là lưu trữ dữ liệu và để thay thế đĩa mềm (tại thời điểm HDD ra đời chưa có
các loại ổ đĩa quang như CDROM hay ZIP). Có một số nhược điểm làm hạn chế
tiện ích và độ tin cậy của đĩa mềm. Ngay cả các ổ đĩa mềm tốt nhất cũng quá chậm
khi đọc/ghi dữ liệu, lại tiêu thụ điện năng nhiều so với các thiết bị khác trong máy
tính. Ổ đĩa mềm còn bị hạn chế về dung lượng lưu trữ, việc chuyển đỗi giữa nhiều
đĩa là cách làm bất tiện và không tin cậy. Nhu cầu về một thiết bị lưu trữ lớn và cố
định đã làm nảy sinh ra ổ đĩa cứng (ổ cứng) vào những năm đầu của thập kỷ 80.
Đương nhiên khả năng lưu trữ lớn lại đẩy mạnh hơn nữa sự phát triển của máy tính.
Hiện nay ổ cứng là một thiết bị chuẩn trong các loại máy tính.
Cấu tạo của ổ cứng:
Bộ khung
Đĩa từ
Các đầu đọc/ghi
Bộ dích chuyển đầu từ:
Mô tơ trục quay
Các loại mạch điện của ổ cứng
1. Bộ khung:
Bộ khung cơ khí rất quan trọng đối với hoạt động chính xác của ổ đĩa cứng, ảnh
hưởng đến sự hợp nhất về cấu trúc, về nhiệt và về điện của ổ đĩa. Khung cần phải
cứng và tạo nên một cái nền vững chắc để lắp ráp các bộ phận khác. Các ổ đĩa
cứng thường dùng khung nhôm đúc, nhưng các ổ cứng loại nhỏ của máy tính xách
tay thường dùng vo plastic. Vật liệu vỏ cụ thể phụ thuộc vào yếu tố [I]hình dạng
(form factor) tức là kích thước của ổ cứng.[/I]
2. Đĩa từ
Đĩa từ của ổ cứng là các đĩa bằng nhôm, thuỷ tinh, hoặc sứ có chế độ hoạt động
tương đối năng. Đĩa được chế tạo rất đặc biệt giúp cho nó có khả năng lưu trữ tốt,
an toàn và không bị “nhão” (nhả từ) như các thiết bị đọc ghi bằng từ tính khác (tuy
nhiên cũng có một số loại đĩa từ sản xuất không đạt tiêu chuẩn qua thời gian có
hiện tượng bị “nhão”). Đĩa được phủ vật liệu từ ở cả hai mặt (môi trường lưu trữ thực)
và bao bọc bằng lớp vỏ bảo vệ. Sau khi đã hoàn tất và đánh bóng, các đĩa này
được xếp chồng lên nhau và ghép nối với môtơ quay; có một số loại đĩa cứng chỉ có
một đĩa từ. Trước khi chồng đĩa được lắp cố định vào khung, cơ cấu các đầu từ được
ghép vào giữa các đĩa.
3. Các đầu đọc ghi
Trước kia các đầu đọc/ghi của ổ đĩa cứng thường được chế rao như trong ổ đĩa
mềm, lõi sắt mềm cộng với 8 đến 34 (hoặc hơn) vòng dây đồng mảnh. Các đầu từ
này có kích thước lứon và tương đối năng làm hạn chế số rãnh có thể có trên mặt
đĩa mà hệ thống chuyển dịch đầu từ phải khắc phục.
Hiện nay, các thiết kế đầu từ đã loại bỏ các kiểu quấn dây cổ điển mà dùng loại đầu
từ màng mỏng. Nó được chế tạo giống như vi mạch dùng công nghệ quang hóa. Do
kích thước nhỏ và nhẹ nên độ rộng của rãnh ghi cũng nhỏ hơn và thời gian dịch
chuyển đầu tư nhanh hơn.
Trong cấu trúc tổng thể, các đầu đọc/ghi này được gắn vào các cánh tay kim loại
dài điều khiển bằng các môtơ. Các vi mạch tiền khuếch đại của đầu từ thường được
gắn trên tấm vi mạch in nhỏ nằm trong bộ dịch chuyển đầu từ. Toàn bộ cấu trúc này
được bọc kín trong hộp đĩa. Hộp được đậy kín bằng nắp kim loại có gioăng lót.
4. Bộ dịch chuyển đầu từ:
Nhiều loại đĩa cứng sử dụng môtơ [I]cuộn dây di động (voice coil motor) còn gọi là
môtơ cuộn dây quay (rotary coil) hoặc servo để điều khiển chuyển động của đầu từ.
Các môtơ servo có kích thước nhỏ, nhẹ rất thích hợp với ổ cứng nhỏ gọn và có thời
gian truy cập nhanh.
Thách thức lớn nhất trong việc điều khiển đầu tư là giữ cho được nó đúng ngay tâm
rãnh mong muốn. Nói cách khác là các nhiễu loại khí động học, các hiệu ứng nhiệt
trên đĩa từ và các biến thiên của dòng điều khiển môtơ servo có thể gây nên sai số
trong việc điều định vịi đầu từ. Vị trí của đầu từ phải luôn luôn được kiểm tra và điều
chỉnh kịp thời để đảm bảo vị trí rãnh thật chính xác. Quá trình hiệu chỉnh đầu từ theo
rãnh gọi là phương pháp servo đầu tư. Cần có thông tin để so sánh vị trí thực và vị
trí mong muốn của đầu tư.
Thông tin servo dành riêng (Dedicated servo information) được ghi trên mặt đĩa từ
dự trữ.
Thông tin servo nhúng (Embedded servo information) lại được mã hoá thành các
chùm dữ liệu ngắn đặt trên từng sector
Hệ thống servo sử dụng sự lệch pha của các xuung tín hiệu của các rãnh kế cận để
xác định đầu từ có được đặt đúng giữa rãnh hay không.[/I]
5. Môtơ trục quay
Một trong những yếu tố xác định chất lượng của ổ cứng là tốc độ mà đĩa từ lướt qua
dưới đầu đọc/ghi. Đĩa từ lướt qua đầu từ với tốc độ khá cao (ít nhất là 3600
vòng/phút). Môtơ trục (spindle môtơ) có chức năng làm quay các đĩa từ. Môtơ trục là
loại môtơ không có chỗi quét, chiều cao thấp, dùng điện một chiều, tương tự như
môtơ trong ổ đĩa mềm. Khi môtơ được cấp điện, một từ trường được tạo ra trong các
cuốn dây môtơ. Khi điện cắt, năng lượng từ trường lưu trữ trong các cuộn dây môtơ
được giải phóng dưới dạng xung điện thế ngược. [I]Kỹ thuật Hãm động (dynamic
braking) sẽ sử dụng năng lượng của xung điện thế ngược đó để làm dừng đĩa lại.[/I]
Các mạch điện tử của ổ cứng
Nhìn thẳng vào ổ cứng bộ phận đầu tiên mà chúng ta thấy chính là bo mạch điều
khiển. Ổ đĩa cứng được điều khiển bởi các mạch điẹn tử tương đối phức tạp. Mạch
điện tử được gắn dưới bộ khung và chứa hoàn toàn các mạch cần thiết để truyền tải
các tín hiệu điều khiển và dữ liệu với bộ giao diện vật lý riêng, điều khiển đầu
đọc/ghi, thực hiện đọc/ghi theo yêu cầu và để quay các đĩa từ. Mỗi một chức năng
kể trên phải được thực hiện hoàn hảo với độ chính xác cao. Bo mạch điều khiển này
bao gồm bộ chip controller, chip input/output IO, bộ nhớ đệm cho ổ cứng (HDD
cache), một ổ cắm nguồn 5+ 5 12 12+, và chân cắm chuẩn IDE 39/40 chân. Đối
với các thế hệ ổ cứng trước đây bộ nhớ đệm rất thấp chỉ có từ 512kb trở xuống còn
với các thế hệ ổ cứng hiện đại sau này thì số lượng cache rất cao từ 1Mb trở lên.
Trong bo mạch của ổ cứng thì motor , chip controller và bộ nhớ đệm đóng vai trò rất
quan trọng. Bộ nhớ đệm càng cao thì tốc độ truy xuất dữ liệu trên ổ cứng sẽ nhanh
hơn rất nhiều và vấn đề sai sót dữ liệu cũng rất thấp. Tương tự , tốc độ quay của
motor và khả năng điều khiển của bộ controller cũng không kém phần quan trọng,
nếu tốc độ của ổ cứng (rpm revolution per minute số vòng trên phút) càng cao thì
tốc độ truy xuất dữ liệu sẽ càng nhanh.
Các khái niệm của ổ cứng:
Rãnh (track)
Cung từ (Sector)
Xi lanh (Cylinder)
.....
Track (rãnh) :
Có thể coi mỗi mặt đĩa cứng là một trường hai chiều: cao và rộng. Theo kiểu hình
học này thì dữ liệu được ghi vào các vòng tròn đồng tâm, phân bố từ trục quay ra tới
rìa đĩa. Mỗi vòng trong đồng tâm trên đĩa gọi là track. Thông thường,mỗi đĩa có từ
312 đến 2048 rãnh. Track là một tập hợp bao gồm một số sector nhất định nhưng
dung lượng từng track khác nhau có độ lớn từ trong ra ngoài (Track 0>track 1 >track
2 >…>track N>track N+1)
Sector (cung từ): Mỗi track là một vòng tròn dữ liệu có tâm là tâm của trục quay đĩa
từ. Một track chia thành rất nhiều cung, người ta gọi các cung này là sector (cung
từ). Sector là vùng vật lý chứa dữ liệu nhỏ nhất trong ổ cứng kể cả khi đọc và ghi.
Thông thường thì 1 sector chứa được 512 byte dữ liệu (US Windows). Mỗi track đều
chia thành một lượng sector nhất định. Tuy nhiên, vì các track bên ngoài bao giờ
cũng lớn hơn các track phía trong (gần trục) cho nên càng vào sâu các track phía
trong thì dung lượng mà 1 sector có thể chứa được càng thấp.
Cấu trúc của sector :
Sector header (thông tin cơ bản) : lưu trữ các thông tin về vị trí đầu đọc , cylinder,
và số thứ tự vật lý của sector. Nó cũng đảm nhận luôn nhiệm vụ xác định sector có
sử dụng được hay không hoặc sector nào sẽ lưu dữ liệu thay cho sector này. Thông
tin cuối cùng mà sector header cung cấp chính là giá trị của việc kiểm tra lỗi dữ liệu
tuần hoàn (hay còn gọi là lỗi chẵn lẽ CRC), giá trị này giúp cho các chương trình xác
định được sector header có chính xác hay không.
Góc rỗng (GAP) : đối với một sector sự có mặt của góc rỗng là rất cần thiết. Góc
rỗng cung cấp cho đầu đọc/ghi một khoảng thời gian nhất định để nó có thể chuyển
từ việc đọc dữ liệu trên sector sang ghi dữ liệu. Khi đọc dữ liệu, đầu từ sẽ bỏ qua
góc rỗng.
Dữ liệu: Thông thường khi ta format đĩa cứng duới nền Windows hoặc DOS thì một
sector có thể chứa được 512 byte dữ liệu. Phần cuối cùng của vùng dữ liệu này chứa
thông tin về mã sửa lỗi (ECCs), dùng cho việc phát hiện và sửa lỗi.
Góc rỗng mở rộng (InterGAP): Có gì khác nhau giữa “Góc rỗng” và “Góc rỗng mở
rộng” (GAP và InterGAP) ? Góc rỗng cung cấp cho đầu từ một khoảng thời gian
nhất định đễ đầu từ chuyển đổi từ việc “đọc dữ liệu ” sang “ghi dữ liệu” trên cùng 1
sector. Còn Góc rỗng mở rộng thì cung cấp cho đầu đọc 1 khoản thời gian nhất định
để đầu đọc có thể chuyển từ việc “ghi trên 1 sector này” sang “đọc sang sector kết
tiếp”. Tương tự như Gócrỗng, khi đọc dữ liệu đầu đọc bỏ qua Góc rỗng mở rộng.
Cylinder bao gồm những track có chung một tâm và đồng trục nằm trên những mặt
đĩa từ.
Số sector trên một track: khi sản xuất ra đĩa cứng nhà sản xuất luôn ghi rõ ràng
những thông số liên quan đến ổ cứng trong đó có phần số sector trên một track
(sector per track). Những ổ cứng hiện đại ngày nay sử dụng rất nhiều kích cỡ khác
nhau trên từng track. Ổ cứng ghi và đọc theo nguyên tắc từ ngoài vào trong trên mặt
đĩa từ. Các track nằm ngoài cùng thì bao giờ cũng có nhiều không gian cho sector
hơn là các track nằm sâu ở bên trong (gần tâm đĩa từ). Do đó những phần dữ liệu
nằm trên sector và track đầu tiên của ổ cứng bao giờ cũng được truy xuất nhanh
nhất.
Đầu đọc (head) và motor trợ động (servomotor): Trên mỗi mặt đĩa từ của ổ cứng thì
đều có một đầu đọc (head) riêng biệt những đầu đọc này có vai trò đọc/ghi dữ liệu
lên bề mặt đĩa từ. Trước đây những loại ổ cứng cũ đều sử dụng loại motor dịch
chuyển (stepmotor) để di chuyển đầu đọc. Loại motor này làm tốn rất nhiều thời
gian và rất mau hư vì thế ngày nay người ta không còn sản xuất những loại ổ cứng
như thế mà thay vào đó là những loại ổ cứng được thiết kế “motor trợ động” (servo
motor) có cấu trúc đơn giản hơn motor dịch chuyển rất nhiều và thời gian dịch
chuyển nhanh đồng thời rất ít bị hư hại. Motor trợ động đóng một vai trò rất quan
trọng trong việc đọc ghi của đầu đọc. Tốc độ của motor trợ động phải đồng bộ với
tốc độ của motor chính (motor quay đĩa từ) nếu không sẽ không thể đọc chính xác
được dữ liệu. Cấu trúc motor trợ động khá đơn giản nó không như một motor thông
thường mà chỉ đơn thuần là một bộ phận chuyển động có giới hạn trong một góc
quay nhất định. Motor trợ động chỉ là một bộ khung có quấn cuộn cảm phát sinh lực
từ để chuyển động và một nam châm có lực hút rất mạnh được gắn vào khung điều
khiển của đầu đọc. Ở trạng thái binh thường không hoạt động motor trợ động sẽ tự
động đưa đầu đọc vào khoang trống, một khoảng không trống có khung bảo vệ bên
ngoài các đĩa từ, để tránh rủi ro tối đa cho các đầu đọc cực nhỏ được gắn trên cần
đọc. Bên trong ổ cứng là một môi trường chân không hoàn toàn và chống ẩm. Giữa
đầu đọc và mặt đĩa từ có một khoảng không gian cực nhỏ có thể nói là siêu nhỏ. Ở
đây tôi cũng xin khẳng định lại là “ở giữa mặt đĩa từ và đầu đọc là một khoảng không
gian siêu nhỏ trong môi trường chân không bên trong ổ cứng” chứ không phải là
“giữa ổ cứng và đầu đọc có một lớp đệm không khí hoặc lớp đệm từ trường” như một
số bài báo và sách đã đề cập đến. Tốc độ motor quay đĩa từ rất cao khi quay sẽ tạo
ra gió nếu như ta mở nắp đậy ổ cứng ra, nếu có không khí bên trong ổ cứng thì khi
đĩa từ quay với tốc độ cao như thế sẽ tạo gió làm rung và có thể thổi bay luôn cả
những đầu đọc đồng thời trong không khí có rất nhiều bụi bẩn trong khi đó mặt đĩa
từ phải luôn luôn sạch bóng. Do đó bên trong ổ cứng phải là môi trường chân không.
Ổ cứng là một thiết bị lưu trữ dữ liệu bằng từ tính, đầu từ đọc và ghi bằng từ tính và
mặt đĩa từ cũng có độ nhạy từ rất cao như thế thì không thể nào ở giữa đầu đọc và
đĩa từ lại có thêm một lớp đệm từ trường như là “xe lửa cao tốc” được.
Tốc độ quay của motor chính (motor quay đĩa từ) : Thông thường thì các loại đĩa
cứng hiện nay có tốc độ quay từ 5200rpm đến 7200rpm. Không chỉ có thế trên thị
trường hiện nay đã có những loại ổ cứng chuyên dụng “đụng nóc” với khả năng có
tốc độ đến 10000rpm. Tốc độ quay giữ một vai trò thiết yếu đến tốc độ truy xuất dữ
liệu của ổ cứng, quay càng nhanh thì đọc và ghi càng nhanh nhưng như thế cũng
đồng nghĩa là ổ cứng sẽ kêu to hơn và mau nóng hơn. Khi ổ cứng nóng lên (có
nghĩa là đĩa từ cũng sẽ nóng lên theo) sẽ làm cho lực từ bị hao hụt và “nhiễu” lúc đó
dữ liệu đọc và ghi sẽ có rất nhiều vấn đề. Với những loại ỗ cứng có tốc độ cao như
thế này thì các nhà sản xuất luôn khuyến cáo người tiêu dùng nên trang bị thêm
quạt giải nhiệt để kéo dài tuổi thọ và dữ liệu của ổ cứng. Nhờ có tốc độ cao như thế
mà các ổ cứng thế hệ sau này đều có khả năng đọc hết tất cả mọi sector trên cùng
một track chỉ bằng một vòng quay. Tốc độ của motor quay đĩa từ luôn luôn là một
hằng số , nếu nó bị thay đổi có nghĩa là ổ cứng đó không thể sử được nữa.
Thời gian tìm, thời gian chuyển đầu đọc và thời gian chuyển cylinder: Cách tổ chức
dữ liệu trên ổ cứng là cách tổ chức dữ liệu có tính liên tục do đó khi bộ controller
phát lệnh seek (tìm kiếm) thì bộ controller sẽ chờ đầu đọc một khoảng thời gian nhất
định để đầu đọc tìm ra đúng track,sector. Thời gian đó gọi là thời gian dùng để xác
định vị trí (tìm kiếm ra sector,track). Tuy nhiên đối với một số ổ cứng (đặc biệt là
chuẩn SCSI ) đôi khi thực thi lệnh seek không chính xác. Bộ controller của những ỗ
đĩa này chỉ đưa đầu đọc đến sector hoặc track gần đến vị trí xác định hoặc sẽ
không di chuyển đầu đọc mà chỉ để yên ở đó. Vì “cách lưu trữ dữ liệu của ổ cứng có
tính liên tục” nên thời gian để đầu đọc chuyển từ sector này sang sector kế tiếp hoặc
từ track này sang track kết tiếp sẽ rất nhanh và ngược lại nếu đang đọc ở sector 1
track 0 sang sector 13 track 3 thì sẽ mất rất nhiều thời gian ! Chính vì điều này mà
thời gian tìm một file trên một ổ cứng có dung lượng càng nhỏ thì càng nhanh và
ngược lại. Thời gian chuyển cylinder là thời gian để đầu đọc chuyển từ track này
sang track khác. Thời gian được tính theo đơn vị miligiây (ms).
Thời gian tìm sector trên 1 track xác định (Rotational latency) hay còn gọi là “góc trễ
quay”: khi đầu đọc đã tìm được track xác định, bộ controller tiếp tục thực hiện việc
tìm sector trên track này. Lúc này đầu đọc sẽ không di chuyển nữa mà sẽ đứng yên
trong lúc đó đĩa từ quay liên tục cho đến khi nào đầu đọc xác định được vị trí sector
mà nó cần tìm. Thời gian để làm công vịêc này gọi là “Thời gian tìm sector trên 1
track xác định“ Rotational latency. Tốc độ của ổ cứng càng nhanh thì thời gian tìm
sector trên 1 track càng ít. Thời gian trung bình mà đầu đọc tìm ra sector chính xác
trên 1 track là 4ms(7200rpm) đến 6ms(5400rpm)
Thời gian truy cập dữ liệu (Data Access time) : Thời gian truy cập dữ liệu là tổng thời
gian tìm kiếm, chuyển đầu đọc và tìm sector trên 1 track xác định. Nói như thế là vì
đầu tiên bộ controller phải xác định vị trí để đưa đầu đọc đến vị trí trên cylinder cần
tìm. Sau đó khi dữ liệu đã được đọc hoặc ghi thì cần thêm thời gian để chuyển đầu
đọc để tìm ra track và cuối cùng sau khi xác định được track thì phải tốn thêm một ít
thời gian cho việc tìm ra đúng sector trên track đó.
Đây chì là 1 phần nhỏ trong "cấu trúc vật lý HDD" tôi sẽ post tiếp sau..các lão thông
cảm cho tôi tí
This post has been edited by DuongMedia: Feb 9 2004, 02:35 AM
Feb 13 2004, 01:58 PM
Post #3
littlefox Cluster (chỉ dành riêng cho FATx File System): là đơn vị lưu trữ cơ bản được
chỉ định của đĩa từ. Cluster bao gồm 1 hoặc nhiều sector. Không gian lưu trữ
của ổ cứng được xác định dựa trên những cluster, cho dù đó là một file (hoặc
một phần của file) chỉ chiếm dụng một phần hoặc toàn bộ không gian của
cluster thì điều đó cũng được coi là đã sử dụng một phần không gian của ổ
cứng. Hiếm khi nào dung lượng của một file vừa bằng tổng dung lượng một số
cluster. Nói như thế là vì thông thường cluster cuối cùng lưu trữ một phần dữ
liệu của file thường chứa luôn cả những không gian trống không dùng đến mà
người ta vẫn thường gọi là “không gian rỗng” ở phần cuối của cluster. Ta thử
Group: HVA Moderator làm một phép tính đơn giản để minh hoạ vấn đề này:
Posts: 783
Joined: 2January 04 Cho 1 cluster = 4 KB; ta có 1 file test.txt dung lượng 14 KB như vậy khi ta lưu
Member No.: 56098
file test.txt xuống đĩa cứng file này sẽ được tách thành 4 cluster lần lượt là :
Cluster 1 > 4KB đầu tiên
Cluster 2 > 4KB tiếp theo
Cluster 3 > 4KB tiếp theo
Cluster 4 (cluster cuối cùng) >lưu trữ 2KB còn lại và 2KB bị bỏ trống
2KB bỏ trống này không thuộc về bất cứ file nào, không lưu bất cứ dữ liệu nào
vì cluster 4 đã được chỉ định thuộc về file test.txt do đó đây là một khoảng
không gian rỗng hay nói khác đi “chúng ta đã phí phạm một khoảng không
gian trên ổ cứng” đây chính là một trong những điểm khác nhau và tiến bộ
giữa các thế hệ FAT File System mà chúng tôi sẽ nói đến trong phần hệ thống
file của OS ở phần sau. Mặc dù thế nhưng rõ ràng cái mà người ta nhận được
từ cluster là rất đáng kể, nó làm tăng hiệu năng làm việc của ổ cứng và giúp hệ
điều hành quản lý file tốt hơn nhiều so với việc bắt hệ điều hành và ổ cứng
phải làm việc ở cấp độ sector.
Lost cluster: thông thường khi các bạn dùng các chương trình sửa ổ cứng nhất
là scandisk/ndd (chạy trên FATx File System) đôi khi bạn nhận được thông báo
“Lost cluster found! Fix it ?” Thật ra trong quá trong ổ cứng đọc và ghi dữ liệu,
hệ điều hành có vai trò mở file/tạo file (open/assign file) sau đó tiếp tục phát
lệnh để ổ cứng ghi từng phần dữ liệu vào từng cluster được chỉ định rồi cuối
cùng ra lệnh đóng file (close file). Tuy nhiên đôi khi có một số trường hợp khi ổ
cứng đang ghi dữ liệu vào các cluster đã được chỉ định nhưng bất ngờ bị mất
điện hoặc kết thúc quá trình ghi dữ liệu nhưng lại không thực hiện quá trình
đóng file, cho nên những cluster này sẽ được công nhận là “đã được sử dụng”
nhưng lại không thuộc về bất cứ một file nào. Trong trường hợp này các
chương trình sửa đĩa sẽ ghi các thông tin mà các các cluster này lưu trữ ra từng
file một để backup lại các dữ liệu có giá trị bị mất.
Chain (chỉ dành riêng cho FATx File System): không phải lúc nào dữ liệu của
một file cũng được ghi trên nhưng cluster liên tiếp nhau (1,2,3,4…n). Do đó
nếu như cluster kế tiếp đã được chỉ định là đã sử dụng thì OS sẽ cố gắng tìm
đến cluster kế tiếp hoặc kế tiếp nữa cho đến khi tìm ra cluster trống để ghi dữ
liệu vào. Việc dữ liệu của một file (hoặc từng phần) được ghi rải rác mà không
có sự liên tục trên những cluster thì được gọi là “một chuỗi các cluster” (chain)
và việc OS dịnh dạng trên bảng FAT cũng được gọi là “định dạng một chuỗi
FAT”. Lost chain cũng tương tự như lost cluster chỉ khác là nguyên cả một
chuỗi cluster bị khai báo nhầm là đã được sử dụng.
Bộ đệm ổ cứng (HDD Cache): Hiện nay tuy các nhà sản xuất đang ngày càng
một nâng cao tốc độ của ổ cứng nhưng chắc chắn là tốc độ truy xuất dữ liệu
của ổ cứng sẽ không bao giờ có thể nhanh bằng RAM (Random Access
Memory bộ nhớ truy xuất ngẫu nhiên). Để giảm bớt phần nào khoảng cách
đó, các nhà sản xuất phần cứng và phần mềm đã tạo ra bộ đệm ổ cứng (disk
cache). Bộ đệm của ổ cứng sử dụng một phần của RAM để lưu trữ những
thông tin thường xuyên được các ứng dụng truy nhập. Chính việc lưu trữ những
thông tin này trên RAM, bộ đệm đã giúp tốc độ truy xuất dữ liệu nhanh hơn và
giúp kéo dài tuổi thọ của ổ cứng. Nguyên tắc hoạt động của bộ đệm khá đơn
giản: những dữ liệu thường xuyên được truy nhập sẽ được lưu trữ trong RAM
khi đó nếu có ứng dụng yêu cầu truy cập những dữ liệu này thì những dữ liệu
này sẽ được lấy ra trực tiếp từ RAM chứ không cần ổ cứng phải làm những
công vịêc như: quay đĩa, xác định vị trí đầu đọc, tìm kiếm…
Có 4 kiểu bộ đệm ổ cứng chính:
Bộ đệm “mềm” (Software disk caches): sử dụng một phần bộ nhớ chính của
máy (PC RAM – main memory) để truy xuất và lưu trữ tạm thời một phần dữ
liệu của ổ cứng. Loại bộ đệm này do một chương trình tao và quản lý cho nên
không cần đế những phần cứng hỗ trợ đặc biệt. VCACHE chính là một ví dụ
thực tế về bộ đệm mềm.
Bộ đệm “cứng” (onboard disk caches): sử dụng bộ nhớ và bộ điều khiển
cache được thiết kế ngay trên board mạch của ổ cứng. Mặc dù nó không hề sử
dụng bất cứ một phần RAM nào của bộ nhớ chính (computer RAM) để làm
công việc lưu trữ tạm thời nhưng chúng có dung lượng rất thấp (128KB>2MB
cá biệt có thể lên đến 4MB) và cực kỳ đắt tiền.
Bộ đệm “riêng” (disk caching controllers): tương tự như bộ đệm cứng, bộ đệm
riêng sử dụng bộ nhớ riêng (có cấu trúc khác RAM) nhưng bộ nhớ và bộ điều
khiển mà bộ đệm này sử dụng là bộ nhớ và chíp điều khiển được gắn riêng rẽ
trên một card điều khiển chứ không phải là trên board mạch của ổ cứng và lẽ
dĩ nhiên giá thành của chúng cực kì đắt. Tuy nhiên, bộ đệm riêng lại hoạt động
tốt và nhanh hơn rất nhiều so với bộ đệm cứng vì nó vượt qua được một số giới
hạn của những phần của ổ cứng mà bộ đệm cứng luôn bị ảnh hưởng.
Buffers : ở đây chúng tôi không dịch hẳn từ buffer mà để nguyên như thế vì
giữa buffers và cache có những điểm rất giống nhau. Có rất nhiều tài liệu biên
dịch hoặc nguyên bản hoàn toàn không phân biệt giữa 2 khái niệm “cache” và
“buffers” mà lại để nguyên là “bộ đệm” – như vậy là không chính xác! Vậy giữa
cache và buffers có gì khác nhau và giống nhau ? Có một điểm duy nhất giống
nhau giữa cache và buffers chính là “chúng đều là bộ nhớ đệm có tác dụng lưu
trữ tạm thời một số dữ liệu trên ổ cứng nhằm tăng tốc tốc độ truy xuất dữ liệu
và tăng tuổi thọ cho ổ cứng” và điểm khác nhau giữa chúng là :
Cache có tốc độ cao hơn nhiều so với buffers.
Cache phải cần đến bộ điều khiển cache nếu là “cứng” thì cần phài có chíp
điều khiển, còn “mềm” thì phải cần phần mềm điều khiển – trong khi đó
buffers chỉ là một con chíp nhớ đơn giản không cần bộ điều khiển riêng.
Buffers gặp rất nhiều giới hạn trong các quá trình giao tiếp và chuyển đổi dữ
liệu bởi vì khả năng quản lý dữ liệu của nó rất kém. Khi lưu trữ dữ liệu tạm thời,
buffer lưu trữ một lúc cả một track vì thế nếu muốn tìm một sector nào trên
track này thì hệ điều hành lại phải tiếp tục tìm kiếm trên track mà buffer cung
cấp chậm hơn hẳn so với cache.
Những điều cần chú ý đến Cache : có thể bạn sẽ rất ngạc nhiên nếu như
chúng tôi nói là “ổ cứng có cache lớn không có nghĩa là sẽ truy xuất dữ liệu
nhanh hơn ổ cứng có cache nhỏ (hai cái cùng loại có cùng tốc độ và dung
lượng)”. Nói điều này thì cũngkhông có gì là bất thường lắm, cache là bộ nhớ
do đó tốc độ truy xuất của bộ nhớ làm cache càng nhanh thì càng tốt , tuỳ
thuộc vào mức độ thôn minh và khả năng quản lý của “chíp điều khiển” (cache
controllers chip) và cuối cùng là tổ chức của bộ nhớ làm cache (cho phép đọc/
ghi dữ liệu tuỳ ý hoặc chỉ có thể đọc hoặc ghi từ đầu đến cuối). Tuy nhiên tác
dụng của bộ cache sẽ mất hoặc giảm đi rất nhiều nếu như ổ cứng đã được
defragment (phần này chúng tôi sẽ nói kỹ hơn ở phần Cấu trúc File System)
Ở đây chúng tôi xin được nói thêm một chút về VCACHE : Windows có một
driver ảo gọi là VCACHE có nhiệm vụ quản trị bộ nhớ đệm cho ổ cứng.
VCACHE chính là một sự thay thế cho “bộ đệm mềm” của DOS và các version
Windows trước đó (thường được gọi là SmartDrive). VCACHE có khả năng
thay đổi rất nhanh dung lượng bộ nhớ mà nó sử dụng, điều mà các trình quản
lý bộ đệm trong DOS không thể làm được. Khi đĩa cứng hoạt động liên tục
(chép file hoặc đọc file lớn) trong khi đó việc truy cập bộ nhớ lại thấp thì nó sẽ
tự động điều chỉnh kích thước bộ đệm (tăng lên) cho phù hợp để RAM có thể
chia sẻ bớt một phần công việc của đĩa cứng. Nguợc lại, khi ổ cứng ít hoạt
động (ít truy xuất dữ liệu) nhưng RAM lại liên tục có lệnh truy xuất (khi chạy
các ứng dụng tính toán cao cấp) thì nó sẽ tự động điều chỉnh kích thước bộ
đệm ( giảm xuống) để có được dung lượng RAM tối đa cho các ứng dụng tính
toán. VCACHE hoàn toàn có khả năng tạo ra những file cache (còn gọi là
swap file) ngay trên ổ cứng mạng (98,Me). Nó sử dụng quá trình “đọc trước –
ghi từ cache xuống” (readahead and writebehind caching). VCACHE là một ví
dụ điển hình của “bộ đệm mềm” (software disk cache).
Đọc trước (readahead) : là một phương pháp xem xét thử phần dữ liệu nào sẽ
được ứng dụng yêu cầu truy xuất kế tiếp rồi đọc nó vào bộ nhớ, nó luôn luôn
được kích hoạt khi máy vi tính đang trong trạng thái nghỉ ngơi (Standby) hoặc
ít hoạt động (Idle). Kết quả của phương pháp này là giảm được nhiều chuyển
động của đầu đọc và đĩa cứng hoạt động êm hơn (không đọc nhiều nên không
gây tiếng ồn).
Ghi từ cache xúông (writebehind caching): cũng cho kết quả tuơng tự nhưng
nó còn bao gồm luôn công việc giữ phần dữ liệu trong cache để chúng đuợc
ghi xuống đĩa cứng hoàn toàn cho đến khi máy vi tính nghỉ ngơi (shutdown).
Một vấn đề với phương pháp này là “nếu như máy tính mất điện đột ngột thì
những phần dữ liệu chưa được ghi từ cache xuống ổ cứng sẽ mất trắng không
tìm lại được vì cache là một dạng bộ nhớ cần nguồn nuôi”.
B.Tổ chức dữ liệu cơ bản của đĩa cứng :
Ở đây chúng tôi xin được khẳng định rõ quan điểm của mình là “tổ chức dữ liệu
cơ bản (hay còn được gọi là tổ chức dữ liệu cấp thấp)” của đĩa cứng để phân
biệt rõ ràng với “tổ chức dữ liệu cấp cao” của ổ cứng do những hệ thống file
(file system) của những OS được cài đặt trên ổ cứng tổ chức mà trong một số
tài liệu đã nói chung chung là “tổ chức dữ liệu ổ cứng”. Tổ chức dữ liệu cơ bản
của đĩa cứng là cách sắp xếp những phần tử/đơn vị lưu trữ dữ liệu ở mức thấp
nhất mà nhà sản xuất đã quy định đồng thời các giá trị đo lường của ổ cứng
cũng được tuân thủ theo nguyên tắc riêng.
Các đơn vị đo lường của ổ cứng được tính theo nguyên tắc sau :
Bit là đơn vị lưu trữ dữ liệu nhỏ nhất và chỉ có thể lưu trữ một trong hai giá trị 1
hoặc 0.
1 byte = 8 bit;
1 Kbyte = 1024 byte;
1 Mbyte = 1.000.000 byte;
1 Gbyte = 1000 Mbyte = 1.000.000.000 byte;
1 Tbyte = 1000 Gbyte=1.000.000 Mbyte=1.000.000.000 byte;
Cách thức tổ chức dữ liệu cấp thấp của ổ cứng: như đã trình bày ở những phần
trên 1 byte thì gồm nhiều bit và một sector thì bao gồm nhiều byte, một track
thì bao gồm nhiều sector và một cylinder thì bao gồm nhiều track đồng trục và
bằng nhau. Ngoài ra chúng tôi cũng có nhắc đến vấn đề “tổ chức dữ liệu kiểu
liên tục” ở phần trên, thật ra các đơn vị lưu trữ dữ liệu trên ổ cứng (tính từ đơn
vị lưu trữ dữ liệu nhỏ nhất) chính là một chuỗi dài các đơn vị bit từ chỗ đầu đọc
bắt đầu đọc và ghi cho đến điểm cuối cùng mà đầu đọc có thể đọc/ghi được.
Cả một chuỗi dữ liệu bao gồm các giá trị 1 và 0 (tính theo đơn vị lưu trữ bit)
này chính là cách tổ chức đơn giản nhất hay nói cho có tính khoa học là tổ
chức dữ liệu cấp thấp của ổ cứng.
Để vấn đề trở nên mạch lạc và dễ hiểu hơn chúng tôi xin được minh hoạ đĩa
cứng với “cái thước dây của thợ may”. Bây giờ bạn đã bắt đầu liên tưởng được
rồi, thay vì trên thước dây có đơn vị nhỏ nhất là 1mm thì bạn hãy cho nó là 1
bit. Bây giờ bạn hãy lấy một khúc gỗ tròn để đại diện cho trục ổ cứng rồi từ từ
quấn cái thước dây này quanh trục cho đến khi hết. Lúc này bạn sẽ thấy một
sợi dây dài đã quấn thành nhiều vòng quanh trục, vòng tròn lớn nhất nằm ở
ngoài cùng và nhỏ nhất là nằm ở trong cùng. Bạn sẽ gọi từng vòng là track, gọi
từng cung của những vòng này là sector và đếm số mm trên từng vòng một
bạn sẽ biết được vòng nào dài bao nhiêu mm từ đó biết được số bit trên mỗi
vòng và nhận ra là các vòng ở ngoài càng lớn thì độ dài (dung lượng) càng cao
hơn các vòng ở trong. Và như chúng tôi đã nói là bạn phải liên tưởng , qua ví
dụ thực tế về cái thước dây chắc bạn cũng hiểu được tỗ chức dữ liệu cấp thấp
trên ổ cứng là như thế rồi !
PS: Tiếp theo : Phương pháp truy xuất dữ liệu, thông tin về controller, thế nào
là chuẩn giao tiếp, nói về ATAPI,SCSI,IDE,Serial ATA , so sánh hiệu năng...
Hình ảnh tôi sẽ post lên sau !Xin thông cảm
Mar 23 2004, 04:02 AM
Post #4
littlefox Tổ chức luận lý của PC: Hệ điều hành luôn luôn phải làm một công việc quan
trọng đó chính là tổ chức và tìm kiếm dữ liệu trên đĩa cứng. Đối việc việc tổ
chức và tìm kiếm trên đĩa từ thì độ tương tác giữa hệ điều hành và đĩa cứng lại
càng phải thật mật thiết ! Khác với việc đọc đĩa CD (chỉ cho phép đọc) , hệ
điều hành chẳng phải quan tâm gì đến việc xem lại tổ chức dữ liệu của CD bị
thay đổi hay không.
Để tăng tốc và tính hiệu quả cho việc truy xuất những byte dữ liệu đặc thù trên
đĩa từ, hệ điều hành phải xây dựng cấu trúc thư mục và những chỉ mục diễn
Group: HVA Moderator giải những gì mà nó chiếm dụng, những phần free và những phần không nên
Posts: 783 được sử dụng nhằm tránh lỗi vật lý cho đĩa từ. Kiểu thông tin của ổ đĩa thì được
Joined: 2January 04
gọi là “định dạng luận lý” (ở đây tôi sử dụng từ “ổ đĩa” để minh họa sự khác
Member No.: 56098
biệt giữa “nguyên cái ổ cứng” và 1 partition trên ổ cứng đó nhằm tránh lầm lẫn
giữa 2 khái niệm rất dễ lẫn lộn)
Để lấy vị trí một vùng nào đó trên đĩa cứng, bộ điều khiển ổ cứng sẽ sử dụng
các đầu đọc ở những mặt đĩa khác nhau , vị trí track, và vị trí sector như thế
PC cũng phải chỉ định vị trí của “ổ đĩa” theo cách tương tự. Tuy nhiện đó cũng
chính là một điều rất bất tiện cho hệ điều hành giao tiếp với đĩa cứng bằng
ngôn ngữ mà bộ điều khiển có thể hiểu được. Ví dụ đơn giản đó là số sector,
số track và số mặt từ của mỗi đĩa cứng đề khác nhau (khác loại)
Chính vì lẽ đó mà hệ điều hành phải xác định dữ liệu dựa trên một dãy số liên
tục có hệ thống cho phép nó có thể lưu trữ thông tin các phần của ổ cứng. Để
giảm tải cho đầu đọc hệ điều hành phải giám sát ổ cứng ở cấp độ sector, lớp
cao nhất mà hệ điều hành phải làm việc khi cần chính là một chuỗi nhiều
sector gọi là clusters. Số lượng sector trong một cluster phục thuộc vào dung
lượng của ổ cứng và được xác định khi ổ đĩa được định dạng.
Hệ điều hành tổ chức thành “ổ đĩa luận lý” thành 2 vùng chính: vùng hệ thống
và vùng dữ liệu. Vùng hệ thống bao gồm các sector để boot (boot sector),
bảng hệ thống thông tin file (FAT) và thư mục gốc. Vùng dữ liệu thì dùng để
chứa file và folder.
Bootsector: nơi lưu trữ boot record. Nó chính là sector vật lý đầu tiên trên đĩa
mềm (sector 0) hoặc sector khởi đầu của một ổ đĩa luận lý (một phân vùng
trên đĩa cứng đã được định dạng). Boot sector xác định cấu trúc của ổ đĩa
(sector size , cluster size…). Nếu là ổ đĩa boot được , nó sẽ cũng chứa theo
chương trình khởi động hệ điều hành.
C.Disk controller , phương pháp truy xuất dữ liệu và chuẩn giao tiếp đĩa cứng:
Bộ điều khiển ổ cứng (diskcontroller) nắm giữ toàn quyền điều khiển ổ cứng.
Nó cho phép CPU và ổ cứng có thể làm việc tốt với nhau. Có rất nhiều chuẩn
giao tiếp đã ra đời và phát triển để xác định nguyên tắc làm việc giữa ổ cứng
và CPU. Những chuẩn dưới đây đại diện cho những chuẩn thông dụng nhất
thường được sử dụng giữa bộ điều khiển và ổ cứng:
ST506/412 : tiêu chuẩn giao tiếp được phát triển bởi hãng Seagate và được
sử dụng vào thời kì những máy IBM sơ khai. Chuẩn này ngày nay đã hoàn
toàn được thay thế bởi các chuẩn nhanh hơn như IDE,EIDE và SCSI
Enhanced Small Device Interface (ESDI): giao diện bộ điều khiển ổ cứng phải
cần một thiết bị trợ giúp riêng biệt. Là một chuẩn thay thế cho ST506/412 tuy
nhiên nó cũng đã lỗi thời và đã bị các đàn em IDE,EIDE và SCSI thay thế.
Small Computer System Interface (SCSI): vẫn thường được gọi vui là “skuzzy”
(từ chữ SCSI mà ra). Là một loại chuẩn giao tiếp thường được dùng để kết nối
PC đến thiết bị khác như là ổ cứng, máy in, scanner và CDROM. Hầu hết các
card SCSI đều không cần phải biết về kiểu thiết bị mà nó liên kết mà chỉ cần
biết duy nhất một điều “thiết bị đó làm việc được với SCSI”. Ta có thể kết nối
lên đến 7 thiết bị SCSI chung với nhau và rồi kết nối chúng đế một cổng (port)
SCSI trên máy vi tính, cứ như là một cấu hình thường được gọi là “dây chuyền
bậc nhất” (daisy chain).
Intergrated Drive Electronics (IDE): giao diện bộ điều khiển ổ cứng kết hợp với
bộ điều khiển điện tử trên board của ổ cứng. Giao tiếp EIDE là một phát triển
gần nhất của IDE.
IDE kết hợp chặt chẽ những hoạt động trước kia thuộc quyền của của card
điều khiển riêng bây giờ đã được tích hợp trực tiếp vào bên trong ổ cứng (nằm
trên board). Kết quả là một ổ cứng IDE có thể sử dụng bộ kết nối IDE trên bo
mạch chủ mà không cần đến bus slot. Máy vi tính chỉ cần IDE card khi và chỉ
khi trên bo mạch chủ không được tích hợp bộ kết nối IDE. Card IDE cung cấp
một kết nối vật lý thông qua một bus slot và có thể cung cấp thêm các chức
năng điều khiển. Một ổ cứng IDE chỉ có thể chứa được cao nhất là 528 MB dữ
liệu. Với chuẩn giao tiếp mới hơn, Enhanced IDE (EIDE), ổ cứng có thể chứa
đến 8.4 GB.
Những ổ cứng IDE có dung lượng vượt quá 504MB đôi lúc phải cần đến những
phần mềm chuyên biệt như là Ontrack’s Disk Manager hoặc là Micro House’s
EZDrive, bởi vì có rất nhiều máy vi tính không có BIOS hoặc controller hỗ trợ
những ổ cứng IDE dung lượng lớn.
Extended Intergrated Drive Electronics (EIDE): chuẩn này còn được gọi là
“Enhance IDE”, là một chuẩn giao tiếp gíup cho bộ điều khiển ổ cứng có thể
kết nối khá nhiều thiết bị lưu trữ ( ổ cứng dung lượng lớn, CDROM và băng từ)
với máy tính. EIDE là một bước phát triển của chuẩn IDE.
Trong các chuẩn trên thì chỉ có ST506/412 và ESDI là rất khó chịu với ổ cứng
và phải cần bộ điều khiển riêng biệt.
Những chuẩn trên không chỉ đơn thuần khác biệt ở chỗ dung lượng mà nó có
thể truy xuất được mà còn là tốc độ của chúng. Ví dụ ST506/412 có thể
truyền đi khoảng 57.5 megabit/giây trong khi đó EIDE có thể truyền đi đến
16.6 megabit/giây.
Ổ cứng SCSI là ổ cứng có tốc độ nhanh nhất trong các chuẩn ổ cứng bởi vì bộ
điều khiển SCSI (hoặc host adapter) có CPU riêng để quản lý việc truyền nhận
dữ liệu và công việc của các thiết bị liên quan mà không cần sự giúp đỡ của
CPU chính của hệ thống. Hệ thống của bạn sẽ chạy nhanh hơn rất nhiều do
CPU chính không cần phải quan tâm đến việc truyền tải mà dành sức cho các
công việc khác (đây lý do chính khíên cho các thiết bị chuẩn SCSI luôn luôn
mắc tiền hơn các chuẩn khác)
Thêm nữa là ổ cứng SCSI không cần phần bảo vệ và không mắc phải lỗi dịch
sector (điều cho đến bây giờ vẫn mắc phải trên ổ cứng EIDE)
Ổ mềm sử dụng giao tiếp điều khiển rất chậm từ lúc mà chúng xuất hiện cho
đến giờ. Ổ mềm chỉ có thể truyển nhận đựơc cao nhất là 500 kbit/giây nhưng
thông thường là 350kbit/giây.
Ổ CDROM có thể sử dụng chuẩn EIDE,SCSI và một số chuẩn khác. Những
card adapter (tiếp hợp điều phối) dành cho nhiều ổ CDROM sử dụng một tập
hợp chuẩn SCSI sao cho chỉ thuộc một thiết bị duy nhất.
Đâu là chỗ khác biệt giữa SCSI và EIDE ? Ngoài một điểm khác biệt khá rõ đã
được trình bày ở phần trên còn điểm sau:
SCSI thể hiện sức mạnh qua việc cho phép một loạt thiết bị có thể khai thác
một đường bus trong cùng một thời điểm và không cần sử dụng bus nếu thiết
bị không yêu cầu. Đây là một điểm rất lợi thế của SCSI ! Trái lại so với SCSI
thì EIDE chia thành 2 kênh bao gồm Primary và Secondary và hai kênh này sử
dụng hai đường bus khác nhau. Tuy nhiên trong mỗi kênh EIDE lại chia thành
2 cấp Master và Slaver cho 2 thiết bị được gắn cùng một cáp trên một kênh. Vì
cả 2 thiết bị chỉ được phép sử dụng 1 đường bus mà EIDE lại không có khả
năng cho phép nhiều thiết bị cùng sử dụng 1 đường bus trong cùng một lúc
nên các thiết bị này sẽ tuần tự lần lượt được cấp phép sử dụng bus. Đây là một
điểm rất hạn chế của EIDE đặc biệt nếu bạn gắn ổ cứng chung với CDROM
trên cùng 1 kênh thì tốc độ sẽ giảm đi rất nhiều lý do như sau : ổ CDROM có
tốc độ rất chậm như vậy thời gian mà CD_ROM sử dụng đường bus sẽ rất lâu
từ đó việc cấp quyền sử dụng cho ổ cứng sẽ bị hạn chế dẫn đến tốc độ của
máy châm hẳn đi. Đây cũng là lý do giải thích việc người ta vẫn khuyên bạn
nên gắn ổ cứng của mình và kênh Primary ổ CDROM vào kênh Secondary và
nếu có từ 2 cổ cứng trở lên thì tốt nhất là nên gắn các ổ cứng có tốc độ tương
đương với nhau trên cùng 1 kênh.
Ngoài ra chuẩn SCSI còn có nhiều kiểu khác nhau: loại 8bit thì cần cáp 50 sợi,
loại 16 bit thì cần cáp 68 sợi (SCSI mở rộng). Nhịp (clock) có thể là 5 MHz
(SCSI 1) , 10MHz (FAST SCSI) , 20 MHz (Fast20 – ultra SCSI) , 40 MHz (Ultra
2SCSI) hoặc 80Mhz (Ultra 3SCSI).
Sau đây là bảng thống kê khả năng truyền dẫn dữ liệu của chuẩn SCSI:
SCSI Bus Clock|8 bit 50 sợi|16 bit 68 sợi(mở rộng)—
5 MHz (SCSI 1) 5 Mgbyte/s Không hỗ trợ
10MHz (Fast SCSI) 10 Mgbyte/s 20 Mgbyte/s
20MHz(Ultra SCSI) 20 Mgbyte/s 40 Mgbtye/s
40Mhz (ultra2 SCSI) 40 Mgbyte/s 80 Mgbyte/s