NHẬP MÔN VỀ BÁO CÁO TÀI CHÍNH
Kế toán tài chính chi phối quá trình chuẩn bị các báo cáo tài chính. Trong phạm vi của các hướng dẫn dựa trên những nguyên tắc kế toán được thừa nhận (GAAP - Generally Accepted Accounting Principles), mục tiêu của kế toán tài chính là trình bày một cách rõ ràng tình hình tài chính của công ty cho các cổ đông hoặc những người cho vay hiện tại và tương lai, cho các nhà phân tích thị trường chứng khoán và cho các đối tượng khác có quan tâm. Các báo cáo tài chính thường được các kế......
NHẬP MÔN VỀ BÁO CÁO TÀI CHÍNH
Các mục tiêu của kế toán tài chính
Kế toán tài chính chi phối quá trình chuẩn bị các báo cáo tài chính. Trong phạm vi
của các hướng dẫn dựa trên những nguyên tắc kế toán được thừa nhận (GAAP -
Generally Accepted Accounting Principles), mục tiêu của kế toán tài chính là trình bày
một cách rõ ràng tình hình tài chính của công ty cho các cổ đông hoặc những người cho
vay hiện tại và tương lai, cho các nhà phân tích thị trường chứng khoán và cho các đối
tượng khác có quan tâm. Các báo cáo tài chính thường được các kế toán viên công
(CPAs - Certified Public Accountants) độc lập chứng thực sau khi nó được kiểm tra
bằng cách dùng các tiêu chuẩn kiểm toán được thừa nhận và (trong phần lớn các
trường hợp) được dùng để trình bày một cách rõ ràng tình hình tài chính của công ty
theo các nguyên tắc kế toán được thừa nhận
Thuật ngữ “Các nguyên tắc kế toán được thừa nhận” có thể gây ra ít nhiều tranh
luận trong lĩnh vực kế toán tài chính. Mặc dù thuật ngữ này đã được dùng phổ biến
trên 3 thập kỷ qua, nhưng dường như đó vẫn chưa phải là cách định nghĩa duy nhất
hoặc liệt kê đầy đủ mọi nguyên tắc có khả năng được các nhà lý thuyết và thực hành
nhất trí thừa nhận. Với tư cách là một định nghĩa để làm việc, chúng ta có thể sử dụng
cách nói sau đây về GAAP:
GAAP: là một hệ thống các mục tiêu, quy ước và nguyên tắc, được đúc kết qua
nhiều năm, chi phối quá trình chuẩn bị và trình bày các báo cáo tài chính. Các nguyên
tắc này áp dụng cho lĩnh vực kế toán tài chính, tách biệt với các lĩnh vực khác của kế
toán như kế toán thuế, kế toán quản lý và kế toán chi phí. Do lĩnh vực kế toán tài
chính được coi như là một khoa học xã hội chứ không phải là khoa học vật lý, nên
điều quan trọng cần chú ý là định nghĩa trên nhấn mạnh tới tính chất tiến hoá của các
quy tắc và các quy chế kế toán. GAAP còn tuỳ thuộc vào nhiều cách giải thích và áp
dụng khác nhau, và rất có thể trong cùng một ngành, hai công ty khác nhau có thể tiến
hành hạch toán cùng một hoạt động giao dịch theo những cách khác nhau tuy cả hai
đều nhằm trong phạm vi hướng dẫn do GAAP đưa ra. Chẳng hạn, trong phạm vi của
lĩnh vực kế toán khấu hao, một công ty có thể hạch toán hao mòn các thiết bị tư bản
của nó trên cơ sở tuyến tính, trong khi công ty khác trong cùng ngành lại hạch toán theo
phương pháp khấu hao nhanh. Bản thân khấu hao là một chủ đề tương đối phức tạp
và phần này sẽ được giải quyết chi tiết hơn trong chương 5. Hiện tại, ta chỉ cần nhận
xét rằng kế toán khấu hao th ực ra chỉ là những phương tiện để phân bổ phần hao phí
của các tài sản lâu bền theo một số kỳ hạch toán có sử dụng tài sản đó.
Hiện có một số nguồn thông tin đáng tin cậy cho chúng ta những hướng dẫn chi
tiết để xây dựng một phương pháp kế toán chấp nhận được. Các nguyên tắc này có
thể tạm coi là hệ thống các “quy tắc” chi phối quá trình chuẩn bị các báo cáo tài chính.
Phần chủ yếu trong số các quy tắc này là do Viện đào tạo các k ế toán viên công
(AICPA - American Institute of Certified Public Accountants) xây dựng 51 chuyên san
nghiên cứu kế toán (ARBs - Accounting Research Bullentins) do AICPA phát hành và
31 luận đề trong các bảng nguyên tắc kế toán của AICPA (APB - Accounting
Principles Board) là một bộ tài liệu chi tiết về quan điểm của Viện trên một phạm vi
rất rộng lớn các vấn đề về kế toán. Mỗi luận đề của APB đề cập tới một chủ đề
chuyên môn hóa và đưa ra hướng dẫn chi tiết về lĩnh vực này. Chẳng hạn, luận đề số
15 của APB đề cập tới cách tính toán và trình bày về mức tiền lãi ban đầu.
Theo hướng tương tự, ủy ban chứng khoán và hối đoái (SEC - Securities and
Exchange Commission) đã đưa ra khá nhiều chỉ dẫn dưới hình thức những giải đáp
tuần tự về kế toán (Accounting Series Release). Mới đây nhất, bảng các tiêu chuẩn kế
toán tài chính (FASB - Financial Accounting Standards Board) thay thế cho APB vào
năm 1973 đã đưa ra một loạt luận đề về FASB đáp ứng cho yêu cầu liên tiếp của các
nhà kế toán và phân tích tài chính cần làm sáng tỏ đầy đủ tình hình tài chính của mỗi
công ty. Một số luận đề đầu tiên của FASB như luận đề FASB số 8 đề cập tới vấn
đề lỗ lãi ngoại tệ và FASB số 13 đề cập tới vấn đề kế toán cho thuê đã có ảnh hưởng
lớn tới cách báo cáo và diễn giải các thông tin tài chính công ty. Một danh mục tóm tắt
tiện lợi nhưng tất nhiên không phải là đầy đủ tất cả các nguồn thông tin về các “quy
tắc” kế toán là:
•Những giải đáp tuần tự về kế toán của SEC (SEC Accounting Series
Release);
• Các chuyên gia nghiên cứu kế toán của AICPA (AICPA Accounting
Research Bulletins - ARB);
• Bảng các nguyên tắc kế toán của AICPA (AICPA Accounting Principles
Board-APB);
• Bảng các tiêu chuẩn kế toán tài chính (Financial Accounting Standards
Boards - FASB).
Cuối cùng, nhận xét về định nghĩa của GAAP, chúng tôi muốn lưu ý rằng GAAP
chí áp dụng cho lĩnh vực kế toán tài chính chứ không d ù ng cho các lĩnh vực kế toán
chủ yếu khác như kế toán thuế, quản lý và chi phí. Các lĩnh vực kế toán này có những
mục tiêu khác và do đó không nên hi vọng là chúng có thể thích hợp với hệ thống các
nguyên tắc thiết kế nhằm đáp ứng những nhu cầu của kế toán tài chính. Nói một cách
nôm na thì mục tiêu của kế toán thuế là nhằm cực tiểu hóa nghĩa vụ đóng thuế của
công ty trong phạm vi những giới hạn của các luật thuế thu nhập hiện hành. Trong khi
mục tiêu của kế toán quản lý là để thu thập, báo cáo và giải thích những thông tin cần
thiết cho việc ra quyết định quản lý. Còn trong kế toán chi phí, mục tiêu chủ yếu là
xác định và phân bố các chi phí thích hợp trong tổ chức kinh doanh.
Những mục tiêu khác nhau này rõ ràng là khá đa dạng và người ta cần phải tìm ra
nhiều biện pháp kỹ thuật khác biệt cho các lĩnh vực khác nhau. Như vậy, rất dễ hiểu
đối với hiện tượng này là cùng một hoạt động giao dịch nhưng lại được kế toán theo
những cách khác nhau. Một lần nữa, lại có thể thấy ví dụ rõ nhất về tính đa dạng này
là trong lĩnh vực kế toán khấu hao. Một điều rất phổ biến là các công ty thường sử
dụng phương pháp khấu hao tuyến tính trong các báo cáo tài chính của họ nhằm trình
bày rõ ràng các kết quả hoạt động trong năm cho các cổ đông, trong khi đồng thời lại
báo cáo dưới dạng khấu hao nhanh cho Sở thuế vụ để cực tiểu hóa nghĩa vụ đóng
thuế hiện tại của công ty. Tất nhiên, cách khấu hao nhanh không cho phép công ty lẩn
tránh được việc nộp thuế nhưng nó cho phép hoãn nghĩa vụ nộp thuế sang một thời kỳ
tương lai và cung cấp thêm nguồn quỹ cho việc tái đầu tư hiện tại - nói tóm lại, thời
gian là tiền bạc.
Ở đây, ta càng thấy rõ ràng một lĩnh vực dường như hoàn toàn chính xác là kế
toán lại phụ thuộc vào mức tự do diễn giải nào đó. Điều này tự nhiên làm cho người ta
phải suy xét tới tầm quan trọng của sự hiểu biết về “bản chất của con mồi” trước khi
tiến hành thảo luận về những loại hình báo cáo tài chính khác nhau hoặc khai thác
những phương pháp - kỹ thuật kế toán máy móc. Do đó, bây giờ, chúng ta hãy tập
trung sự chú ý vào ý nghĩa và tầm quan trọng trong ý kiến của một nhà kiểm toán và
nghệ thuật tinh tế trong việc đọc lời chú thích.
Ý kiến của người kiểm toán
Cách tốt nhất để bắt đầu thảo luận về ý kiến của nhà kiểm toán là xem xét cái gọi là
“một ý kiến rõ ràng”. Minh họa 3.1 thể hiện một ý rõ ràng (chỗ nhấn mạnh là do tác
giả thực hiện).
Ít nhất thì việc ghi nhận xem điều gì không được nói tới trong minh hoạ 3.1 cũng
quan trọng như việc ghi nhận điều được nói đến. Nó không nói rằng tất cả các hoạt
động giao dịch đều được kiểm toán, nó không chứng thực độ chính xác của các báo
cáo, nó không nói rằng công ty được quản lý tốt và rằng các cổ đông không phải lo
ngại về khoản đầu tư của họ. Nó không nói rằng những người kiểm toán tin tưởng là
không thể có một diễn giải sai hoặc một sự gian lận nào. Thậm chí nó cũng không cho
biết, liệu công ty có khả năng sinh lợi hay không. Không có một điểm nào trong số các
quan sát này có ý nghĩa là sự phê phán của các kiểm toán viên - chẳng qua họ chỉ phản
ánh bản chất của kiểm toán và tình trạng của các đối tượng trong kế toán. Vì có
những vấn đề phức tạp trong thế giới kinh doanh hiện đại và những giới hạn của thời
gian và nguồn lực trong quá trình kiểm toán, những ý kiến mà các kiểm toán viên nêu
ra là rất đầy đủ. Trừ trường hợp người ta sẵn sàng chấp nhận lùi thời hạn sau một
năm hoặc hơn nữa giữa lúc chuẩn bị báo cáo tài chính và lúc hoàn thành việc kiểm
toán, còn nếu không thì phải đánh giá là các mục tiêu của quá trình kiểm toán có lẽ là
quá tham vọng.
Những điều được nêu trong báo cáo của minh họa 3.1 rất có ý nghĩa cho những
người sử dụng các báo cáo tài chính. Đoạn đầu tiên được gọi là phạm vi, chỉ rõ những
báo cáo nào đã được kiểm toán và thông báo cho người đọc các tiêu chuẩn được thừa
nhận về kiểm toán đã được tuân thủ, và rằng những biện pháp kiểm định được người
kiểm toán xem là cần thiết đã được thực hiện. Cần thấy rõ rằng không thể thực hiện
được việc kiểm toán hoàn hảo đối với mọi hoạt động giao dịch đơn lẻ ở một công ty
lớn, trong phạm vi thời gian và kinh phí có hạn.
Do đó, người ta phải bằng lòng với việc tuân theo các chỉ tiêu chuẩn kiểm toán
được thừa nhận và với việc hoàn thành những biện pháp kiểm định “cần thiết”.
Tương tự, trong đoạn thứ hai được gọi là phần ý kiến, người ta phải bằng lòng với ý
kiến (chứ không phải là lời xác nhận) rằng các báo cáo “trình bày rõ” tình hình tài
chính của công ty, phù hợp với các nguyên tắc kế toán được thừa nhận.
Minh họa 3.1
Kính gửi: Các cổ đông và Ban giám đốc công ty XYZ.
Chúng tôi đã xem xét báo cáo tình hình tài chính của công ty XYZ và các chi
nhánh hợp nhất cho đến ngày 31 tháng 12 năm 1983 và năm 1982 cùng các báo cáo có
liên quan tới số tiền lãi vãng lai, còn lại và những thay đổi về tình hình tài chính vào
lúc kết thúc của các năm. Việc xem xét của chúng tôi đã được tiến hành theo các tiêu
chuẩn kiểm toán được thừa nhận, bao gồm kiểm định về các hồ sơ kế toán và những
thủ tục kiểm toán khác mà chúng tôi cho là cần thiết trong trường hợp này.
Theo ý kiến của chúng tôi, các báo cáo tài chính nói trên trình bày rõ tình hình tài
chính của công ty XYZ và các chi nhánh hợp nhất cho đến ngày 31 tháng 12 năm 1983
và 31 tháng 12 năm 1982 cùng các kết quả hoạt động của họ cũng như những thay đổi
về tình hình tài chính vào cuối các năm, phù hợp với các nguyên tắc kế toán được thừa
nhận được áp dụng trên một cơ sở phù hợp.
Các kế toán công
Credit và Debit, Inc
Một loại ý kiến khác với các “ý kiến rõ ràng” được gọi là “ý kiến dè dặt” và
thường chỉ ra rằng có sự nghi ngờ nào đó là trên thực tế không biết báo cáo tài chính đã
được kiểm tra có trình bày rõ về tình hình tài chính của công ty hay không? Nếu ý kiến
dè dặt này được nêu ra thì một điều quan trọng đối với những người sử dụng báo cáo
tài chính này là họ phải có sự phán xét độc lập về ý nghĩa của nhận xét dè dặt có liên
quan tới tình trạng của công ty không. Việc đọc cẩn thận nhận xét này có ý nghĩa quan
trọng để biết chắc rằng, người đọc hiểu rõ sự cấp bách của vấn đề. Đoạn trích sau
đây rút ra từ một ý kiến dè dặt về bản báo cáo hàng năm của một công ty với tổng số
tài sản xấp xỉ 9,5 triệu $, là một thí dụ tốt về nhận xét dè dặt.
“Khi xem xét đầy đủ hơn điểm lưu ý thứ hai của báo cáo tài chính ngày
31/10/19...., các phiếu nợ và lãi cộng dồn của công ty Manufacturing Corporations tổng
cộng đã lên tới xấp xỉ 800.000 $. Việc thu hồi phần tài sản này phụ thuộc vào giá trị
thuần túy có thể thực hiện được của phần tài sản bị cầm cố như đồ ký gửi hoặc phụ
thuộc vào thành tích hoạt động trong tương lai của Manufacturing Corporations”.
Nói cách khác, trong số tổng tài sản 9,5 triệu $ được tuyên bố của công ty thì
gần 800.000 $ hay 8,5 % là do khoản cho vay phải thu nhưng có lẽ không thể thu hồi
được! Khi thẩm tra đôi chút, người ta có thể nhận ra qua điểm lưu ý thứ hai của báo
cáo tài chính là công ty Manufacturing Corporations đã bị lưu ý về các khoản nợ, nó
đang hoạt động thua lỗ với tài khoản cổ phần của các cổ đông bị thâm hụt và hiện nay
đang tiến hành thương lượng để tái lập các thỏa thuận về nợ. Như vậy, bằng cách
phân tích tình trạng nợ của công ty, có lẽ khôn ngoan là nên tính tổng giá trị tài sản của
công ty là 8.700.000 $ chứ không phải là 9.500.000 $.
Tinh thần của câu chuyện ngắn này là cần phải thận trọng khi đọc tới diễn giải
ý kiến của người kiểm toán. Cũng cần phải thận trọng khi đọc các chú thích trong các
báo cáo tài chính. Các chú thích là một bộ phận không tách rời được của các báo cáo tài
chính và cho ta một tóm tắt quan trọng và hữu ích về các chính sách kế toán của công
ty. Ngay cả khi đối với một người không phải là nhà phân tích tài chính chuyên môn thì
việc đọc qua các chú thích dẫu chỉ để có một cảm nghĩ vắn tắt về các chính sách kế
toán của công ty cũng sẽ có nhiều ý nghĩa. Khi đã nắm được những thông tin này,
người ta có thể sẵn sàng tiến hành việc xem xét kỹ tất cả các báo cáo tài chính.
Các báo cáo tài chính cơ bản
Minh họa 3.2 đưa ra một bảng cân đối kế toán điển hình của một công ty chế
tạo. Có thể hình dung bảng cân đối kế toán là một “bức ảnh chụp nhanh” về tình
trạng tài chính của công ty vào thời điểm đang xét. Theo ngôn ngữ của nhà kinh tế,
bảng cân đối kế toán là một báo cáo hàng tồn trữ do nó thể hiện lượng tồn trữ của các
khoản có, khoản nợ và các cổ phần vào các thời điểm xem xét - trong trường hợp này
là ngày 31/12/1983 và năm 1982. Bảng cân đối kế toán có ba phần chính: các tài sản
được liệt kê ở phía trái; các khoản nợ được liệt kê ở phía phải; và các cổ phần cũng
được liệt kê ở phía phải. Hai phía đó của bảng cân đối kế toán phải bằng nhau - đó là
logic căn bản của cách thể hiện bảng cân đối kế toán. Các tài sản của bảng cân đối
liệt kê tổng các nguồn lực của công ty dưới dạng dollar. Ở đây, ta thấy các khoản
mục như tiền mặt, các khoản phải thu, nhà máy và thiết bị, tài sản dưới dạng các
khoản cho thuê vốn và các nguồn lực kinh doanh khác. Phía phải của bảng cân đối liệt
kê những yêu cầu đặt ra đối với bên tài sản. Các khoản nợ như các khoản nợ phải trả,
các phiếu nợ phải trả, nghĩa vụ trả nợ các hợp đồng thuê vốn và các khoản nợ dài hạn
thể hiện những yêu cầu đòi nợ của những người cho vay khác nhau đối với các loại tài
sản này. Phần trội hơn của các tài sản so với những yêu cầu đòi nợ của những người
cho vay thể hiện phần giá trị thuần túy thuộc về những người sở hữu công ty. Giá trị
thuần túy này được biểu thị trong phần vốn cổ phần của bảng cân đối. Như vậy, nhìn
toàn cục, bảng cân đối cho ta một bản liệt kê chi tiết các tài khoản cấu thành của cái
gọi là phương trình kế toán cơ bản sau đây:
Các tài sản = Các khoản nợ + Các cổ phần
hay là:
Tổng các nguồn lực của doanh nghiệp = Quyền của những người cho vay +
Quyền của những người sở hữu.
Như vậy, ta có thể thấy từ minh họa 3.2, bảng cân đối - hay bản báo cáo tình
trạng tài chính, như người ta thường gọi, được phân loại theo cơ cấu logic tổ chức.
Phần tài sản lưu động bao gồm khoản tiền mặt và các loại tài sản khác, thường có thể
chuyển đổi được thành tiền mặt trong vòng một năm hoặc một chu kỳ hoạt động nào
đó. ở đây ta có thể liệt kê các loại tài sản như các chứng khoán bán trên thị trường, các
khoản phải thu và các khoản dự trữ. Các chứng khoán bán được trên thị trường là các
khoản đầu tư tiền mặt ngắn hạn với độ cơ động cao, có các loại chứng khoán ít rủi ro
như các chứng khoán Mỹ hoặc các trái phiếu chính phủ. Các khoản đầu tư vào các
chứng khoán bán được trên thị trường thường ghi trên bảng cân đối kèm theo một
khoản chi và với giá trị trên thị trường của những chứng khoán đó được liệt kê trong
phần chú thích của các báo cáo tài chính.
Minh họa 3.2
Liên hiệp các nhà sản xuất công nghiệp HOYA, INC
Báo cáo tình hình tài chính 31 - 12
1983 ($) 1983 ($)
Các tài sản
Tiền mặt 315.000 297.000
Các chứng khoán bán được 57.000 25.000
Các tài khoản sẽ nhận được 2.594.000 2.117.000
Dự trữ 2.257.000 1.986.000
Tổng tài sản lưu động 5.223.000 4.485.000
Nhà máy và thiết bị 3.621.000 3.231.000
Các tài sản khác 526.000 609.000
Tổng tài sản cố định 4.147.000 3.840.000
Tổng tài sản 9.370.000 8.325.000
Nợ và cổ phần
Các khoản phải trả 696.000 874.000
Các phiếu nợ phải trả 1.645.000 965.000
Chi cộng dồn phải trả 628.000 553.000
Thuế cộng dồn phải trả 340.000 308.000
Tổng nợ ngắn hạn 3.309.000 2.700.000
Nợ dài hạn 1.695.000 1.429.000
Tổng số nợ 5.004.000 1.429.000
Cổ phần của các cổ đông
Cổ phần ưu đãi (ngang giá100$,6%) 425.000 579.000
Cổ phần thường (ngang giá 5 $ ) 520.000 510.000
Thặng dư vốn góp 420.000 405.000
Lãi còn giữ lại 3.001.000 2.684.000
Tổng cổ phần của cổ đông 4.336.000 4.196.000
Tổng số nợ và cổ phần 9.370.000 8.325.000
Các khoản phải thu là các khoản tiền người ta nợ công ty, do hàng hoá đã được
chuyển giao (hoặc các dịch vụ đã được thực hiện) nhưng công ty vẫn còn chưa được
trả tiền về các khoản đó. Con số về các khoản phải thu được liệt kê trên bảng cân đối
sau khi trừ đi khoản khất nợ. Khoản khất nợ thể hiện sự ước tính của công ty, dựa
trên kinh nghiệm trước đây về tổng số tiền phải thu mà sẽ không thu được. Tổng số
khoản khất nợ này thường được ghi trong phần chú thích.
Cho tới giờ, chúng ta thấy các tài sản lưu động được liệt kê theo thứ tự của mức
cơ động gần hay xa so với tiền mặt. Khoản kém cơ động nhất của tài sản lưu động là
các khoản dự trữ được liệt kê sau cùng trong phần này. Đối với một nhà sản xuất
công nghiệp, các khoản dự trữ gồm ba bộ phận - đó là nguyên vật liệu thô, sản phẩm
dở dang và thành phẩm: Để tính toán chi phí nhằm đánh giá lượng dự trữ, cần phải
phân bổ sản xuất và các phí tổn khác cho các khoản dự trữ khi các khoản đó chuyển từ
giai đoạn nguyên liệu thô sang giai đoạn thành phẩm. Kế toán dự trữ là một chủ đề
khá phức tạp và sẽ được đề cập chi tiết hơn ở chương 5. Còn ở đây chúng ta chỉ cần
biết rằng, nói chung dự trữ được đánh giá theo giá thị trường hoặc theo chi phí tuỳ theo
mức giá nào thấp hơn. Các chi tiết về phương pháp đánh giá dự trữ mà mỗi công ty cụ
thể sử dụng, nói chung đều được ghi cho các chú thích ở các báo cáo tài chính của
công ty.
Phần cuối cùng ở phía tài sản của bảng cân đối k ế toán liệt kê phần đầu tư của
công ty vào các tài sản sử dụng lâu dài như đồ đạc, nhà máy và thiết bị. Các tài sản này
kém cơ động nhất khi so sánh với các tài sản lưu động và được công ty sử dụng qua
một thời gian dài. Phương pháp được thừa nhận để đánh giá tài sản cố định là liệt kê
các tài sản này theo giá trị lịch sử rồi trừ đi các khoản khấu hao tích luỹ cho tới ngày
lập bảng cân đối. Khoản khấu hao tích luỹ, đã được “khấu trừ đi” khỏi giá trị lịch sử
để còn lại cơ sở tài sản cố định hiện tại của công ty. Các chi tiết có liên quan tới chính
sách khấu hao của công ty được nêu trong phần chú thích ở các báo cáo của công ty.
Phía phải của bảng cân đối, tức là các khoản nợ và các cổ phần cũng thực hiện
theo một khuôn khổ tổ chức có logic chặt chẽ. Các khoản nợ ngắn hạn tức là các
khoản nợ sẽ phải trả trong vòng một năm hoặc trong vòng một chu kỳ hoạt động, sẽ
được liệt kê đầu tiên. Các khoản nợ này, bao gồm các khoản mục như các khoản phải
trả cho những cơ sở cung ứng cho công ty, các phiếu nợ ngắn hạn phải thanh toán,
phần nợ đã đến lúc phải trả ở bất kỳ khoản nợ dài hạn nào và các khoản chi tiêu khác
nhau dồn lại. Các khoản chi tiêu dồn lại nói chung là các khoản chi tiêu đã diễn ra cho
tới ngày lập bản cân đối nhưng vẫn còn chưa được thanh toán bằng tiền mặt. Các
khoản mục như tiền lương và tiền công phải trả cho công nhân, tiền trả lãi đi vay nợ,
các khoản chi tiêu công cộng tính dồn và các khoản mục tương tự sẽ được ghi vào
phần chi tiêu này.
Một yếu tố hết sức quan trọng của bảng cân đối là mối quan hệ của các tài sản
lưu động . Các tài sản lưu động là các tài sản có khả năng biến thành tiền mặt trong
vòng một năm còn các khoản nợ ngắn hạn là những nghĩa vụ trả nợ cần phải trả bằng
tiền mặt trong vòng một năm. Khá rõ ràng là mối quan hệ này có tầm quan trọng trong
việc phán xét về tính cơ động tài chính ngắn hạn của công ty (tính cơ động ngắn hạn
về tài chính là khả năng của công ty trong việc đáp ứng nghĩa vụ trả nợ hiện tại khi
chúng tới hạn phải trả). Phần trội hơn của tài sản lưu động so với nợ ngắn hạn được
gọi là vốn lưu động ròng của công ty. Đối với phần lớn các công ty, theo kinh nghiệm
thường là phần tài sản lưu động cần phải gần gấp đôi so với phần nợ ngắn hạn .
Dễ thấy tại sao nên có mối liên hệ như vậy. Trước hết cần phải thấy rằng, vốn
hoạt động thể hiện “vốn chu chuyển ” của một công ty kinh doanh. Các chứng khoán
có thể bán được trên thị trường, các khoản phải thu và các khoản dự trữ được tiếp tục
chuyển thành tiền mặt trong tiến trình hoạt động kinh doanh bình thường. Số tiền mặt
này sau đó được dùng để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn đã đến hạn hoặc được tái
đầu tư vào các khoản dự trữ mới, vào các khoản phải thu và với tư cách là khoản cân
đối tiền mặt còn dư được tích luỹ lại dưới dạng các chứng khoán có thể bán được
trên thị trường . Đồng thời, các khoản nợ ngắn hạn mới xuất hiện khi tăng cường kinh
doanh và khi đầu tư bổ sung vào các tài khoản vãng lai, cụ thể các khoản phải trả
thường được coi như phần trạng thái tài chính tự phát vì chúng xuất hiện một cách tự
phát cùng với các khoản mua dự trữ thường được ghi trên các tài khoản mở. Khi biết
trước rằng có những độ trễ khác nhau trong khi chuyển các tài khoản dự trữ thành các
khoản phải thu và sau đó thành tiền mặt và khi đã biết sự cần thiết phải thanh toán các
khoản nợ ngắn hạn đến hạn thì cách giải quyết khôn ngoan là nên duy trì một lề an
toàn của các tài sản lưu động so với các khoản nợ ngắn hạn.
Một lề an toàn thứ hai là do chính bản chất của bản thân các tài sản lưu động :
Các chứng khoán có khả năng bán được trên thị trường có thể bị giảm giá trị thị trường
một cách tạm thời hoặc thậm chí vĩnh viễn. Các khoản phải thu cũng có xác suất tổn
thất do phần khất nợ không thể thu hồi. Cuối cùng, các khoản dự trữ có thể hư hỏng
về mặt vật lý, không thể bán được và giảm giá trị thị trường. Nhằm để cân đối những
phần giảm bớt giá trị tài sản có thể nảy sinh, trong khi yêu cầu trả nợ đầy đủ theo kỳ
hạn vẫn không đổi đòi hỏi phải có một lề an toàn của tài sản so với số nợ. Những yêu
cầu với lề an toàn này, cùng với yêu cầu về lề an toàn đã nói ở trên, đòi hỏi các tài sản
lưu động phải vượt hơn các khoản nợ ngắn hạ n. Kinh nghiệm cho thấy rằng tỷ lệ
hay là lề (margin) 2 trên 1 là thích hợp cho nhiều loại hình công ty. Nói tóm lại:
Vốn lưu động ròng = Vốn luân chuyển = Tài sản lưu động - nợ ngắn hạn
Vốn hoạt động của liên hiệp các nhà chế tạo - Công nghiệp Hoya
(năm 1983) = 5.223.000$ - 3.309.000$ = 1.914.000$
Bộ phận thứ hai trong phía nợ và cổ phần trên bảng cân đối là các khoản nợ dài
hạn. Bộ phận này ghi nhận bất kỳ một khoản nợ dài hạn nào đối với các ngân hàng
hoặc các chủ nợ khác và bất kì nghĩa vụ trả nợ nào theo các hợp đồng thuê vốn.
Những thông tin chi tiết về các đặc điểm cụ thể của các khoản nợ dài hạn được ghi
trong các chú thích của các báo cáo tài chính.
Phần cuối cùng trong bảng cân đối là cổ phần của các cổ đông hay vẫn thường
gọi là giá trị thuần tuý của công ty. Qua đây, người ta biết được quyền lợi của các chủ
sở hữu công ty được biểu hiện qua các loại cổ phần hay cổ phiếu khác nhau. Cổ
phiếu ưu đãi được ưu tiên hơn so với các cổ phần hay cổ phiếu khác. Hầu hết các cổ
tức của cổ phiếu ưu đãi đều là cộng dồn, tức là nếu không trả cố tức vào một năm
nào đó thì cổ tức đó được coi là nợ còn khất lại và phải trả hết trước khi có thể trả cổ
tức cho cổ phiếu thường. Trong trường hợp, liên hiệp các nhà công nghiệp chế tạo
Hoya, loại cổ phiếu ưu đãi mệnh giá $ 100 và 6% nghĩa là cổ phiếu đó được bán với
giá 100$ một cổ phần và có cổ tức là 6% hay 6 $ một năm. Công ty luôn phải trả cổ
tức ưu đãi này trước khi trả bất kỳ cổ tức cổ phiếu thường nào.
Ba tiểu mục sau trong phần cổ phần là quyền lợi của các cổ đông thường trong
công ty. Khác với cổ phiếu ưu đãi, mệnh giá của cổ phiếu thường không có ý nghĩa
kinh tế cụ thể mà chỉ đơn thuần là kết quả cần cho sổ sách kế toán. Khi bán cổ phiếu
thường thì phải ghi vào sổ sách công ty theo một giá trị “hợp pháp” hay thường được
gọi là mệnh giá hay giá trị định sẵn của nó. Tuy vậy, số tiền bỏ ra để mua cổ phiếu
lại do những đánh giá tổng thể về giá trị công ty của các nhà đầu tư quyết định chứ
không phải là theo yêu cầu sổ sách của công ty. Vì ở hầu hết các bang, luật pháp qui
định các công ty không được bán cổ phiếu dưới mệnh giá của nó nên các công ty
thường đặt mệnh giá cổ phiếu thường của họ khá thấp. Khoản chênh lệch giữa giá
bán cổ phiếu và mệnh giá được gọi là thặng dư vốn góp hay thặng dư vốn. Vì thuật
ngữ thặng dư thường làm người ta hiểu nhầm nên ở trong hầu hết các báo cáo tài
chính, nó thường được thay bằng một cụm từ “số góp vượt quá mệnh giá”. Với công
ty liên hiệp các nhà chế tạo công nghiệp Hoya, các con số trong bảng cân đối cho
chúng ta biết rằng có dư ra 104.000 cổ phiếu (trị giá 520.000$ chia cho mệnh giá $ 5
cho mỗi cổ phần) và những cổ phần này được công ty bán ra với số tiền tổng cộng là
$940.000 ($520.000 mệnh giá + $420.000 thặng dư vốn góp).
Khoản cổ phần của cổ đông thường cuối cùng là lợi nhuận còn giữ lại. Con số
này thể hiện thu nhập công ty dùng để tái đầu tư mà không chi trả dưới dạng cổ tức
theo thời gian. Những khoản thu nhập này hoàn toàn thuộc về cổ đông thường và thể
hiện mức gia tăng lãi cổ phẩn của họ theo thời gian. Điều quan trọng cần phải ghi nhớ
là sự khác biệt rất lớn ở đây giữa cổ phiếu ưu đãi và cổ phiếu thường. Cổ phiếu ưu
đãi có quyền ưu tiên được yêu cầu lấy $ 6 cổ tức hàng năm của mình và được ưu tiên
nhận phần chia giá trị tài sản khi có thanh lý. Bù lại phần ưu tiên của mình, cổ phiếu
ưu đãi phải từ bỏ quyền đòi hỏi hưởng số thu nhập vượt quá số $ 6 cho mỗi cổ phần
mà nó lẽ ra được hưởng. Những khoản thu nhập bổ sung này được chuyển thành các
khoản lợi tức của các cổ đông thường. Để có được phần lợi này, cổ đông thường phải
chấp nhận rủi ro do giá trị cổ phiếu thay đổi. Nếu thu nhập còn lại sau khi chi trả mọi
chi phí và cổ tức của cổ phần ưu đãi không đủ để trả cho các cổ đông thường, thì
không có cổ tức nào của cổ phiếu thường được chi trả cả. Tương tự như vậy, nếu
một công ty bị thua lỗ trong một năm nào đó, số tiền thua lỗ này được khấu trừ từ
khoản thu nhập còn giữ lại và cổ phần của cổ đông thường giảm xuống. Như vậy, cổ
phần của các cổ đông thường đôi khi được gọi là “nệm cổ phần” của công ty.
Một chi tiết cần chú ý: kết luận trong mục cổ phần của các chủ sở hữu trong
bảng cân đối là hình thái tổ chức của doanh nghiệp. Hình thái tổ chức của doanh
nghiệp được phản ánh trong cách trình bày cổ phần của những người sở hữu. Các báo
cáo tài chính của Liên hiệp các nhà sản xuất công nghiệp Hoya minh hoạ hình thái tổ
chức phổ biến nhất: đó là công ty liên hiệp. Có hai hình thái khác cũng có thể đáng
quan tâm: quyền sở hữu duy nhất (chủ nhân duy nhất) và hợp doanh. Nói chung, các
hình thái sở hữu này được phản ánh bằng một phương pháp trình bày đơn giản hơn
trong cổ phần. Trong trường hợp quyền sở hữu duy nhất, toàn bộ phần cổ phần có
thể trình bày như cổ phần của người sở hữu duy nhất trong doanh nghiệp. Do đó, nếu
Liên hiệp các nhà chế tạo công nghiệp Hoya - Joseph Hoya sở hữu thì lãi cổ phần của
ông ta vào cuối năm 1983 sẽ có thể được thể hiện như sau:
Joseph Hoya, vốn 4.366.000 $
Nếu liên hiệp này được tổ chức như một hợp doanh có quyền sở hữu chung và
Joseph Hoya và Jennifer Saxa là đối tác bình đẳng như nhau thì phần cổ phần của
người sở hữu sẽ có dạng như sau:>
Joseph Hoya, vốn 2.183.000 $
Jennifer Saxa, vốn 2.183.000 $
hhhhhhhhbbbhhhhhhhhh __________
hhhhhhhhhhbb hh 4.366.000 $
Tất nhiên, một tổ chức doanh nghiệp với quy mô như Hoya hầu như sẽ được tổ
chức một cách bất biến như một công ty Liên hiệp do có những lợi thế về thuế và
trách nhiệm pháp lý hữu hạn. Quyền sở hữu duy nhất và hợp doanh thường được thấy
trong các công ty kinh doanh nhỏ và trong các tổ chức chuyên môn như các công ty
luật, các công ty kế toán công chứng (CPA) và các công ty tương tự.
Giá trị kế toán của các chứng khoán
Một khoản mục đáng quan tâm cuối cùng trong bảng cân đối kế toán là giá trị kế
toán thuần túy hoặc giá trị tài sản thuần túy các chứng khoán của công ty. Giá trị kế
toán thuần túy hoặc giá trị tài sản thuần túy của một trái phiếu, một cổ phần ưu đãi
hoặc một cổ phần thường là những giá trị tài sản của công ty mà theo đó, mỗi loại
chứng khoán có quyền đòi hỏi thanh toán dựa trên giá trị kế toán của các tài sản này.
Giá trị kế toán thể hiện giá trị một tài sản được ghi nhận trên bản cân đối (“trên sổ
sách kế toán”) của công ty. Nói một cách khác, giả sử rằng tất cả các tài sản đều có
thể bán được theo giá trị kế toán và toàn bộ khoản nợ ngắn hạn đều được thanh toán.
Khi đó giá trị tài sản thuần túy hoặc giá trị kế toán thuần túy là giá trị tính bằng dollar
của các tài sản còn lại để sẵn sàng trả cho mỗi loại chứng khoán xét theo thứ tự ưu
tiên của nó trong thanh toán - trước hết là các trái phiếu sau đó đến các cổ phần ưu đãi
và tiếp đó đến các cổ phần thường. Có lẽ cách tốt nhất để hiểu về giá trị kế toán là
thông qua một ví dụ. Giả sử rằng, khoản nợ dài hạn 1.695.000 $ của Hoya bao gồm
1695 trái phiếu với mỗi trái phiếu có giá trị phát hành 1000 $, khi đó, giá trị tài sản
thuần túy tính cho mỗi trái phiếu được xác định như sau:
Giá trị tài sản thuần túy cho một trái phiếu:
Tổng tài sản 9.370.000 $
Trừ đi: nợ ngắn hạn (3.309.000 $)
Tài sản thuần túy sẵn sàng đáp ứng yêu cầu đòi nợ
6.061.000 $
của những người có trái phiếu
Giá trị tài sản thuần túy cho một trái phiếu là 6.061.000 $ / 1695 = 3578 $.
Do các trái phiếu được ưu tiên hàng đầu trong thanh toán cho nên chúng sẽ có
mức an toàn cao nhất. Như đã thấy trong ví dụ trên, có 3576 $ giá trị tài sản thuần túy
dành để đáp ứng yêu cầu trả nợ cho mỗi trái phiếu có giá trị phát hành 1000 $ căn cứ
vào giá trị kế toán của tài sản công ty.
Cổ phần ưu đãi có thứ tự ưu tiên sau trái phiếu trong thanh toán. Giá trị tài sản
thuần túy cho mỗi cổ phần được tính như sau:
Giá trị tài sản thuần túy cho mỗi cổ phần ưu đãi (4250 cổ phần)
Tổng tài sản 9.370.000 $
Trừ đi: nợ ngắn hạn (3.309.000 $)
Nợ dài hạn (1.695.000 $)
Các tài sản thuần túy sẵn có để đáp ứng
4.366.000 $
cho yêu cầu đòi nợ ưu tiên
Giá trị tài sản thuần túy tính cho một cổ 4.366.000$/4250 =
phần ưu đãi là 1027
Cuối cùng, giá trị kế toán thuần túy tính cho mỗi cổ phần chung được tính bằng
cách xác định số tiền dựa trên các giá trị kế toán mà mỗi cổ phần thường sẽ nhận
được nếu như công ty bị thanh lý. Trong trường hợp của liên hiệp Hoya, giá trị kế toán
thuần tùy cho mỗi cổ phần thường bằng 37,89 $ và được tính như sau:
Giá trị kế toán thuần túy cho một cổ phần thường (104.000 cổ phần)
Tổng tài sản 9.370.000 $
Trừ đi: nợ ngắn hạn (3.309.000 $)
Nợ dài hạn (1.695.000 $)
Cổ phần ưu đãi (425.000 $)
Các tài sản thuần túy sẵn có để đáp ứng
cho yêu cầu đòi nợ của một cổ phần 3.941.000 $
thường
Giá trị kế toán cho mỗi cổ phần thường là 3.941.000$ /104.000 = 37,89
$
Bằng cách khác (và tương đương) ta có thể tính giá trị kế toán thuần túy cho mỗi
cổ phần thường như sau:
Giá trị kế toán thuần túy cho mỗi cổ phần thường (với 104.000 cổ phần)
Cổ phần thường (mệnh giá 5$) 520.000 $
Số thặng dư vốn góp 420.000 $
Thu nhập còn giữ lại 30.000 $
Tổng số cổ phần của những người có cổ phần
3.941.000 $
thường
Giá trị kế toán cho mỗi cổ phần thường là 37, 89 $
Tất nhiên, cả hai cách tính đều cho kết quả như nhau vì theo định nghĩa cổ phần
của những người có cổ phần thường bằng tổng tài sản trừ đi mọi khoản nợ và cổ
phần ưu đãi.
Không nên hiểu sai cách tính giá trị kế toán, đặc biệt là các giá trị tính toán trong
phần cổ phần thường. Trước hết, trong hầu hết các trường hợp, điều hợp lý là nên
giả thiết về cái mà các nhà kế toán gọi là “mối quan tâm lo lắng hiện có”. Người ta có
thể cho rằng, không có nguy cơ phá sản sắp xảy ra và do đó, giá trị thanh lý của công
ty sẽ không phải là một biến số thích hợp để xác định giá trị các chứng khoán. Thứ hai
là ta cần nhớ rằng việc tính toán giá trị kế toán ngầm định rằng toàn bộ tài sản có thể
bán được theo giá trị kế toán để thỏa mãn các yêu cầu đòi nợ khác nhau. Tùy theo từng
hoàn cảnh, điều này có thể đúng hoặc sai. Nếu việc thanh lý xảy ra, trên thực tế các
tài sản có thể bán với giá cao hơn hoặc thấp hơn so với giá trị kế toán. Cuối cùng,
người ta có thể thấy rằng các giá trị thị trường của các chứng khoán được quy định
bởi các lực lượng thị trường mà chúng có thể chỉ có liên hệ với các giá trị kế toán khi
xét theo giá trị giới hạn. Đối với các trái phiếu và cổ phần ưu đãi, giá trị thị trường chủ
yếu được xác định bởi tỷ lệ tín dụng của công ty và lãi suất hiện hành. Đối với các cổ
phần thường, phần lãi của công ty và viễn cảnh kinh tế tương lai là điểm cốt yếu cho
việc định giá trị.
Báo cáo thu nhập
Minh họa 3.3 trình bày hình thái phổ biến của một báo cáo thu nhập. Nếu ta có
thể coi bảng cân đối kế toán như là một báo cáo dưới dạng “bức ảnh chụp nhanh”
hoặc báo cáo về “dự trù”, khi ấy có thể hình dung báo cáo thu nhập như một “bức
tranh chuyển động” hoặc nội dung báo cáo về “luồng”. Báo cáo thu nhập trình bày về
“luồng” các nguồn thu, các chi phí và các chi tiêu trong toàn công ty vào một năm đã
biết. Có thể hình dung mối liên hệ giữa báo cáo thu nhập với bảng cân đối như sau:
Sơ đồ này thể hiện một cách rõ ràng sự khác biệt chủ yếu và mối liên hệ then
chốt giữa bảng cân đối với báo cáo thu nhập. Bảng cân đối trình bày tình hình tài chính
của công ty tại thời điểm đang xét, trong khi báo cáo thu nhập miêu tả các kết quả
hoạt động trong một khoảng thời gian nào đó. Theo ví dụ ở đây, hai bảng cân đối cho
ta thấy tình hình của công ty vào 31/12/1982 và 31/12/1983 trong khi báo cáo thu nhập
cung cấp các thông tin có liên quan tới vấn đề là công ty chuyển dịch như thế nào từ
trạng thái hiện có vào cuối năm 1982 tới trạng thái vào cuối năm 1983.
Nửa trên của báo cáo về phần thu nhập vãng lai và còn giữ lại trong minh họa
3.3 cho thấy doanh thu trong năm của công ty, các loại chi phí và chi tiêu khác nhau, thu
nhập thuần túy trước và sau thuế và thu nhập tính cho một cổ phần thường. Doanh số
thể hiện tổng doanh thu của công ty trong vòng một năm chưa tính, số thực lãi trong
mọi hoạt động kinh doanh hoặc các khoản chiết khấu được phép. Chi phí cho các sản
phẩm bán ra gồm các khoản mục như chi phí nguyên vật liệu, chi phí lao động trực
tiếp trong nhà máy và các chi phí chung (tổng phí) trong nhà máy. Phần khấu hao biểu
thị tiền khấu hao nhà máy và thiết bị trong năm tính theo dollar, trong khi chi phí bán
hàng và quản lý biểu thị toàn bộ các loại chi phí hoạt động khác. Trừ tổng chi phí hoạt
động ra khỏi doanh số ta được số lợi nhuận hoạt động hoặc lãi gộp thu được từ các
hoạt động thông thường của công ty. Khoản thu nhập khác, thường là các phần thu
nhập linh tinh từ các nguồn khác nằm ngoài hoạt động bình thường như phần lãi thu
được trên các phiếu nợ phải thu do công ty giữ, trên các phần lãi và lỗ của vốn đầu tư
và các khoản mục tương tự. Tiếp theo là khoản chi phí trả lãi vay nợ. Thông thường,
các khoản mục này được liệt kê riêng do nó biểu thị một khoản chi tiêu tài chính, đó là
chi tiêu do quyết định của công ty trong vấn đề là trang trải tài chính bằng cách nào
(vay nợ hay bán cổ phần) chứ không phải là chỉ tiêu sinh ra do các hoạt động bình
thường của công ty.
Cuối cùng, việc trừ chi phí trả lãi sẽ cho ta phần thu nhập trước thuế của công
ty. Khấu trừ thuế ta sẽ được “dòng cuối cùng” - đó là thu nhập thuần túy trong vòng
một năm.
Minh họa 3.3
Liên hiệp các nhà chế tạo công nghiệp Hoya
báo cáo về các khoản thu nhập vãng lai và còn giữ lại
1983 ($) 1983 ($)
Doanh thu 13.413.000 11.575.000
Các chi phí hoạt động
Giá vốn hàng bán 7.467.000 7.194.000
Khấu hao 376.000 334.000
Chi phí bán và quản lý 4.575.000 3.092.000
Tổng chi phí 12.418.000 10.620.000
Lợi nhuận hoạt động 995.000 955.000
Thu nhập khác 186.000 184.000
Tổng thu nhập 1.181.000 1.139.000
Chi trả lãi (180.000) (184.000)
Thu nhập trước thuế 1.001.000 955.000
Đóng thuế thu nhập (382.000) (371.000)
Thu nhập thuần túy 619.000 584.000
Cổ phần thường hiện có 104.000 102.000
Thu nhập thuần túy trên một cổ phần thường 5,71 5,38
Báo cáo về lãi tích lũy còn giữ lại
Thu nhập còn giữ lại vào 1/1 2.684.000 2.390.000
Thu nhập thuần túy trong năm 619.000 584.000
Tổng số 3.303.000 2.974.000
Trừ đi cổ tức trả cho:
hhhhh- Cổ phần ưu đãi 25.500 35.000
hhhhh- Cổ phần thường 276.000 255.000
Thu nhập còn giữ lại vào 31/12 3.001.000 2.684.000
Do những người sở hữu công ty thường quan tâm nhất đến số thu nhập tính cho
mỗi cổ phần thường cho nên dòng cuối cùng được biểu thị trên cơ sở tính cho mỗi cổ
phần. Con số này được tính bằng cách lấy thu nhập thuần túy trừ đi mọi khoản cổ tức
ưu đãi rồi chia cho số cổ phần thường trung bình trong năm. Cần phải trừ đi số cổ tức
ưu đãi, bởi vì khác với số trả lãi cho những người giữ trái phiếu, số lãi này không phải
là được miễn trừ thuế kinh doanh. Cũng y như cổ phần thường, cổ phần ưu là một
loại chứng khoán về quyền sở hữu và mọi khoản cổ tức đã trả sẽ được coi như
khoản đóng góp lợi nhuận cho những người chủ hợp pháp của công ty. Trong trường
hợp của liên hiệp Hoya, lãi cho mỗi cổ phần được tính như sau:
1983 ($) 1983 ($)
Thu nhập thuần túy 619.000 584.000
Trừ đi cổ tức ưu đãi (25.500) (35.000)
Thu nhập dành cho những người có cổ phần thường 593.500 549.000
Số cổ phần thường hiện có 104.000 1.020.000
Thu nhập trên một cổ phần thường 5,71 5,38
Phần dưới cùng của minh họa 3.3 là báo cáo về thu nhập tích lũy và còn giữ lại,
nó minh họa cho mối liên hệ chủ yếu giữa bảng cân đối và báo cáo thu nhập. Số thu
nhập còn giữ lại cho một năm đang khóa sổ (năm đang xét) cần phải bằng với số thu
nhập tại đầu năm đó (hoặc số thu nhập còn lại của đầu năm trước), cộng với thu
nhập thuần túy trong năm đang xét (hoặc trừ đi số lỗ thuần túy) trừ đi mọi khoản phân
bố thu nhập thuần túy (thường là cổ tức). Đôi khi, những khoản phân bố cho các thua
lỗ, chẳng hạn như giải quyết lần cuối cùng về chi phí tố tụng hoặc thuế thu nhập của
năm trước, có thể khấu trừ vào tài khoản thu nhập còn giữ lại. Liên hiệp các nhà chế
tạo công nghiệp Hoya minh họa cho trường hợp điển hình nhất (chú ý rằng số thu
nhập còn giữ lại vào 31/12/1982 đúng bằng số thu nhập còn lại vào 1/1/1983):
Sau khi đã xem xét báo cáo thu nhập, bây giờ chúng ta hãy chú ý đến phạm trù
quan trọng thứ hai về các báo cáo về luồng tài chính, đó là báo cáo về sự thay đổi tình
hình tài chính.
Báo cáo về sự thay đổi tình hình tài chính
Minh họa 3.4 trình bày báo cáo của các liên hiệp các nhà chế tạo công nghiệp
Hoya về sự thay đổi tình hình tài chính đối với năm 1983. Khi nhớ lại định nghĩa trước
đây của chúng ta về vốn lưu động ròng là tài sản lưu động trừ đi nợ ngắn hạn và phần
thảo luận về tầm quan trọng của vốn hoạt động thì không có gì đáng ngạc nhiên về
sự tồn tại của một báo cáo tách biệt về luồng tài chính, trong đó trình bày sự thay đổi
về tình hình vốn hoạt động của công ty qua một năm. Đó là mục đích của báo cáo về
những thay đổi của tình hình tài chính hay cũng còn thường được gọi là báo cáo về các
nguồn và các cách sử dụng ngân quỹ, hoặc báo cáo về luồng ngân quỹ. Thuật ngữ
“ngân quỹ” thường gây sự hiểu lầm cho những người bình thường bởi vì đối với các
kế toán giỏi và các nhà phân tích tài chính nó có ý nghĩa tương đối chuyên sâu vào
chuyên môn khác với nghĩa sử dụng thông thường của thuật ngữ này khi đề cập tới
tiền mặt, thuật ngữ ngân quỹ trong kế toán và tài chính nói về vốn hoạt động thuần
tuý, còn báo cáo về luồng ngân quỹ nói về những thay đổi của vốn hoạt động qua suốt
thời kỳ kế toán:
Ngân quỹ bằng = vốn lưu động ròng = tài sản lưu động - nợ ngắn hạn
Minh họa 3.4
Liên hiệp các nhà chế tạo công nghiệp hoya, inc
Báo cáo về những thay đổi tình hình tài chính 1983
Các nguồn quỹ
Từ các hoạt động:
hhhhhThu nhập thuần túy 619.000 $
hhhhhKhấu hao 376.000$
Tổng nguồn thu từ các hoạt động 995.000 $
Sử dụng các tài khoản khác 83.000$
Vay thêm nợ dài hạn 26.000$
Bán các cổ phần thường 25.000$
Tổng các nguồn quỹ sử dụng quỹ 1.369.000$
Đầu tư thêm vào nhà máy và thiết bị 766.000$
Tái đầu tư vốn cổ phần ưu đãi 172.000$
Trả cổ tức cho cổ phần ưu 255.000$
Trả cổ tức cho cổ phần thường 276.500$
Tổng sử dụng quỹ 1.240.000$
Tăng thuần túy trong vốn hoạt động 129.000$
Phân tích những thay đổi về vốn hoạt động năm 1977
Tiền mặt và chứng khoán bán được 50.000 $
Các khoản sẽ phải thu 417.000$
Dự trữ 271.000$
Các khoản phải trả 178.000$
Các phiếu nợ phải trả (680.000)$
Chỉ tiêu cộng dồn phải trả (75.000)$
Thuế cộng dồn phải trả (32.000)$
Số tăng thuần túy vốn hoạt động 129.000$
Mục đích của báo cáo về những thay đổi trong tình hình tài chính có hai mặt.
Thứ nhất là, nó chỉ ra các nguồn và cách sử dụng các nguồn qũy trong năm và sự thay
đổi phát sinh trong tình hình vốn lưu động ròng của công ty. Thứ hai là, nó cho thấy
những thay đổi trong các tài khoản vốn hoạt động riêng lẻ gây ra sự thay đổi toàn cục
trong vốn lưu động ròng. Khi căn cứ vào định nghĩa, vốn lưu động ròng là tài sản lưu
động trừ đi nợ ngắn hạn , ta có thể thấy số tăng trong tài sản luu động phản ánh sự
đóng góp vào số gia tăng vốn hoạt động, trong khi sự gia tăng số nợ ngắn hạn phản
ánh sự góp phần làm giảm vốn hoạt động. Ngược lại, sự giảm tài sản lưu động thể
hiện việc góp phần làm giảm vốn lưu động ròng và sự giảm số nợ ngắn hạn thể hiện
việc góp phần làm tăng vốn lưu động ròng. Tóm lại:
Sự tăng vốn lưu động ròng:
hhhhhhhSự tăng tài sản lưu động
hhhhhhhSự giảm nợ ngắn hạn
Sự giảm vốn lưu động ròng:
hhhhhhhSự giảm tài sản lưu động
hhhhhhhSự tăng nợ ngắn hạn
Việc xây dựng báo cáo về những thay đổi tình hình tài chính là một nhiệm vụ
tương đối phức tạp và tốt nhất là giao cho các nhà kế toán chuyên nghiệp. Tuy nhiên,
việc hiểu rõ báo cáo rõ ràng là cần thiết và rất quan trọng cho những người sử dụng
báo cáo tài chính. Về căn bản, báo cáo cung cấp những thông tin có liên quan tới tổng
nguồn lực tài chính sẵn có cho công ty trong năm đã qua và cho việc phân bố các nguồn
lực này. Trong trường hợp của liên hiệp Hoya, chúng ta nhận thấy sự thay đổi toàn
cục về vốn lưu động ròng trong năm lịch 1983 như sau:
Vốn lưu động ròng -1982 = 4.485.000 $ - 2.700.000$ = 1.785.000 $
Vốn lưu động ròng -1983 = 5.223.000 $ - 3.309.000 $ = 1.914.000 $
Thay đổi thuần túy trong vốn lưu động ròng -1983 bằng 129.000$.
Khi chú ý vào phần cuối của minh họa 3.4- phần phân tích những thay đổi vốn
lưu động ròng trong năm 1983, chúng ta thấy rằng số tăng trong toàn bộ tài sản lưu
động (tiền mặt, chứng khoán bán được trên thị trường, các khoản phải thu và các
khoản dự trữ) và số giảm nợ ngắn hạn (các khoản phải trả) đã góp phần làm tăng số
vốn lưu động ròng của công ty. Số tăng này bù trừ lại phần nào cho số tăng các khoản
nợ ngắn hạn còn lại (các phiếu nợ phải trả, các chi phí dồn lại phải trả, các khoản
thuế dồn lại phải trả). Tất nhiên, kết quả thuần túy cho số tăng là 129.000 $:
Số tăng vốn lưu động