Tiểu luận: Lãi suất và vai trò của lãi suất trong việc huy động vốn
Lãi suất là một trong những vấn đề trung tâm của nền kinh tế, vì nó tác động
đến chi phí đầu tư, do đó nó là yếu tố quan trọng quyết định tổng mức đầu tư và tổng
mức cầu về tiền tệ(GNP). Việt Nam trong hơn 10 năm đổi mới những chính sách Lãi
Suất ngân hàng nhà nước sử dụng đã có tác động mạnh mẽ tới việc huy động vốn và
hoạt động sản xuất kinh doanh của các ngân hàng Thương mại và các doanh nghiệp.
Để tăng hiệu quả hoạt động của hệ thống...
Tiểu luận
Lãi suất và vai trò của lãi suất
trong việc huy động vốn
A-MỞ BÀI
Trong nền kinh tế hiện đại, chính sách tiền tệ của chính phủ sử dụng lãi suất
như một công cụ quan trọng để tác động vào nền kinh tế, kiểm soát lượng tiền cung
ứng. Lãi suất là một phạm trù kinh tế, phản ánh mối quan hệ giữa người cho vay và
người đi vay, phản ánh mối quan hệ giữa cung và cầu về tiền tệ, thực trạng kinh tế của
một nước. Thông qua sự biến động của lãi suất, người ta có thể dự đoán nền kinh tế
đang phát triển hay đang suy thoái.
Lãi suất là một trong những vấn đề trung tâm của nền kinh tế, vì nó tác động
đến chi phí đầu tư, do đó nó là yếu tố quan trọng quyết định tổng mức đầu tư và tổng
mức cầu về tiền tệ(GNP). Việt Nam trong hơn 10 năm đổi mới những chính sách Lãi
Suất ngân hàng nhà nước sử dụng đã có tác động mạnh mẽ tới việc huy động vốn và
hoạt động sản xuất kinh doanh của các ngân hàng Thương mại và các doanh nghiệp.
Để tăng hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng Thương mại và thúc đẩy sự phát
triển của các doanh nghiệp trong nền kinh tế đòi hỏi Ngân hàng nhà nước phải tiếp tục
đổi mới hơn nữa cơ chế điều hành Lãi Suất.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn này em xin chọn đề tài “Lãi suất và vai trò của
lãi suất trong việc huy động vốn” làm bài tiểu luận của mình. Do còn hạn chế trong
việc hiểu biết về lĩnh vực tài chính kinh tế, nên bài tiểu luận của em không tránh khỏi
những thiếu xót. Kính mong thầy cô giúp đỡ , góp ý để em hoàn thành bài tiểu luận
này.
Em xin chân thành cảm ơn!
1
B-NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận chung về Lãi suất.
1. Khái niệm về Lãi Suất.
Lãi suất là một công cụ nhạy cảm trong điều hành chính sách tiền tệ của mọi
Ngân hàng trung ương,cũng là mối quan tâm của mọi người, mọi doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế khác nhau. Đã có rất nhiều khái niệm về Lãi suất chúng ta có
thể đưa ra một số khái niệm cơ bản về Lãi suất như sau:
-Lãi suất là tỷ số giữa tổng số lợi tức hàng năm và tổng số vốn đã bỏ ra cho vay trong
năm. Nói cách khác đi, Lãi suất là giá cả mà con nợ phải trả cho chủ nợ để sử dụng
khoản tiền vay trong một kỳ hạn nhất định.
- Lãi suất danh nghĩa là Lãi suất bằng tiền trên các tài sản bằng tiền.
-Lãi suất thực tế (r) bằng lãi suất danh nghĩa (i) trừ đi lạm phát, lãi suất thực tế phản
ánh đúng chi phí thật của việc vay tiền và điều chỉnh cho đúng theo những thay đổi dự
tính về mức.
* Ngoài ra còn có các loại lãi suất thông dụng như: Lãi suất trả trước khi vay, lãi suất
trả sau cùng với vốn, lãi suất trả dần cùng với vốn theo định kỳ và lãi suất trả bằng
phiếu lợi tức.
2. Các nhân tố tác động đến Lãi Suất.
Lãi suất luôn luôn biến động do những nhân tố sau:
* Sự thay đổi của tổng cầu(GNP).
Khi GNP tăng lên, nền kinh tế đòi hỏi phải tăng khối tiền cung ứng( nếu tốc độ lưu
thông tiền tệ không thay đổi) để đảm bảo cung cầu tương ứng. Nếu trong điều kiện đó,
khối lượng cung ứng tiền(M1 hoặc M2) tăng quá cầu thì MV>PQ, cung vốn đầu tư lớn
hơn cầu vốn đầu tư làm cho lãi suất giảm . Ngược lại, khi GNP giảm thì khối lượng
tiền cung ứng thực tế cũng giảm theo, nếu tốc độ lưu thông tiền tệ không thay đổi mà
giảm khối cung ứng tiền tệ xuống quá thấp sẽ đưa đến tình trạng MVChính sách tiền tệ của chính phủ ban hành là nhằm mục đích kiểm soát lượng cung
ứng tiền tệ, kiểm soát tình trạng lạm phát và các tác động đến lãi suất để thực hiện các
mục tiêu đã định.
*.Nhu cầu tiêu dùng và đầu tư.
Trong thực tế khi nhu cầu tiêu dùng tăng thì kéo theo lãi suất tăng và ngược lại khi nhu
cầu này giảm đi thì sẽ làm giảm lãi suất. Cũng như khi nhu cầu về đầu tư, người ta đổ
xô vào đầu tư kinh doanh kiếm lợi nhuận thì nhu cầu về tiền, tài sản là rất lớn sẽ dẫn
tới lãi suất tăng.
II. Vai trò và tác động của Lãi suất trong huy động vốn nền kinh tế thị trường
Việt Nam.
Lãi suất có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, nó là trung tâm trong chính sách tiền
tệ của chính phủ.
* Đối với sự phân bổ các nguồn lực thì lãi suất là một loại giá cả, nó có vai trò phân
bổ hiệu quả các nguồn lực khan hiếm của xã hội và là yếu tố cần thiết ban đầu trước
khi đi đến quyết định đầu tư vào một ngành kinh tế, một dự án hay một tài sản nào
đó…
* Thu nhập của các hộ gia đình thường được chia làm hai bộ phận: Tiêu dùng và tiết
kiệm, tỷ lệ phân chia này phụ thuộc vào nhiều nhân tố như thu nhập, tín dụng tiêu
dùng, hiệu quả của việc tiết kiệm trong đó tiền tệ và lãi suất có tác dụng tích cực tới
các nhân tố khác. Vì vậy trong tiêu dùng và tiết kiệm lãi suất cũng có vai trò không
nhỏ trong việc điều chỉnh thu nhập của kinh tế gia đình
* Với các hoạt động đầu tư do chịu nhiều ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố như thu nhập,
chi phí trong kinh doanh… Nên khi lãi suất cao, thì sẽ có ít khoản đầu tư vào vốn hiện
vật sẽ mang lại thu nhập nhiều hơn chi phí lãi trả cho các khoản đi vay, do vậy chi
tiêu cho đầu tư giảm, ngược lại khi lãi suất thấp các doanh nghiệp sẽ quyết định đầu tư
cho vốn hiện vật nhiều hơn, chi tiêu đầu tư sẽ tăng.
* Không chỉ có vậy với tỷ giá hối đoái và hoạt động xuất nhập khẩu còn chịu nhiều
ảnh hưởng của lãi suất ở lãi suất tiền gửi nội tệ và ngoại tệ.
* Lãi suất với lạm phát Trong thời kỳ lạm phát, tăng lãi suất sẽ cho phép hệ thống
ngân hàng có thể thu hút phần lớn số tiền có nhiều trong lưu thông khiến cho đồng tiền
trong lưu thông giảm, lượng tiền cung ứng cũng sẽ giảm và lạm phát được kiềm chế.
Như vậy, lãi suất cũng góp phần chống lạm phát.
* Vai trò của Lãi suất đến việc huy động vốn: Lãi suất là chi phí huy động vốn của
doanh nghiệp và ngân hàng. Các doanh nghiệp phải xem xét khả năng lợi nhuận thu
3
được với chi phí huy động vốn bỏ ra để quyết định huy động vốn từ nguồn nào và đầu
tư vào đâu để có lợi cho doanh nghiệp nhất. Còn ngân hàng phải xem xét giữa lãi suất
huy động với khả năng cho vay ở mức lãi suất cao hơn để đưa ra phương hướng hoạt
động đảm bảo mục tiêu của ngân hàng tồn tại và phát triển.
Tóm lại, lãi suất là một trong những vấn đề trung tâm của nền kinh tế vì nó tác động
đến chi phí đầu tư, do đó nó là yếu tố quan trọng quyết định tổng mức đầu tư và tổng
mức cầu về tiền tệ (GNP ).Để tìm hiểu thêm về vai trò của lãi suất chúng ta hãy theo
dõi tình hình lãi suất qua một số năm.
* Giai đoạn từ 1989 – 1993.
Chính sách Lãi suất thực dương đã phát huy hiệu quả với Lãi suất tiết kiệm
không kỳ hạn là 109%/năm, Lãi suất 3 tháng là 12%/tháng tức 144%/năm huy động
được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, tạo thế ổn định tương đối về tiền tệ một tiền đề
quan trọng để ổn định và phát triển xã hội.
*. Tác động tích cực của chính sách lãi suất dương.
1. Đối với NHTM: Lãi suất cho vay tín dụng> Lãi suất tiền gửi tiết kiệm > Tỷ lệ lạm
phát. Cho nên NHTM không còn phải bao cấp đối với các doanh nghiệp vay vốn thông
qua tín dụng nữa. Lãi suất thực dương cao đã thu hút một số lượng tiền gửi lớn vào các
ngân hàng làm lượng tiền dự trữ của các ngân hàng tăng cao đáp ứng được nhu cầu
vay vốn của doanh nghiệp.
2. Đối với Doanh nghiệp : Khi lãi suất tiền gửi cao dẫn đến lãi suất cho vay cao buộc
các doanh nghiệp phải cân nhắc việc vay vốn đầu tư, phải xem xét và lựa chọn các
phương án đầu tư có hiệu quả tốt nhất. Cơ cấu tổ chức của các doanh nghiệp được tổ
chức một cách hợp lý hơn, giảm thiểu bộ phận quản lý cồng kềnh để giảm thiểu chi
phí.
* Tác động tiêu cực của chính sách Lãi suất dương.
1. Đối với NHTM: Do lãi suất tiền gửi cao dẫn đến lãi suất cho vay cao nên càng
khuyến khích gửi tiền hơn là vay tiền, lãi suất thực dương cao của ngân hàng đem lại
khả năng thu được lợi nhuận lớn hơn là đưa tiền vào đầu tư mà rủi ro lại thấp nên cũng
khuyến khích các doanh nghiệp gửi tiền vào ngân hàng hơn là vay vốn để kinh doanh.
Đến một lúc do lượng tiền gửi vẫn tăng, khối lượng vay giảm dẫn đến tài sản nợ trong
bảng cân đối của NHTM lớn hơn tài sản có.
2. Đối với doanh nghiệp: Lãi suất vay vốn không khuyến khích các doanh nghiệp đầu
tư mà các doanh nghiệp tích cực gửi tiền vào ngân hàng hơn. Trong tổng số vốn đầu tư
sản xuất kinh doanh, một phần lớn là đi vay của ngân hàng, bởi lãi suất vốn cao dẫn
4
đến chi phí sản xuất kinh doanh lớn do đó giá thành phẩm cao, giá hàng hoá cao và
như vậy hàng hoá sẽ giảm tính cạnh tranh trên thị trường.
* Giai đoạn 1996 – 2005.
- Thời gian này ngân hàng nhà nước vừa cầu lãi suất trần. lãi suất thoả thuận.
- Thoả thuận trường hợp ngân hàng không huy động đủ vốn để cho vaytheo lãi suất qui
định phải trả phát hành kỳ phiếu với lãi suất cao hơn thì được cầu lãi suât. Lãi suất huy
động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng thời hạn là 0,2% tháng và cho vay cao hơn
mức lãi suất trần là 2,1% tháng.
- Tăng lãi suất tiền gửi, lãi suất cao làm cho người kinh doanh chủ yếu đầu tư vào các
lĩnh vực sản xuất có lợi nhuận cao tức thời và thu hồi vốn nhanh như: Dịch vụ, thương
mại, sản xuất nhỏ tạo nên sự mất cân bằng trong nền kinh tế.
* Giai đoạn thực hiện chính sách lãi suất trần.
1.Chính sách lãi suất trần tác động đến các NHTM.
* Tích cực.
- Việc tổ chức quản lý lãi suất trần cho phép các tổ chức tín dụng được tự do ổn định
các mức lãi suất cho vay và tiền gửi trong phạm vi trần do NHNN cho phép, chính
sách lãi suất trần đã chấm dứt thị trường NHNN qui định các mức dư nợ lãi suất cụ
thể, xoá bỏ lãi suất cho vay theo thoả thuận và từng bước tiến hành tự do hoá lãi suất.
- Để nâng cao lợi nhuận các NHTM phải nâng cao mức dư nợ cho vay và huy động
vốn gấp nhiều lần.
* Hạn chế:
Do lãi suất cho vay và lãi suất huy động( ngắn, trung, dài hạn) liên tục giảm,
nhiều NHTM không lường trước được đã huy động vốn có thời hạn 1-3 năm để cho
vay trung và dài hạn. Năm 1999 NHNN 5 lần cắt giảm lãi suất cho vay tối đa, có lần
NHNN còn buộc NHTM giảm ngay cả lãi suất dư nợ đã cho vay khi đó vốn lao động
theo lãi suất thời kỳ trước vẫn được giữ nguyên cho tới khi hết hạn, đồng thời lãi suất
cho vay và lãi suất huy động vốn nhỏ(bằng không hoặc thấp hơn). Vậy rủi ro lãi suất
luôn đặt gánh nặng lên các NHTM.
2. Chính sách lãi suất trần đối với các doanh nghiệp .
*. Tích cực.
- Đáp ứng tốt nhu cầu vốn sản xuất cho doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp không phải vay với mức lãi suất vượt trần, tức là các doanh nghiệp
không bị các ngân hàng ép khi đi vay tiền.
5
- Trong thời kỳ hàng cả nước có 6000 doanh nghiệp nhà nước hơn 1000 doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài, 230000 doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty
trách nhiệm hữu hạn(phát biểu của thủ tướng Phạm Văn Khải tại cuộc gặp các nhà
doanh nghiệp tại Hà Nội 1/1998) hầu hết các doanh nghiệp này được vốn ngân hàng
hỗ trợ 80 -90 % trong sản xuất kinh doanh cải tiến và đổi mới công nghệ.
*.Hạn chế.
Việc giảm lãi suất là điều kiện cần nhưng không đủ để tạo vốn cho doanh
nghiệp.
- Lãi suất còn cao, khó khăn trong thủ tục vay NH. Cho dù lãi suất cho vay đã giảm
khá mạnh song các DN vẫn không dám vay tiền vì tỷ lệ lãi suất cho vay ngân hàng vào
khoảng 10%-11% năm.
- Nhiều DN làm ăn không có hiệu quả do trang thiết bị cũ kỹ, công nghệ lạc hậu nhưng
muốn cơ cấu vốn lớn, bắt buộc phải đi vay, với số vốn lớn DN phải trả lãi lớn trong
khi lợi nhuận thu được lại chưa ổn định do vậy lãi suất giảm DN vẫn không dám vay.
- Các NH cạnh tranh dẫn đến tăng mức lãi suất tiền gửi các DN cắt giảm tất cả những
khoản đầu tư không đưa lại lợi nhuận cao bằng gửi tiếp vào NH.
- Việc vay vốn trung và dài hạn của các DN không thuận lợi vì các NH cho vay dễ gặp
rủi ro từ việc huy động vốn NH cho vay trung và dài hạn trong khi mức chênh lệch
giữa lãi suất cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn bị xoá bỏ.
Mức lãi suất cơ bản
Các loại lãi suất chủ đạo trên của NHNN trong đó có tác động trực tiếp đến lãi suất
huy động vốn và cho vay của các NHTM, nhưng có tác động gián tiếp đến lãi suất
trong nền kinh tế. Việc tăng lãi suất cơ bản cho thấy NHNN phát tín hiệu tăng lãi suất
trên thị trường tiền tệ. Còn việc tăng lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu
chứng tỏ lãi suất huy động vốn và cho vay đều tăng, phản ứng này có thể dễ dàng thấy
được bởi các diễn biến kinh tế vĩ mô chủ yếu được coi là mục tiêu điều hành chính
sách tiền tệ.
Theo đó, NHNN sẽ hạn chế cung ứng tiền cho các NHTM để mở tín dụng thông qua
việc tăng lãi suất tái cấp vốn và lãi suất. Đồng thời để đáp ứng nhu cầu vay vốn của
khách hàng buộc các NHTM phải đẩy mạnh huy động vốn trên thị trường, nếu không
phải vay vốn của NHNN theo các nghiệp vụ NHTƯ với lãi suất cao hơn.Để huy động
được vốn trong xã hội trong bối cảnh hiện nay, điều dễ dàng xảy ra khi NHNN tăng
các loại lãi suất chủ đạo nói trên thì các NHTM phải tăng lãi suất huy động vốn. Bởi vì
hiện nay đang có rất nhiều kênh cạnh tranh thu hút vốn.
6
Lãi suất tăng không biết có tác dụng kiềm chế lạm phát hay không nhưng nó làm tăng
rủi ro cho cả NHTM và doanh nghiệp thì khá rõ ràng, bởi vì với lãi suất vay vốn nội tệ
bình quân lên tới 12%-13%/năm vào loại cao nhất trong khu vực, lợi nhuận của doanh
nghiệp, khả năng trả nợ của người vay sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Mặc dù lãi suất
cao nhưng nhiều dự án triển khai dở dang vẫn phải tiếp tục vay vốn ngân hàng để đầu
tư, đương nhiên làm tăng độ rủi ro của dự án lãi suất tăng, vốn khan hiếm, doanh
nghiệp và người kinh doanh sẽ khó vay được vốn ngân hàng hơn. Lãi suất tăng làm chi
phí vốn vay trong cơ cấu giá bán của sản phẩm và dịch vụ tăng, tác động làm tăng mặt
bằng giá và tăng chỉ số giá tiêu dùng trên thị trường xã hội. Lãi suất tăng về nguyên lý
cũng như thực tiễn sẽ tác động lớn đến tăng trưởng kinh tế của giai đoạn sau, nhất là
trong điều kiện vốn hoạt động của doanh nghiệp, của người kinh doanh trông chờ chủ
yếu vào vốn tín dụng ngân hàng
* ở Việt Nam hiện nay
Lãi suất tín dụng ngân hàng rất nhạy cảm đến mọi người, mọi doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế. Lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay luôn mâu
thuẫn với nhau, hay nói cách khác đây là mâu thuẫn về lợi ích giữa người gửi tiền và
người vay tiền NHTM.
- Lãi suất cho vay gồm có: lãi suất chiết khấu giấy tờ có giá với khách hàng; lãi suất
cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn; tỷ lệ lãi suất nợ quá hạn so với lãi suất nợ
đang lưu hành. Lãi suất huy động vốn gồm lãi suất huy động vốn ngắn hạn ( dưới 12
tháng )và lãi suất huy động vốn trung dài hạn. Lãi suất huy động vốn ngắn hạn gồm lãi
suất tiền gửi không kỳ hạn, lãi suất tiền gửi ngắn hạn có kỳ 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng
và 12 tháng, lãi suất huy động vốn trung hạn ( trên 12 tháng và dưới 36 tháng), lãi suất
huy động vốn dài hạn ( từ 36 tháng trở lên) của NHTM.
- Ngân hàng nhà nước(NHNN) điều hành lãi suất tín dụng ngân hàng bằng khung lãi
suất tức NHNN chỉ quy định lãi suất huy động vốn thấp nhất và lãi suất cho vay cao
nhất, lãi suất nợ quá hạn. Lãi suất cho vay ngắn hạn (12 tháng trở xuống) trong đó có
chiết khấu thương phiếu, lãi suất cao nhất đối với cho vay trung hạn. Lãi suất huy động
vốn thấp nhất gọi là sàn lãi suất, lãi suất cho vay cao nhất gọi là lãi suất trần.
Nền kinh tế một nước ổn định, ngân hàng trung ương điều hành công cụ lãi suất tín
dụng ngân hàng theo khung lãi suất có tác dụng mạnh mẽ đối với nền kinh tế và nâng
cao tính độc lập tự chủ tài chính của NHTM, góp phần tăng trưởng GDP/năm đồng
thời thể hiện vai trò quản lí nhà nước của NHNN. Các NHTM cạnh tranh với nhau
bằng lãi suất tín dụng rất quyết liệt. Nhưng một số dân có trình độ kinh tế cao chưa
7
hẳn gửi tiền vào tổ chức tín dụng có lãi suất cao như Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở hoặc
NHTM cổ phần mà họ đầu tư vào trái phiếu chính phủ, mặc dù lãi suất thấp hơn nhưng
tính an toàn rất cao ( chính phủ vay tiền của nhân dân) hoặc gửi tiền vào NHTM nhà
nước, an toàn hơn gửi tiền vào NHTM cổ phần. Ở nước ta, các NHTM nhà nước điển
hình là NH công thương Việt Nam đưa ra lãi suất huy động vốn ở tất cả các kỳ dài hạn
luôn thấp hơn so với các NHTM nói chung nhưng nhiều người vẫn gửi vào. Dịch vụ
tiết kiệm bưu điện tuy mới hoạt động hơn 5 năm, lãi suất huy động vốn cao hơn một
chút hoặc bằng lãi suất huy động của NHTM nhà nước. Nhưng nguồn vốn huy động
đến cuối quý I/ 2005 đạt 24 nghìn tỷ đồng, gấp hơn 20 lần nguồn cổ phần Sài Gòn
công thương. Tại sao lại như vậy? Bởi vì dịch vụ tiết kiệm bưu điện cá nhân được mở
tài khoản tiền gửi không kỳ hạn với lãi suât như các NHTM nhà nước (2,4%/năm)
nhưng mở tài khoản được gửi tiền và rút tiền ở tất cả các bưu cục trong cả nước. Dịch
vụ tiết kiệm bưu điện do doanh nghiệp nhà nước đảm nhận nhân dân tin tưởng hơn các
NHTM cổ phần. Dịch vụ tiết kiệm bưu điện lại có hơn 2700 bưu cục trong cả nước,
nhiều hơn mạng lưới NHNNvà PTNN Việt Nam. Như vậy lãi suất huy động vốn cao
hay thấp phụ thuộc vào vị thế, uy tín, mạng lưới và tiện ích đem lại cho thể nhân và
pháp nhân gửi tiền.
Khi nền kinh tế ổn định, GDP tăng trưỏng tốc độ cao lãi suất tiền gửi NHTM đảm bảo
nguyên tắc: Lãi suất dương (+) tức tỷ lệ lãi suất tiền gửi kỳ hạn 12 tháng cao hơn tỷ lệ
lạm phát/ năm. Năm 2004, lãi suất tiền gửi kỳ hạn 12 tháng không vượt tỉ lệ lạm phát
9,5%/ năm. Đây là hiện tượng khác thường, kể từ năm 1996 trở lại đây ( trừ năm 1998
lạm phát là 9,2%/ năm).
Năm 1987, nước ta lạm phát 774%/ năm, NHNN Việt Nam và các NHTM không thể
đưa ra tỉ lệ lãi suất huy động vốn kỳ hạn 12 tháng, cao hơn tỉ lệ lạm phát ấy. Bởi vậy
các nhà kinh tế ví lạm phát cao hoặc lạm phát phi mã như “sắc thuế vô hình”, mọi thể
nhân và pháp nhân có tiền phải chịu thiệt hại, cả tiền gửi NHTM hoặc đầu tư vào giấy
tờ có giá…
Các NHTM đua nhau tăng lãi suất huy động vốn với nhiều hình thức: Lãi suất tiền gửi
luỹ tiến theo thời gian và theo cả số tiền gửi vào nhiều hay ít, nhiều NHTM còn tổ
chức quay chọn thưởng với những giá trị hấp dẫn như giải độc đắc trị giá 100 cây vàng
bốn số 9 hoặc ô tô du lịch sang trọng hay một căn nhà chung cư trị giá nhiều trăm triệu
đồng. Đặc biệt một số NHTM cổ phần còn đưa lãi suất huy động vốn có cùng kỳ hạn,
ở miền Nam cao hơn miền Bắc như NHTM cổ phần Quốc Tế.
8
Trong lúc này lạm phát đang gia tăng, nỗi lo của nhiều người, NHNN Việt Nam nên
điều hành lãi suất theo khung lãi suất- khống chế lãi suất trần, nhằm đảm bảo quyền
lợi của bên vay vốn. NHNN quy định sàn lãi suất để người gửi tiền có kỳ hạn vào
NHTM, với một tỉ lệ lãi suất thích hợp vì họ là “tư bản thực lợi”. Được biết, trong
nhiều năm qua, một số doanh nghiệp nhà nước tỷ lệ sinh lời trên vốn còn thấp hơn tỉ lệ
lãi suất tiền gửi Ngân hàng kỳ hạn 12 tháng. Đứng về giác độ kinh tế lãi suất tín dụng
ngân hàng, NHTM đóng vai trò phân phối lãi thu nhập bằng tiền của bên vay với bên
gửi tiền vào NHTM. Nói khác đi, các NHTM huy động vốn ở thành phố, chuyển một
phần nguồn vốn huy động về nông thôn cho sản xuất nông, ngư, lâm nghiệp và doanh
nghiệp vay. Các NHTM dùng ít nhất 70% số lãi thu được từ làm kinh tế hộ và doanh
nghiệp vay vốn để trả lãi cho người gửi tiền, trong đó thu lãi cho vay ở nông thôn, trả
lãi cho người gửi tiền ở thành thị.(Một số tư liệu trên trích từ báo Kinh tế và Dự báo số
T6/9-2005)
9
C- KẾT LUẬN
Hiện tượng lãi suất vẫn đang biến động theo từng ngày từng giờ khắp trong và
ngoài nước. Lãi suất là một trong những biến số được theo dõi chặt chẽ nhất trong nền
kinh tế, sự dao động của Lãi Suất được đưa trên các phương tiện thông tin đại chúng,
nó trực tiếp tác động đến các quyết định của chính phủ, doanh nghiệp, cũng như nhiều
hoạt động của các tổ chức tín dụng và sự thăng trầm của toàn bộ nền kinh tế. Là một
bộ phận cấu thành của chính sách tiền tệ quốc gia, là mục tiêu chính sách tiền tệ của
quốc gia, ổn định tiền tệ, đảm bảo mức lạm phát hợp lý kích thích tăng trưởng kinh tế,
đảm bảo có sự chênh lệch lãi suất kinh doanh, sử dụng vốn hiệu quả tăng sản phẩm xã
hội chính phủ Việt Nam thông qua NHNN. Trong thời gian tới chính sách lãi suất sẽ
còn tiếp tục điều chỉnh theo hướng tự do hoá lãi suất phù hợp với mức độ thị trường tài
chính khu vực và quốc tế theo chính sách thị trường quốc tế.
10
MỤC LỤC
A- Mở đầu
B- Nội dung
I- Lý luận chung về lãi suất
1. Khái niệm về lãi suất
2. Các nhân tố tác động đến lãi suất
II- Vai trò và tác động của lãi suất trong huy động vốn nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam
1. Đối với ngân hàng thương mại
2. Đối với doanh nghiệp
C- Kết luận
Tài liệu tham khảo
11
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Tài Chính
Báo Tài chính tiền tệ (1/3/2004)
Báo Kinh tế và dự báo (T6/2005)
Mạng Internet
12