Chương XI. DỰ BÁO THỜI TIẾT VÀ DỰ BÁO KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP
Dự báo thời tiết có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sản xuất và đời sống, nhằm phòng
chống và hạn chế thiên tai, thiết lập kế hoạch sản xuất, khai thác tiềm năng khí hậu... Người
ta thường sử dụng nhiều phương pháp để dự báo thời tiết. Các công cụ để dự báo thời tiết
gồm có bản đồ Synôp mặt đất, bản đồ Synôp cao không, các loại giản đồ E-MA, ảnh vệ
tinh…Dự báo khí tượng nông nghiệp là phương pháp đánh giá khả năng của sản xuất nông
nghiệp sẽ xảy ra dựa trên các thông tin về dự báo thời tiết cho mỗi khu vực. Ðiều kiện thời
tiết luôn luôn biến động so với giá trị trung bình nhiều năm hoặc giữa năm này và năm khác.
Sự biến động đó kéo theo sự biến động của sản xuất nông nghiệp. Ðối với cây trồng, thời
gian và cường độ xuất hiện của các yếu tố thời tiết làm thay đổi nhịp điệu sinh trưởng, phát
triển, sâu bệnh và năng suất của chúng. Thời tiết dao động còn làm cho chế độ ẩm của đất
dao động theo gây ra hạn hán hoặc lũ lụt. Ðộ chính xác của dự báo khí tượng nông nghiệp
càng cao thì hiệu quả phục vụ càng lớn. Dự báo khí tượng nông nghiệp có phương pháp
riêng. Về cơ bản, các phương pháp của dự báo khí tượng nông nghiệp là phân tích mối tương
quan giữa điều kiện thời tiết và tình hình sinh trưởng phát triển, năng suất của cây trồng, vật
nuôi, sâu bệnh để xây dựng các mô hình thực nghiệm.
1. DỰ BÁO THỜI TIẾT
1.1. Khái niệm về thời tiết
Ở các chương trên chúng ta đã nghiên cứu các yếu tố khí tượng một cách riêng rẽ như
bức xạ, nhiệt độ, độ ẩm, mưa, khí áp và gió... Trong chương này chúng ta sẽ tìm hiểu sự tác
động tương hỗ giữa chúng trong quá trình biến thiên. Một cân bằng tạm thời của các yếu tố
vật lý khí quyển xảy ra tại một thời điểm được gọi là thời tiết.
Như vậy, thời tiết là trạng thái vật lý khí quyển được đặc trựng bởi tập hợp các yếu
tố khí tượng quan trắc được trong một thời điểm hoặc một khoảng thời gian ngắn nhất định
tại một địa phương nào đó. Về cơ bản, thời tiết là sự thể hiện phối hợp các trị số nhiệt độ,
độ ẩm, áp suất khí quyển, hướng và tốc độ gió, lượng mây, mưa và độ trong suốt của khí
quyển. Thời tiết thường biến thiên liên tục theo thời gian, nhiều khi rất đột ngột. Vì vậy thời
tiết biểu hiện muôn hình muôn vẻ và luôn luôn thay đổi.
Thời tiết phụ thuộc vào năng lượng bức xạ mặt trời, bức xạ mặt đất, các khối không
khí và đặc điểm của bề mặt trái đất như ao hồ, sông, biển, rừng cây, thành phố và địa hình.
1.2. Các hệ thống thời tiết chủ yếu
a) Khối không khí
Khí quyển không những không đồng nhất theo chiều thẳng đứng mà còn có sự khác
biệt theo phương nằm ngang. Ở tầng đối lưu hình thành những khối không khí riêng biệt, mỗi
khối có tính chất vật lý khác nhau. Kích thước của khối không khí theo chiều ngang hàng
nghìn kilômét, theo chiều thẳng đứng là vài kilômét, có khi lên tới đỉnh tầng đối lưu. Trong
phạm vi cùng một khối không khí thì trị số biến thiên theo phương nằm ngang của các yếu tố
khí tượng xảy ra rất nhỏ. Nhưng ở vùng giữa các khối không khí thì các yếu tố khí tượng thay
196
đổi rất lớn. Do các khối không khí được hình thành trên các vĩ độ khác nhau, trên bề mặt lục
địa hay đại dương nên các tính chất vật lý như nhiệt độ, độ ẩm rất khác nhau.
Người ta chia các khối không khí trên địa cầu theo vĩ độ địa lý thành 4 loại gọi là các
khí đoàn:
• Khối không khí cực đới: là các khối không khí nằm từ vĩ tuyến 70 0 đến 2 địa cực. Các
khối khí này rất khô và lạnh do hình thành trên mặt đệm đóng băng.
• Các khối không khí ôn đới: hình thành ở khoảng vĩ độ từ 40 0 - 700. Những khối khí này
không lạnh giá bằng khối không khí cực đới.
• Khối không khí nhiệt đới: hình thành ở vùng nhiệt đới vĩ độ từ 10 0 - 400. Ðặc điểm của
khối không khí nhiệt đới là nóng và ẩm, hay xuất hiện dông, bão và mưa lớn..
• Khối không khí xích đạo: trong giải lặng gió từ vĩ độ 100N - 100S là khối không khí xích
đạo nóng, ẩm.
Các khối không khí có thể di chuyển từ nơi hình thành tới các vùng khác. Trong quá trình
di chuyển chúng sẽ mất dần những tính chất ban đầu, tức là bị biến tính. Chẳng hạn khối
không khí đi qua vùng nóng sẽ nóng lên; đi qua vùng lạnh sẽ bị lạnh đi; qua lục địa sẽ trở nên
khô hơn; qua đại dương thì độ ẩm của nó sẽ tăng lên.
b) Front
Hai khối không khí có nhiệt độ và độ ẩm khác nhau khi di chuyển tiếp giáp với nhau
sẽ hình thành một vùng chuyển tiếp. Lớp trung gian ngăn cách giữa hai khối không khí này gọi
là front. Chiều rộng của một front từ 0,5km đến vài kilômét. Vì front có chiều rộng rất hẹp so
với các khối không khí nên coi đó là mặt front. Giao tuyến của mặt front với mặt đất gọi là
đường front. Mặt front nằm nghiêng với mặt đất một góc nhọn, góc nghiêng có thể rất nhỏ (α
> 100). Khi mặt front đi qua một địa điểm người ta quan sát thấy sự biến thiên rất lớn các trị
số nhiệt độ, độ ẩm, khí áp... Nói cách khác, ở đó có sự thay đổi thời tiết rất đột ngột. Các loại
front được phân chia như sau:
Phân loại front theo vùng địa lý:
• Front cực đới: tiếp giáp giữa khối không khí cực đới và ôn đới.
• Front ôn đới: tiếp giáp giữa khối không khí ôn đới và nhiệt đới.
• Front nhiệt đới: tiếp giáp giữa khối không khí nhiệt đới và xích đạo.
Phân loại front theo hướng di chuyển:
• Front lạnh (xem hình 4.4) xuất hiện khi khối không khí lạnh tiến về phía khối không khí
nóng. Khối khí lạnh chảy ở bên dưới khối không khí nóng và tiến lên phía trước thành
một cái nêm tày mũi đẩy khối không khí nóng lên cao. Khi front lạnh đi qua thì nhiệt độ
giảm đi rõ rệt vì không khí lạnh đến thay thế cho không khí nóng. Không khí nóng bị đẩy
lên cao làm hơi nước ngưng kết lại trên mặt front tạo ra mây trung tích (A c) hoặc mây vũ
tích (Cb). Khi front lạnh đi qua, thời tiết thường có mưa rào, về mùa hạ thường kèm theo
dông và mưa đá.
• Front nóng (xem hình 4.5), hình thành khi khối không khí nóng di chuyển về phía khối
không khí lạnh. Khối không khí nóng trượt trên khối không khí lạnh tạo thành mặt front
nóng. Khi front nóng đi qua một địa phương nào đó thì bao giờ ở đấy nhiệt độ cũng tăng
lên, vì trong trường hợp này không khí nóng tới thay thế cho không khí lạnh. Trên mặt
front nóng, không khí nóng sẽ lạnh đi và hình thành mây tầng thấp (N s), rồi đến mây tầng
197
giữa (As), cao hơn là mây Cs, Ci. Thời tiết trong front nóng thường là xấu như mưa dầm,
gió mạnh hoặc sương mù.
• Front tĩnh: khi hai khối không khí không đẩy nhau nữa, front không di chuyển thì gọi là
front tĩnh. Trường hợp này thường xảy ra khi front đang di chuyển gặp rừng hoặc núi
cao chặn lại. Thời tiết trong front tĩnh thường có mưa.
c) Xoáy thuận
Xoáy thuận còn được gọi là xoáy tụ, đó là một vùng xoáy được tạo thành do không khí
chuyển động trong một vùng khí áp thấp. Dòng không khí di chuyển từ ngoài vào trung tâm,
ngược chiều kim đồng hồ (ở Bắc bán cầu).
Khi xoáy thuận chuyển động, quan sát thấy có chuyển động đi lên ở trung tâm, vì thế ở đây
thường có nhiều mây và mưa.
Hình 11.1 là mô hình biểu thị một xoáy thuận. Vùng xoáy thuận thường có hình tròn với nhiều
đường đẳng áp đóng kín, sắp xếp vòng quanh trung tâm. Áp suất không khí ở trung tâm là nhỏ
nhất và tăng dần ra ngoại vi. Xoáy thuận làm xuất hiện tác dụng tiếp xúc giữa hai khối không
khí
khác nhau về nhiệt độ nên trong xoáy thuận thường có hai front, front nóng ở phía Đông Nam
và front lạnh ở phía Tây Nam. Hai front chụm lại ở trung tâm xoáy thuận, ở giữa hai front là
vùng nóng gọi là khu nóng. Vì khoảng không gian của khu nóng bị khối không khí đồng nhất
có khí áp cao hơn chiếm cứ nên các đường đẳng áp ở đây có dạng những đường thẳng (hình
11.3).
Hình 11.1. Mô hình xoáy thuận Hình 11.2. Mô hình xoáy nghịch
Ðường kình trung bình của xoáy thuận vào khoảng 1000 km. Chiều cao trung bình 3 - 4 km.
Xoáy thuận chuyển động dọc theo các đường đẳng áp của khu nóng, với tốc độ từ 30 - 50 km/
h.
d) Xoáy nghịch
198
Xoáy nghịch còn gọi là xoáy tản, là một vùng khí áp cao, trong đó gió tạo thành xoáy
tản từ trung tâm ra xung quanh, thuận chiều kim đồng hồ (ở Bắc bán cầu). Khi xoáy nghịch
chuyển động, người ta quan sát thấy có các dòng không khí đi xuống ở trung tâm, vì thế thời
tiết trong xoáy nghịch thường là thời tiết tốt, quang mây và khô ráo. Mùa hạ, thời tiết trong
xoáy nghịch thường nóng và quang mây, còn mùa đông thì trời nắng kèm theo lạnh giá.
Hình 11.3. Bản đồ thời tiết xoáy thuận
Ở vùng xoáy nghịch, khí áp giảm dần từ trung tâm ra ngoại vi, đường đẳng áp ở trung
tâm xoáy nghịch có trị số lớn, cá biệt có thể đạt tới 1080mb. Chỉ ở ngoại vi xoáy nghịch mới
có thể có front. Ða số xoáy nghịch có các lớp khí quyển dưới thấp là khối không khí đồng
nhất, vì vậy chúng không có front và do đó thời tiết trong xoáy nghịch được quy định bởi các
tính chất của khối không khí đó nên tương đối ổn định (hình 11.2). Xoáy nghịch là một vùng
không khí lớn, đường kính có thể đạt tới trên 2.000 km. Tốc độ gió trong xoáy nghịch nhỏ hơn
trong xoáy thuận, trung bình khoảng 25 km/h.
1.3. Dự báo thời tiết
Dự báo thời tiết có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sản xuất và đời sống, nhằm
phòng chống và hạn chế thiên tai, thiết lập kế hoạch sản xuất, khai thác tiềm năng khí hậu...
Người ta thường sử dụng nhiều phương pháp để dự báo thời tiết. Các công cụ để dự báo thời
tiết gồm có bản đồ Synôp mặt đất, bản đồ Synôp cao không, các loại giản đồ E-MA... Ngoài
ra, nhờ những bức ảnh vệ tinh và các công cụ thông tin hiện đại người ta có thể làm được
những dự báo dài hạn trên phạm vi lớn hơn.
a) Dự báo thời tiết bằng bản đồ Synôp
199
Tại Trung tâm Dự báo khí tượng - thủy văn Quốc gia người ta nhận được những thông
tin quan trắc khí tượng mặt đất từ mạng lưới các trạm khí tượng trên toàn quốc và các thông
tin từ các vệ tinh khí tượng về trạng thái thời tiết vùng. Từ những thông tin đó, người ta tiến
hành xây dựng các bản đồ thời tiết gọi là bản đồ Synốp (xuất phát từ chữ Hy Lạp Synopticos
có nghĩa là nhìn, xem xét đồng thời). Sự xuất hiện của khối không khí và front, sự phát triển
và di chuyển của xoáy thuận và xoáy nghịch là những quá trình Synôp cơ bản tạo nên thời tiết
trên những vùng không gian rộng lớn. Rõ ràng là muốn biết được về những thay đổi thời tiết
trong tương lai gần, cần phải hiểu và diễn đạt được những điều kiện thời tiết và đặc điểm
phát triển của các quá trình vật lý trên một lãnh thổ rộng lớn. Các bản đồ Synốp cho ta hình
ảnh cụ thể về trạng thái thời tiết ở mỗi thời điểm. Bản đồ Synôp hay bản đồ thời tiết là
những bản đồ địa lý trên đó người ta dùng những chữ số và ký hiệu qui ước để ghi các số liệu
quan trắc ở nhiều trạm khí tượng vào những thời điểm xác định, những thời điểm đó gọi là kỳ
quan trắc Synôp. Bản đồ Synôp giúp ta thấy rõ sự sắp xếp và nguồn gốc của các khối không
khí, các front và tình trạng khí quyển thời điểm nào đó.
Muốn dự đoán thời tiết trước hết cần phải thấy trong một thời gian nhất định có
những quá trình vật lý nào xảy ra, hướng và cường độ mạnh hay yếu. Người ta thường so
sánh các bản đồ synốp ở các thời điểm trong ngày (ví dụ các thời điểm cách nhau 6, 12 hay 24
giờ.
Mỗi bản đồ Synôp biểu diễn sự phân bố thời tiết trên các khu vực trong một thời điểm
nhất định. Hai bản đồ kề nhau theo thời gian có thể nêu lên những quá trình vật lý nào đó xảy
ra trong khí quyển trong khoảng thời gian đó. So sánh hai bản đồ thời tiết, có thể xác định
được các khối không khí, các front, các xoáy thuận, xoáy nghịch đã di chuyển theo đường nào,
trong tương lai hướng và tốc độ diễn biến ra sao. Việc phân tích này giúp ta nhận biết được
thay đổi của trường áp suất khí quyển, sự xuất hiện front nóng hay lạnh, vùng có giông và
mưa
200
Hình 11.4. Bản đồ Synốp
(Trên bản đồ trình bày các đường đẳng áp, front, tốc độ và hướng gió...)
Thời gian làm dự báo thời tiết càng ngắn thì xác suất dự báo chính xác sẽ càng cao. Để
dự báo thời tiết dài hạn trong khoảng thời gian một tuần, một tháng và hơn nữa người ta cần
nghiên cứu hoàn thiện phương pháp Synôp. Hiện nay người ta đang phát triển một phương
pháp mới gọi là phương pháp Thuỷ động lực học.
b) Dự báo thời tiết theo triệu chứng địa phương
Dự báo thời tiết trước vài giờ theo triệu chứng xảy ra tại địa phương có tầm quan
trọng đặc biệt đối với nông nghiệp. Những dự báo này xây dựng trên cơ sở những quan trắc
địa phương về trạng thái bầu trời, lượng mây, sự thay đổi của nhiệt độ, khí áp, độ ẩm không
khí, tốc độ và hướng gió, những hiện tượng quang học và các yếu tố khác.
Những triệu chứng địa phương biểu hiện thời tiết tốt:
• Khí áp tăng lên không ngừng, hoặc ít biến thiên trong ngày.
• Ban đêm trời quang mây, nhiều sao.
• Buổi sáng trên bầu trời xuất hiện nhiều mây tích (Cumulus), chân mây bằng phẳng, có
mái dạng vòm, hầu như đứng yên một chỗ.
201
• Ban ngày mây tích tăng lên, nhưng phát triển yếu theo chiều thẳng đứng. Ðỉnh mây có
đường viền không rõ rệt và phát triển mạnh vào khoảng 15- 16 giờ. Buổi chiều đỉnh mây
tích có thể hạ thấp, chân mây toả rộng ra, mây tích biến thành tằng tích rồi tan dần đi.
• Mây ti hầu như không di động và không có móc nhỏ ở đầu; lượng mây không tăng theo
thời gian hoặc phát triển theo một hướng nhất định nào đó.
• Mây ti-tằng hình thành màn rộng che một phần bầu trời với đường viền rõ rệt.
• Quá trình biến thiên hằng ngày của nhiệt dộ biểu hiện rõ. Ban ngày, nhiệt độ không khí
tăng lên một cách vừa phải. Ban đêm nhiệt độ giảm xuống do mặt đất có điều kiện bức
xạ tốt.
• Về mùa nóng buổi chiều tối có nhiều sương mù, ban đêm sương và sương muối hình
thành.
• Buổi sáng, bình minh xuất hiện ánh sáng màu vàng, đôi khi bình minh có thể bắt đầu
bằng mầu đỏ nhạt, nhưng sau đó cũng biến thành màu vàng chứng tỏ tia sáng mặt trời
gặp tương đối ít hơi nước trên đường đi.
• Ở ven biển có gió đất - biển, ở miền núi có gió núi - thung lũng thổi mạnh là triệu chứng
thời tiết tốt.
Những triệu chứng địa phương báo trời sắp mưa:
• Khí áp liên tục giảm xuống.
• Mây ti di chuyển nhanh và có dạng như những dải mảnh, song song. Mây ti di chuyển
càng nhanh thời tiết càng chóng thay đổi. Phía sau mây ti xuất hiện mây trung tằng, đi
liên sau nữa là mây vũ-tằng màu tối.
• Hướng di chuyển của mây ở các tầng trên cao không trùng với hướng gió ở phía dưới.
• Về ban đêm, gió không ngừng thổi và mạnh lên.
• Mùa hè, lượng mây tăng lên, nhiệt độ giảm liên tục.
• Không có sương, sương muối và sương mù vào ban mai. Ban đêm nhiều mây, sự bức xạ
của mặt đất giảm đi.
• Bầu trời lúc bình mình, hoàng hôn có màu đỏ rực mà không chuyển sang màu vàng, hiện
tượng này chứng tỏ khí quyển chứa nhiều hơi nước.
• Do kết quả của các tia sáng chiếu qua mây ti và ti-tằng, xung quanh mặt trời và mặt
trăng hình thành những vòng sáng rộng gọi là tán.
Những triệu chứng địa phương báo sắp xảy ra dông:
• Khí áp giảm xuống nhanh.
• Vào buổi sáng sớm trên bầu trời xuất hiện mây trung-tích, giống như những nắm bông.
• Mây tích xuất hiện, đỉnh mây phát triển nhanh chóng, phần trên mây tích xuất hiện mây ti
toả ra như cái chổi. Nhìn từ phía trên, mây có dạng như cái đe, đỉnh toả ra theo hướng di
chuyển của gió. Sau đó xuất hiện mây dông, đôi khi có mưa đá kèm theo.
• Nhiệt độ và độ ẩm không khí cao, thời tiết ngột ngạt.
202
• Sau khi dông xảy ra thời tiết thường trở nên mát mẻ. Nếu thời tiết về chiều vẫn còn
mây trung-tích và mây tằng-tích màu hồng lúc mặt trời lặn, nhiệt độ không giảm xuống
thì ban đêm sẽ tiếp tục có dông.
• Khi dông gần tới, gió thường thổi ngược hướng di chuyển của mây dông rồi sau đó đổi
hướng.
2. DỰ BÁO KHÍ TƯỢNG NÔNG NGHIỆP
2.1. Khái niệm và ý nghĩa của dự báo khí tượng nông nghiệp
a) Khái niệm
Dự báo khí tượng nông nghiệp là phương pháp đánh giá khả năng của sản xuất nông
nghiệp sẽ xảy ra dựa trên các thông tin về dự báo thời tiết cho mỗi khu vực. Ðiều kiện thời
tiết luôn luôn biến động so với giá trị trung bình nhiều năm hoặc giữa năm này và năm khác.
Sự biến động đó kéo theo sự biến động của sản xuất nông nghiệp. Ðối với cây trồng, thời
gian và cường độ xuất hiện của các yếu tố thời tiết làm thay đổi nhịp điệu sinh trưởng, phát
triển, sâu bệnh và năng suất của chúng. Thời tiết dao động còn làm cho chế độ ẩm của đất
dao động theo gây ra hạn hán hoặc lũ lụt.
b) Ý nghĩa dự báo khí tượng nông nghiệp
Dự báo khí tượng nông nghiệp là một môn khoa học trẻ nhưng đã có ý nghĩa rất lớn
phục vụ sản xuất nông nghiệp. Ðộ chính xác của dự báo khí tượng nông nghiệp càng cao thì
hiệu quả phục vụ càng lớn. Dự báo khí tượng nông nghiệp (KTNN) có phương pháp riêng.
Về cơ bản, các phương pháp của dự báo KTNN là phân tích mối tương quan giữa điều kiện
thời tiết và tình hình sinh trưởng phát triển, năng suất của cây trồng, vật nuôi, chế độ thuỷ
văn, đặc điểm vật lý đất, sâu bệnh để xây dựng các mô hình thực nghiệm. Khi làm dự báo,
người ta dựa vào các mô hình thực nghiệm để nội suy các trị số cần thiết cho tương lai.
Ý nghĩa chính của dự báo KTNN như sau:
1. Ðịnh lượng hoá được ảnh hưởng của các yếu tố thời tiết xảy ra trong tương lai đối với
các hoạt động và đối tượng sản xuất nông nghiệp. Xác định mức độ ảnh hưởng của
từng yếu tố hoặc của nhóm các yếu tố xảy ra đồng thời gây hậu qủa khác nhau đối với
sản xuất nông nghiệp.
2. Xác định được thời gian gây ra ảnh hưởng của các yếu tố thời tiết đối với sản xuất
nông nghiệp tương ứng với các giai đoạn sinh trưởng, phát triển của cây trồng. Đánh giá
được giai đoạn mà cây trồng chịu ảnh hưởng lớn nhất.
3. Dự báo trước được năng suất của cây trồng, tìm hiểu được nguyên nhân gây nên diễn
biến năng suất của chúng, đề ra những giải pháp ứng phó sớm và kịp thời.
Ở nhiều nước trên thế giới, môn khoa học dự báo khí tượng nông nghiệp khá phát triển
đem lại hiệu quả phục vụ rất cao. Ở Liên Xô trước đây, đã có rất nhiều thành công trong việc
dự báo năng suất lúa mì mùa đông, ngô, củ cải đường, bông. Những kết quả dự báo về băng
giá, tuyết, độ ẩm đất đã giúp Liên Xô đảm bảo ổn định năng suất các loại cây trồng kể trên.
Theo tài liệu của FAO (1991) nhờ việc dự báo độ ẩm đất và mưa chính xác mà các nước
Bắc Phi (khu vực sa mạc Sahara) đã xác định được cơ cấu cây lương thực (kê, ngô, cao lương)
203
phù hợp với diễn biến độ ẩm đất hàng năm, giúp cho các nước này tự túc được 40-50% nhu
cầu lương thực.
Ở Mỹ, thành công lớn nhất là dự báo năng suất cây trồng dựa vào dự báo thời tiết dài
hạn. Dự báo năng suất bông, ngô và củ cải đường đạt độ chính xác trên 90% các trường hợp.
Nhờ việc dự báo năng suất có độ chính xác cao mà sản lượng các loại cây trồng trên có sự ổn
định lớn, khắc phục kịp thời những bất thuận của thời tiết, hoạch định sớm được giải pháp
ứng phó trong quá trình sản xuất.
Các nước khu vực Ðông Nam Châu Á dưới sự hỗ trợ của FAO do các chuyên gia Frère,
Popov và Oldeman chỉ đạo, đã tiến hành nghiên cứu có hiệu quả về dự báo lượng mưa, độ ẩm
đất dựa trên các kết quả thống kê và hình thế Synôp, đã đem lại hiệu quả ứng dụng cao, xác
định được mùa vụ cây trồng hợp lý, tránh được ảnh hưởng xấu của thời tiết.
Ở Việt Nam, công tác dự báo KTNN tuy mới được phát triển những cũng đã đạt được
nhiều thành tựu ban đầu rất có ý nghĩa như dự báo tác hại của sương muối và nhiệt độ thấp
đối với một số cây trồng (lúa, ngô, chè, bông, đậu tương, cây cam quýt...), dự báo ảnh hưởng
của mưa bão đối với sản xuất, dự báo năng suất cây trồng, cơ cấu mùa vụ của chúng.
2.2. Cơ sở lý luận của dự báo khí tượng nông nghiệp
Dự báo khí tượng nông nghiệp là một môn khoa học đòi hỏi độ chính xác cao của các
môn khoa học cơ sở như dự báo thời tiết và quan trắc vật hậu nông nghiệp. Phương pháp toán
học thống kê sẽ giúp việc xác lập mối tương quan giữa các đặc trưng của thời tiết và sự phản
ứng của cây trồng thông qua các quan trắc vật hậu. Ðể có được những dự báo KTNN chính
xác, công việc dự báo cần dựa trên những cơ sở lý luận sau:
1) Ðiều kiện thời tiết luôn luôn biến động về cường độ, thời gian và tần số xuất hiện. Sự
biến động đó dẫn tới sự biến động rất lớn về tình hình sinh trưởng, nhịp điệu phát triển, năng
suất của cây trồng, vật nuôi và tình trạng sâu bệnh. Vì vậy, cần có đủ chuỗi thời gian và số
trường hợp khảo sát để xác lập mối quan hệ giữa chúng, đưa ra một bài toán dự báo phù hợp.
2) Các yếu tố môi trường của sinh vật như khí hậu, đất đai, nước, trình độ kỹ thuật... cùng
một lúc tác động vào các đối tượng sản xuất, khó có thể phân lập được mức độ ảnh hưởng
của từng yếu tố đó. Khi các yếu tố của môi trường tác động, giữa chúng sẽ có sự tương hỗ
làm cho vai trò của mỗi yếu tố bị thay đổi, khác với trường hợp tác động riêng rẽ, vì vậy hệ
quả cũng bị thay đổi theo. Cần phải xác định được vai trò của từng yếu tố trong quá trình tác
động tổng hợp nhưng không làm tách rời tác động của mỗi yếu tố trong mối tương quan ảnh
hưởng chung.
3) Sự tác động tổng hợp của nhiều yếu tố môi trường, nhận thấy có những yếu tố giữ vai trò
ưu thế hơn, những yếu tố đó được gọi là “yếu tố trội”. Những “yếu tố trội” thường là nhiệt
độ, ánh sáng, nước..., những yếu tố không thể thiếu trong đời sống sinh vật. Tuy nhiên, có
những yếu tố môi trường biến động lớn như áp suất khí quyển, độ ẩm, gió... cũng có thể trở
thành “yếu tố trội”. Ví dụ: ở vùng núi phía Bắc Việt Nam, yếu tố trội được kể đến là nhiệt
độ thấp và hạn hán, ở ÐakLak “yếu tố trội” trong mùa khô là độ ẩm đất, trong mùa mưa là
ánh sáng.
Xác định được yếu tố trội trong các bài toán dự báo KTNN sẽ làm cho mô hình dự báo gọn
nhẹ, có độ chính xác cao, dễ thực hiện.
204
2.3. Nội dung dự báo khí tượng nông nghiệp
Các loại dự báo khí tượng nông nghiệp thường được tiến hành như sau:
1) Dự báo thời kỳ vật hậu của cây trồng, đặc biệt chú trọng thời kỳ gieo hạt, thời kỳ ra hoa
và điều kiện lúc thu hoạch.
2) Dự báo năng suất cây trồng, phát hiện các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất cây trồng và
giải pháp ứng phó.
3) Dự báo các điều kiện thời tiết có thể xảy ra và ảnh hưởng của nó đối với sự sinh trưởng,
phát triển và năng suất cây trồng, vật nuôi như: sương muối, bão, gió mạnh, độ ẩm đất...
4) Dự báo tình trạng sâu bệnh hại.
5) Dự báo tổng hợp các giải pháp về thời vụ, cơ cấu giống và biện pháp kỹ thuật trên cơ sở
những dự báo trên.
2.4. Những điều cần chú ý khi sử dụng các mô hình dự báo
Các mô hình dự báo là những mô hình thực nghiệm được tiến hành trong những điều
kiện và trên những đối tượng cụ thể. Vì vậy, các mô hình đó chỉ có giá trị sử dụng trong
những điều kiện tương tự. Các điều kiện cụ thể đó là:
- Các giống cây trồng có thời gian sinh trưởng, tiềm năng năng suất như nhau.
- Chế độ kỹ thuật canh tác, mức độ đầu tư thâm canh cho cây trồng được áp dụng tương tự
ở các vùng dự báo.
- Các điều kiện về điều kiện địa lý, môi trường đất, nước, khí hậu không khác nhau quá xa.
Vì vậy, các mô hình dự báo phải được thường xuyên cập nhật, phục vụ cho từng vùng và
từng nhóm cây trồng có đặc điểm sinh học và năng suất tương tự nhau.
2.5. Một số phương pháp dự báo khí tượng nông nghiệp
a) Dự báo thời kỳ vật hậu của cây trồng
Yêu cầu:
Dự báo chính xác các thời kỳ vật hậu của cây trồng xảy ra trong các điều kiện thời tiết
khác nhau đem lại hiệu quả kinh tế rất lớn. Trước hết, kết quả của dự báo các thời kỳ vật
hậu của cây trồng cho biết các thời kỳ đó sẽ xảy ra trong hoàn cảnh thời tiết như thế nào để
có các giải pháp hợp lý nhằm khắc phục những bất thuận xảy ra. Mặt khác, nhờ dự báo trước
được những bất thuận xảy ra ở mỗi thời kỳ vật hậu của cây trồng mà có thể xác định trước
được thời vụ gieo cấy, cơ cấu giống và chủng loại cây trồng hợp lý, tránh được những ảnh
hưởng xấu sẽ gặp phải.
Phương pháp:
Phương pháp cơ bản của dự báo thời kỳ vật hậu của cây trồng được tiến hành dựa
trên nguyên lý: nhịp điệu phát dục của cây trồng phụ thuộc vào nhiệt độ và quang chu kỳ. Ở
những cây trồng không có phản ứng quang chu kỳ thì nhịp điệu phát dục của chúng phụ thuộc
chủ yếu vào nhiệt độ. Công thức diễn tả mối quan hệ đó do các nhà khoa học Sưgôlev,
205
Lêbedev (Nga) đề nghị, có dạng như sau:
ETS
n = -------- (1)
t-B
Trong đó: n - Số ngày hoàn thành một giai đoạn phát dục (ví dụ: từ cấy - trỗ bông);
ETS - Tổng số nhiệt độ hữu hiệu của giai đoạn đó (0C)
t - Nhiệt độ trung bình của giai đoạn (0C)
B - Nhiệt độ sinh vật học tối thấp (hoặc tối cao) (0C).
Nhiệt độ sinh vật học tối thấp (B) và tổng nhiệt độ hữu hiệu (ETS) tuỳ thuộc vào từng
loại cây trồng có nguồn gốc khác nhau và giai đoạn sinh trưởng, phát dục của chúng. Trong
các thời kỳ sinh trưởng, phát dục của cây trồng thì thời kỳ cây còn nhỏ (có 3 lá thật) và thời kỳ
cây ra hoa thường có độ nhậy cảm cao nhất với nhiệt độ. Sau khi đã xác định được số ngày
của một giai đoạn phát dục, ta lập dự báo thời gian cây trồng kết thúc giai đoạn phát dục đó
và chuyển sang một giai đoạn mới. Công thức tính như sau:
ETS
D2 = D1 + ------ (2)
t-B
Trong đó: D2 - ngày xuất hiện thời kỳ phát dục mới.
D1 - ngày xuất hiện thời kỳ phát dục trước.
b) Dự báo thời kỳ vật hậu cho lúa
Để hiểu được phương pháp dự báo thời kỳ vật hậu cho lúa ta xét ví dụ sau đây:
Dự báo thời kỳ trổ bông của lúa mùa, ta cần có những thông số sau:
Ngày đứng cái: D1 là ngày 5/VIII;
Tổng số nhiệt độ hữu hiệu từ đứng cái đến trổ bông ETS = 89,00C;
Nhiệt độ trung bình của giai đoạn từ đứng cái đến trổ bông t = 260C;
Nhiệt độ tối thấp sinh vật học đối với thời kỳ lúa trổ bông B = 220C;
Thay các giá trị trên vào biểu thức (2) ta được kết quả như sau:
89
D2 = ngày 5/VIII + ----------- = 5/VIII + 22 ngày = 28/VIII
26 - 22
Như vậy ngày lúa trổ bông theo dự báo là ngày 28 tháng VIII. Theo số liệu thống
kê nhiều năm từ cuối tháng VIII đến 15/IX xác suất lúa trỗ an toàn cao nhất, vì vậy ta chọn
ngày cho lúa trỗ là 28/VIII như kết quả dự báo..
Trong quá trình dự báo thời kỳ phát dục của cây trồng, chế độ nhiệt có ảnh hưởng rất
lớn đến độ chính xác của dự báo. Ðể đánh giá ảnh hưởng này, người ta đưa ra một biểu thức
tính độ lệch của ngày dự báo so với ngày xuất hiện thực tế của thời kỳ vật hậu.
Biểu thức có dạng:
10.(ttt - tdb)
a = -------------- (3)
ttt - B
Trong đó: a- độ lệch ngày dự báo và thực tế (ngày);
ttt- và tdb nhiệt độ thực tế và nhiệt độ theo dự báo thời tiết (0C);
206
B- nhiệt độ sinh vật học tối thấp (0C).
Các kết quả tính thử theo biểu thức này cho thấy khi nhiệt độ thấp, độ sai lệch a xảy ra lớn
hơn so với nhiệt độ cao.
Ví dụ: Trường hợp nhiệt độ cao: ttt= 230C; tdb = 220C; B= 160C.
Ta có: a = 10.(23 - 22)/(23 - 16) = 1,5 ngày
Trường hợp nhiệt độ thấp: ttt = 17,50C; tdb = 170C; B= 160C.
Ta có: a = 10. (17,5 - 17)/(17,5 -16) = 3 ngày
Dấu của a dương hoặc âm chỉ rõ ngày xuất hiện thời kỳ phát dục của cây trồng theo dự báo
xảy ra trước hay sau thực tế.
Kết quả trên cho thấy, khi nhiệt độ thấp (17,50C) thì số ngày dự báo sai lệch lớn (3 ngày) so
với ở điều kiện nhiệt độ cao (1,5 ngày). Vì vậy kết quả dự báo vụ mùa sẽ ít sai hơn trong vụ
xuân.
Trên thực tế, ngày xuất hiện các thời kỳ phát dục của lúa quan hệ rất phức tạp vào các điều
kiện của môi trường như chế độ nước, chế độ ánh sáng và chế độ nhiệt. Ngoài ra các thời kỳ
vật hậu của cây trồng còn phụ thuộc cả vào trình độ kỹ thuật thâm canh. Vì vậy việc sử dụng
biểu thức của Lêbêdev và Sưgolev (1) trong mọi trường hợp sẽ kém chính xác. Cần phải xây
dựng các phương trình thực nghiệm dựa vào các khảo sát riêng cho từng đối tượng giống lúa
ở các vùng khác nhau.
Sau đây là một số mô hình dự báo cho cây lúa, nhóm giống có thời gian sinh trưởng
trung bình từ 110-120 ngày trong vụ mùa, có thể làm tài liệu tham khảo cho việc thiết lập một
mô hình dự báo ở những vùng không chủ động nước tưới, lượng mưa chi phối rất lớn đối với
cây lúa.
Thời kỳ trổ bông:
Nd = 2,74t + 0,01 R + 0,1SS - 53,17 (4)
Su= + 2,9 ngày
Thời kỳ chín:
Nd = 0,45t - 0,02R + 0,03SS + 39,34 (5)
Su = 1,5 ngày
Ðối với giống có thời gian sinh trưởng dài trên 120 ngày trong vụ mùa thì công thức dự báo có
dạng sau:
Thời kỳ trổ bông:
Nd = 0,94t + 0,01 R + 0,1SS + 23,2 (6)
Su= 2,1 ngày
Thời kỳ chín:
Nd = 0,25t - 0,01R - 0,02SS + 20,8 (7)
Su= 1,4 ngày
Trong đó: Nd - số ngày từ đứng cái đến trỗ bông hoặc từ trỗ bông đến chín;
t - nhiệt độ theo dự báo thời tiết;
R - tổng lượng mưa (mm) của giai đoạn làm dự báo;
SS - tổng số giờ nắng của giai đoạn làm dự báo.
c) Dự báo thời kỳ vật hậu cho ngô
Ngô là cây lương thực quan trọng thứ 2 sau lúa. Ngô cũng là cây trồng cạn rất mẫn
cảm với nhiệt độ, đặc biệt là chế độ ẩm của đất. Tuỳ theo từng giai đoạn sinh trưởng, phát
207
dục của ngô mà các yếu tố đưa vào dự báo có sự thay đổi.
Theo các kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả, đời sống của cây ngô có thể chia ra
làm 15 - 17 giai đoạn khác nhau. Tuy nhiên để tiện cho việc lập dự báo và tính ứng dụng thực
tiễn cao, người ta chia quá trình sinh trưởng của cây ngô thành 3 giai đoạn chính như sau:
- Giai đoạn gieo - 3 lá
- Giai đoạn 3 lá - trổ cờ, phun râu
- Giai đoạn phun râu - chín.
Các phương pháp dự báo thời kỳ phát dục của cây ngô đã được nhiều nhà khoa học nghiên
cứu như M. Triêckov (1973), Smith (1980), M. Frère (1980). Ở Việt Nam, các phương pháp dự
báo thời kỳ phát dục cho ngô đã được áp dụng thử ở Trung tâm Khí tượng nông nghiệp (Viện
Khí tượng - Thuỷ văn), Viện nghiên cứu ngô Việt Nam.
Sau đây là phương pháp dự báo 3 thời kỳ phát dục của ngô.
Giai đoạn từ gieo đến 3 lá:
Tình hình sinh trưởng của ngô giai đoạn này quyết định mật độ cây trên đơn vị diện
tích. Tốc độ phát dục của chúng phụ thuộc vào độ ẩm đất, độ sâu gieo hạt và chế độ nhiệt.
Trong trường hợp rét đậm, nhiệt độ cao hay khô hạn... đều dẫn tới thối hạt, chết cây. Cây ngô
3 lá là thời kỳ rất mẫn cảm với yếu tố môi trường vì chúng chuyển từ giai đoạn sinh trưởng
dị dưỡng sang giai đoạn tự dưỡng, rễ non hút dinh dưỡng từ bên ngoài. Ðộ sâu gieo hạt được
xác định tuỳ thuộc vào điều kiện của đất. Nếu nhiệt độ thích hợp, đất đủ ẩm (độ ẩm 70-80%)
thì độ sâu gieo hạt khoảng 4cm, nếu đất khô và nhiệt độ thấp thì gieo sâu hơn, tới 6-7cm.
Ngược lại, khi độ ẩm và nhiệt độ cao phải gieo nông hơn, khoảng 3cm.
Mô hình có dạng sau:
83 + 7(h - 4)
D2 = D1 + ------------------ (8)
Kw (t - B)
Trong đó: D2 - ngày ngô đạt 3 lá
D1 - ngày gieo ngô:
83- tổng số nhiệt độ hữu hiệu từ gieo đến 3 lá (0C);
h - độ sâu gieo hạt thực tế (cm);
4 - độ sâu gieo hạt tiêu chuẩn (cm);
7 - trị số bổ sung tổng nhiệt độ hữu hiệu khi gieo khác độ sâu tiêu chuẩn (0C)
kw - hệ số phụ thuộc của tốc độ ra lá ngô vào độ ẩm đất.
Khi độ ẩm đất thích hợp kw= 1,0; khi độ ẩm đất thấp thì Kw = 0,8; 0,7 hoặc thấp hơn.
t - nhiệt độ không khí theo dự báo (0C);
B - nhiệt độ sinh vật học tối thấp (0C).
Ví dụ: ngày gieo ngô vụ đông là D1 = 15/IX, h = 5cm; kw = 0,8; t = 200C; B = 100C.
Ta có:
D2 = 15/IX + [83 + 7 (5 - 1)]/0,8 ( 20 - 10) = 15/IX + 11 ngày = 26/IX
Vậy ngô đạt 3 lá vào ngày 26 tháng IX.
Giai đoạn từ 3 lá đến trổ cờ, phun râu:
Trong giai đoạn này, ngô vẫn phụ thuộc chủ yếu vào độ ẩm đất, nhiệt độ và vào đặc
tính sinh học của giống. Ðặc tính sinh học đặc trưng nhất đối với ngô dùng cho việc lập dự
báo là tổng số lá và tốc độ xuất hiện các lá ngô.
208
Có 3 nhóm ngô với thời gian sinh trưởng khác nhau có số lá khác nhau:
Nhóm ngô ngắn ngày có 12-14 lá
Nhóm ngô chín trung bình có 14-16 lá
Nhóm ngô dài ngày có trên 16 lá.
Khi ngô xuất hiện lá cuối cùng, chính là lúc ngô sắp trổ cờ, phun râu. Trên thực tế các lá ngô
xuất hiện với tốc độ khác nhau, những lá đầu mọc nhanh, sau đó mọc châm hơn. Ðể dễ tính
toán, người ta đưa ra giá trị nhiệt độ trung bình và số ngày xuất hiện 1 lá, từ đó tính tổng nhiệt
độ hữu hiệu xuất hiện 1 lá là 300C.
Công thức có dạng:
30 (N -2)
D3 = D2 + ----------------- (9)
Kw (t -B)
Trong đó: D3 - ngày trổ cờ phun râu;
30- tổng số nhiệt độ hữu hiệu xuất hiện 1 lá (0C);
N- tổng số lá;
2 - 2 lá đầu;
kw- hệ số độ ẩm đất.
T, B đã biết ở công thức (8).
Ví dụ: ta có các thông số sau:
Lúc ngô 3 lá D2 = ngày 26/IX; D3: ngày trỗ cờ; Số lá N= 14 lá; kw = 0,80; t = 19oC; B= 10oC.
Kết quả tính toán:
D3 = 26/IX + 30 (14 - 2)/ 0,8 (19 - 10) = 26/IX + 51 ngày = ngày 20/XI
Vậy ngày 20 tháng XI ngô trổ cờ.
Giai đoạn trỗ cờ - chín:
Trong giai đoạn này, yếu tố phụ thuộc chủ yếu để ngô làm hạt và chín là nhiệt độ và độ ẩm
đất. Ðộ ẩm đất thấp ngô làm hạt kém, chín chậm, năng suất giảm.
Mô hình dự báo như sau:
ETS
D4 = D3 + ------------- (10)
Kw (t - B)
Trong đó : D4 - ngày ngô chín; các thông số khác đã biết ở trên.
Ví dụ: D3 đã dự báo là 20 tháng XI
ETS = 1350C; kw = 0,70; t = 170C; B = 100C
Ta có:
D4 = 20/XI + 135/0,70 (17 - 10) = 20/XI + 30 ngày = 20/XII
Ngô chín vào ngày 20 tháng XII.
d) Sử dụng kết quả dự báo vật hậu vào sản xuất
Mục đích của dự báo vật hậu cây trồng nhằm biết được cây trồng trải qua các giai
đoạn sinh trưởng, phát dục vào thời kỳ nào trong một năm. Trong thời kỳ đó điều kiện thời
tiết thuận lợi hay khó khăn đối với yêu cầu của các loại cây trồng. Từ đó đề ra các giải pháp
khắc phục thích hợp.
1) Chuyển dịch thời vụ sớm hoặc muộn hơn thời vụ dự định nhằm tránh được những điều
kiện thời tiết bất thuận. Trong các giai đoạn phát dục của cây trồng người ta chú trọng nhất
209
giai đoạn ra hoa, làm hạt. Giai đoạn này được gọi là giai đoạn khủng hoảng của cây trồng.
Căn cứ vào giai đoạn này, dựa vào thời gian sinh trưởng của mỗi loại giống mà lựa chon thời
vụ gieo cấy cho phù hợp. Ví dụ: Trong vụ đông nếu thấy ngô trỗ cờ vào ngày 20 tháng XI sẽ
gặp giá rét hoặc hạn hán, trước đó hoặc sau đó thời tiết ấm hơn hoặc có mưa nhỏ. Vậy có
thể đẩy sớm thời vụ gieo trước ngày 15 tháng IX, ngô sẽ trổ cờ trước 20 tháng XI sẽ tránh
được thời tiết xấu xẩy ra.
2) Thay đổi cơ cấu giống cho phù hợp. Trong trường hợp thời tiết xấu như trên, nhưng do
ảnh hưởng của cây trồng trước như lúa mùa gặt muộn, không kịp làm đất trồng ngô đông thì
phải dùng biện pháp thay giống ngô ngắn ngày bằng giống ngô trung bình. Như vậy, chắc
chắn ngô sẽ trổ cờ trước ngày 20 tháng XI.
3) Trong trường hợp cả 2 giải pháp trên không khắc phục được thì dùng một biện pháp bị
động nhưng tích cực, đó là việc tưới một lượng nước đủ cho ngô, sẽ hạn chế được đáng kể
mức thiệt hại về năng suất. Biện pháp này xuất phát từ cơ sở khoa học là, thời kỳ trỗ cờ,
phun râu ngô rất cần nước. Mặt khác, khi đất đủ ẩm thì khả năng giữ nhiệt của đất tốt hơn
đất khô, điều kiện độ ẩm đất trong ruộng ngô sẽ làm tăng nhiệt độ, độ ẩm không khí, có lợi
cho ngô trổ cờ, phun râu.
4) Mật độ ngô cũng là biện pháp khắc phục tích cực, hạn chế được sự giảm nhiệt độ và hạn
hán. Mật độ cây cao là giải pháp tốt cho trường hợp này.
e) Dự báo năng suất cây trồng
Năng suất cây trồng là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố môi trường tác động vào các
thời kỳ sinh trưởng, phát triển của chúng. Mặt khác, năng suất cây trồng cao hay thấp còn phụ
thuộc vào tiềm năng năng suất của chúng. Trong thực tế, nhiều vùng có năng suất cây trồng
rất cao do sử dụng các giống có tiềm năng năng suất cao. Những giống này nếu được gieo
trồng ở những vùng có tiềm năng khí hậu cao sẽ phát huy được vai trò của chúng.
Việc nghiên cứu các phương pháp dự báo năng suất cây trồng nhằm mục đích:
- Biết trước được năng suất cây trồng để có kế hoạch sản xuất, lưu thông, dự trữ sản
phẩm.
- Biết rõ năng suất cây trồng cao hay thấp do yếu tố gì tác động. (nhiệt độ thấp, mưa lớn
hoặc hạn hán khi trỗ), từ đó áp dụng những biện pháp khắc phục có hiệu quả như dịch
chuyển thời vụ, thay đổi cơ cấu giống... để đảm bảo năng suất cao và ổn định. Các phương
pháp dự báo năng suất cây trồng gồm có:
1. Dựa vào mô hình thống kê:
Phương pháp cơ bản của dự báo năng suất cây trồng là dựa vào mối tương quan giữa
năng suất với điều kiện môi trường. Tương quan này có được là nhờ phép phân tích thống kê
thực nghiệm nhiều năm giữa dãy số liệu khí tượng với dãy số liệu vật hậu thực nghiệm
tương ứng.
Các mô hình này là căn cứ để đưa ra một dự báo định lượng về năng suất cho một giống cây
trồng cụ thể khi biết các thông tin khí tượng và cây trồng trong thời gian tới.
Ví dụ: Để xây dựng phương pháp dự báo năng suất lúa mùa ở Nghệ An người ta nhận thấy,
vùng đồng bằng ven biển Nghệ An có địa hình dốc do sự ảnh hưởng của dãy Trường Sơn
Bắc. Là vùng vĩ độ thấp nên nhìn chung năng lượng bức xạ và nhiệt độ khá cao, đảm bảo cho
210
lúa sinh trưởng, phát triển tốt. Yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến năng suất lúa mùa Nghệ An là
chế độ mưa. Bị chi phối bởi hiệu ứng fohn trong mùa hè nên mùa mưa ở vùng này dịch sang
mùa thu và đầu mùa đông. Mưa lớn vào tháng X, mưa càng lớn thì khả năng mất mùa càng
nhiều. Các vụ lúa thu hoạch vào tháng X gặp mưa lớn đều bị ngập lụt. Ngược lại, nếu lượng
mưa cao vào thời kỳ lúa đẻ nhánh, giảm tác hại của hiệu ứng fohn tác động thì năng suất cao.
Dựa vào đặc điểm đó, Trung tâm Khí tượng nông nghiệp đã xây dựng mô hình thống kê dự
báo năng suất lúa mùa Nghệ An như sau:
U(tạ/ha) = 0,00242x - 0,00138y - 0,00305z + 0,4772 (11)
Hệ số tương quan chung: Rux.y.z = 0,68
Trong đó: x, y, z là lượng mưa tháng VIII, IX, X.
Lượng mưa tháng IX ở Nghệ An thường là 460mm và tháng X = 381mm.
Hệ số tương quan từng phần: ru.x = 0,34; ru.y = - 0,08; ru.x = - 0,85
Mô hình trên cho thấy, lượng mưa tháng IX và X làm giảm năng suất lúa. Ðặc biệt lượng mưa
tháng X xảy ra vào thời kỳ thu hoạch có thể làm cho lúa bị thất thu.
Căn cứ vào các thông tin về dự báo lượng mưa tháng IX và X của một năm cụ thể, đưa vào
mô hình (11) ta có thể lập được dự báo năng suất lúa mùa Nghệ An cho năm đó.
Ðể lập được dự báo năng suất lúa mùa ở Nghệ An cần có các tư liệu sau:
- Các thông tin dự báo lượng mưa của các tháng VIII, IX, X. Nếu thông tin này được cung
cấp chính xác và có được ngay từ đầu vụ thì dự báo năng suất sẽ chính xác và kịp thời. Tuy
nhiên, trong các dự báo thời tiết dài hạn thì lượng mưa là loại dự báo khó và kém chính xác
nhất vì mưa xảy ra mang tính chất địa phương.
- Các quan sát về vật hậu cây lúa: các giống lúa thay đổi hàng năm, năng suất của chúng
cũng khác nhau. Một mô hình thống kê thực nghiệm chỉ có ý nghĩa đối với một giống cây
trồng cụ thể. Khi cơ cấu giống thay đổi thì mô hình sẽ thay đổi theo, đó là một khó khăn của
dự báo thống kê. Tuy vậy, đây là phương pháp có khả năng tiến hành trong điều kiện thực
tiễn của Việt Nam.
2. Phương pháp vật hậu:
Dựa vào các khảo sát vật hậu về tình hình sinh trưởng, phát triển của cây trồng ở các
giai đoạn trước để dự báo năng suất. Phương pháp này được F.A.O tiến hành cho khu vực
Bắc Phi đạt kết quả tốt đối với cây kê và cây cao lương. Giáo sư A. Triêcov (Nga - 1975) đã
thiết lập mô hình dự báo năng suất ngô dựa vào diện tích lá của chúng. Mô hình có dạng sau:
(a.w2 + b.w - c.k.t2)
Ys = --------------------------- (12)
k.t1.w1
Trong đó:
Ys - năng suất ngô (tạ/ha);
w - độ ẩm đất ở tầng 0 - 50 cm (mm).
w1- độ ẩm đất mặt trong thời kỳ phân hoá gié (mm).
k - hệ số sử dụng nhiệt độ của ngô;
t1 - nhiệt độ giai đoạn phân hóa từ bước 4 đến bước 6 (0C);
t2 - nhiệt độ sau trỗ cờ (0C);
Các hệ số a, b, c tương ứng với diện tích lá S (m2/ha) là:
211
S (m2/ha) a b c
30.000 -0,0071 1,41 3,2
20.000 -0,0060 1,10 -4,2
10.000 -0,0029 0,53 -1,5
Công việc đo diện tích lá ngày nay được thực hiện một cách dễ dàng nhờ một thiết bị chuyên
dùng. Những thông số về nhiệt độ t1 và độ ẩm đất w1 có thể thu được vào cuối giai đoạn phân
hóa bước 6 của ngô. Nếu có được t2 và w thì có thể dự tính được năng suất ngô trước lúc thu
hoạch từ 45 đến 60 ngày.
Các giá trị: S, w, t2 là những thông số cho chúng ta biết nguyên nhân ngô đạt năng suất cao hay
thấp. Khi độ ẩm đất (w) thấp gây ra hạn hán và nhiệt độ (t2) thấp, làm cho ngô thụ phấn kém
là nguyên nhân làm năng suất ngô giảm. Ðó là những khó khăn trong sản xuất ngô vụ đông ở
các vùng núi phía bắc Việt Nam.
3. Phương pháp GIS:
Phương pháp này ứng dụng cho việc dự báo năng suất cây trồng trên một vùng rộng
lớn. Nguyên tắc cơ bản của phương pháp là dựa vào chế độ khí hậu - thuỷ văn của mặt đất
(hạn hán, lụt lội, lượng mưa, mức nước sông... ) và tình trạng sinh trưởng vào giai đoạn vật
hậu cụ thể của thảm cây trồng để dự báo năng suất. Phương pháp này đã được áp dụng ở
nhiều nước. Ở Việt Nam, tuy không phải là biện pháp có thể áp dụng thường xuyên và cho
mọi vùng nhưng đã được ứng dụng và thu được một số kết quả có ý nghĩa. Phương pháp này
cũng đã được ứng dụng để dự báo về trữ lượng rừng, sâu bệnh, mực nước sông, các dòng hải
lưu... Những thông tin cần thu thập gồm thông tin mặt đất (các trạm khí tượng, thủy văn cung
cấp), các bức ảnh vệ tinh về khí quyển và thảm cây trồng (nhận từ các vệ tinh khí tượng, vệ
tinh địa tĩnh).
3. CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Hãy nêu khái niệm về thời tiết ? Trên bề mặt trái đất có mấy loại khí đoàn ? đặc điểm mỗi
loại khí đoàn đó ?
2. Front là gì ? Phân biệt các loại front nóng, front lạnh, front tĩnh ? Trên các vùng địa lý còn có
những loại front nào ? đặc điểm của nó ?
3. Phân loại xoáy thuận và xoáy nghịch ? Đặc điểm thời tiết trong các loại xoáy thuận và xoáy
nghịch ?
4. Trình bày nội dung của phương pháp dự báo thời tiết bằng bản đồ Synốp ? Ưu, nhược
điểm của phương pháp này ?
5. Trình bày nội dung của phương pháp dự báo thời tiết bằng triệu chứng ở địa phương ? Ưu,
nhược điểm của phương pháp này ?
6. Khái niệm về dự báo khí tượng nông nghiệp ? Ý nghĩa của công tác dự báo khí tượng nông
nghiệp ?
7. Cơ sở lý luận của các phương pháp dự báo khí tượng nông nghiệp ? Nội dung của dự báo
khí tượng nông nghiệp ?
8. Hãy trình bày phương pháp dự báo thời kỳ vật hậu của cây trồng ? Nêu một ví dụ dự báo
thời kỳ vật hậu của cây trồng ?
9. . Hãy trình bày các phương pháp dự báo năng suất của cây trồng ? Nêu một ví dụ dự báo
212
năng suất cây trồng ?
213