logo

Chương 1: Tổng quan về Vật liệu kĩ thuật


Chương 1 TỔNG QUAN 1.1 KHÁI NIỆM VỀ VẬT LIỆU. 1.1.1 Khái niệm chung Vật liệu theo cách hiểu phổ biến nhất là những vật rắn mà con người dùng để chế tạo ra các máy móc, thiết bị, dụng cụ, v.v trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, trong xây dựng các công trình, nhà cửa hay thay thế các bộ phận cơ thể con người hoặc để thể hiện các ý đồ nghệ thuật, v.v. Còn vật liệu học là một khoa học ứng dụng về quan hệ giữa thành phần, cấu tạo và tính chất của vật liệu, nhằm giải quyết những vấn đề kỹ thuật quan trọng nhất, liên quan đến việc tiết kiệm vật liệu, giảm khối lượng thiết bị máy móc và dụng cụ, nâng cao độ chính xác, độ tin cậy và khả năng làm việc của các chi tiết máy và dụng cụ. Cơ sở lý thuyết của vật liệu học là các phần tương ứng của vật lý và hóa học nhưng về cơ bản thì khoa học về vật liệu được phát triển bằng con đường thực nghiệm. Việc đưa ra những phương pháp thực nghiệm mới để nghiên cứu cấu tạo (cấu trúc) và các tính chất cơ, lý của vật liệu sẽ tạo điều kiện để môn vật liệu học tiếp tục phát triển. Phương pháp hiển vi điện tử các mẫu kim loại mỏng và nhiễu xạ nơtrôn cho phép nghiên cứu các phần tử cấu trúc tinh thể, các khuyết tật mạng và các qui luật biến đổi cấu trúc do tác động của các yếu tố bên ngoài như nhiệt độ, áp suất v.v. Nghiên cứu các tính chất vật lý như mật độ, độ dẫn điện, độ dẫn nhiệt, v.v. hay cơ tính như độ bền, độ dẻo, độ cứng, môđun đàn hồi, ... hoặc tính công nghệ như độ chảy loãng, khả năng gia công cắt gọt, ... và các tính năng làm việc như tính chống ăn mòn, tính chống mài mòn và mỏi, tính dòn lạnh, tính bền nhiệt, ... của vật liệu sẽ cho phép xác định lĩnh vực ứng dụng hợp lý các vật liệu khác nhau, tuy nhiên có tính đến các đòi hỏi của tính kinh tế. Tóm lại, vật liệu học là môn khoa học phục vụ cho sự phát triển và sử dụng vật liệu, nó liên quan trực tiếp đến tất cả những người làm việc trong lĩnh vực chế tạo, sử dụng và gia công vật liệu. 1.1.2 Phân loại vật liệu Dựa theo các tính chất đặc trưng, người ta phân biệt ba nhóm vật liệu chính là vật liệu kim loại, vật liệu vô cơ - ceramíc và vật liệu hữu cơ - polyme. Tuy nhiên những năm gần đây đã xuất hiện một nhóm vật liệu quan trọng thứ tư đó là vật liệu kết hợp - vật liệu compozít. 1.1.2.1 Vật liệu kim loại. Vật liệu kim loại là những vật thểâ dẫn điện tốt, phản xạ ánh sáng với mầu sắc đặc trưng, có khả năng biến dạng dẻo tốt ngay cả ở nhiệt độ thấp và thường có tính bền vững hóa học kém. Ðặc điểm cấu trúc của vật liệu kim loại là sự sắp xếp trật tự của các 1 nguyên tử để tạo thành mạng tinh thể với độ xếp chặt cao và liên kết với nhau nhờ khí điện tử tự do. Trong mạng tinh thể luôn luôn tồn tại các khuyết tật và trong một số điều kiện chúng có thể chuyển hoàn toàn sang trạng thái không trật tự thuộc dạng vô định hình. Vật liệu kim loại được chia làm hai nhóm lớn: − Kim loại và hợp kim sắt là những vật liệu mà trong thành phần chủ yếu có nguyên tố sắt. Thuộc nhóm này chủ yếu là thép và gang. − Kim loại và hợp kim không sắt là loại vật liệu mà trong thành phần của chúng không chứa hoặc chứa rất ít sắt. Thí dụ như đồng, nhôm, kẽm, niken và các loại hợp kim của chúng. Nhóm này còn có tên gọi là kim loại và hợp kim mầu. 1.1.2.2 Vật liệu vô cơ – ceramíc. Vật liệu vô cơ - ceramíc là những vật thể dẫn điện kém, thuờng là trong suốt, không có khả năng biến dạng dẻo, rất dòn, rất bền vững hóa học và thường nóng chảy ở nhiệt độ rất cao. Thành phần cấu tạo của vật liệu vô cơ - ceramíc chủ yếu là các hợp chất giữa kim loại như Mg, Al, Si, Ti, ... và các phi kim dưới dạng các ôxýt, cácbít, hay nitrít, ... với liên kết bền vững kiểu ion hoặc kiểu đồng hóa trị có sắp xếp trật tự để tạo thành mạng tinh thể hoặc có sắp xếp không trật tự như trạng thái thủy tinh hay vô định hình. Tên gọi ceramíc được bắt nguồn từ tiếng Hylạp "keramikos" có nghĩa là "vật nung" nên khi chế tạo vật liệu loại này thường phải qua nung nóng, thiêu kết. Các vật liệu vô cơ - ceramíc truyền thống có thể kể đến là thủy tinh, gốm, sứ, gạch thường và gạch chịu lửa. Ngày nay, nhiều loại vật liệu vô cơ - ceramíc mới tìm thấy có những tính năng rất quí như nhẹ, chịu nhiệt tốt, có tính chống mài mòn tốt được ứng dụng ngày càng nhiều trong công nghiệp điện, điện tử và hàng không vũ trụ. 1.1.2.3 Vật liệu hữu cơ – polyme. Vật liệu hữu cơ - polyme là những chất dẫn điện kém, dòn ở nhiệt độ thấp và có khả năng biến dạng dẻo ở nhiệt độ cao, bền vững hóa học ở nhiệt độ phòng và trong không khí, nóng chảy hoặc phân hủy ở nhiệt độ tương đối thấp. Vật liệu hữu cơ – polyme bao gồm các chất hữu cơ chứa các bon có cấu trúc đa phân tử với hai nguyên tố thành phần chủ yếu là các bon và hydrô có thể chứa thêm ôxy, clo, nitơ, ... liên kết với nhau trong các mạch phân tử kích thước lớn sắp xếp trật tự được gọi trạng thái tinh thể hoặc không trật tự – trạng thái vô định hình. Tuy nhiên chúng có thể có cấu trúc hỗn hợp vừa tinh thể vừa vô định hình. Ngoài các vật liệu hữu cơ tự nhiên như cao su, xenlulo v.v ra phần lớn vật liệu hữu cơ được sử dụng rộng rãi trong công nghiệp cũng như trong cuộc sống là các polyme tổng hợp, chúng là sản phẩm của quá trình trùng hợp (polyme hóa) các phân tử đơn (monome) và do đó tùy theo nguồn gốc chất trùng hợp, chúng có các tên gọi khác nhau như polyetylen (PE), polypropylen (PP) hay polystyren (PS), v.v. 1.1.2.4 Vật liệu kết hợp – compozit. 2 Vật liệu kết hợp - compozít là loại vật liệu được kết hợp giữa hai hay nhiều loại vật liệu khác nhau với tính chất đặc trưng khác hẳn nhau. Vật liệu compozít là một vật liệu mới được tạo thành với tổ chức và tính chất hoàn toàn mới mà mỗi vật liệu thành phần nếu đứng riêng lẻ không thể có được. Bê tông cốt thép là một ví dụ điển hình của vật liệu kết hợp – compozít. Bê tông cốt thép là sự kết hợp giữa thép (vật liệu kim loại) có tính chịu tải trọng kéo tốt và bê tông (là vật liệu vô cơ) có tính chịu nén tốt, vì thế bê tông cốt thép là loại vật liệu kết cấu vừa chịu kéo và vừa chịu nén tốt. Hình 1.1 là sơ đồ minh họa các nhóm vật liệu và quan hệ của chúng với nhau. Kim loại 1 4 Compozít 3 2 Hữu cơ 3 3 3 Vô cơ - - ceramíc polyme Hình 1.1 Sơ đồ minh họa các nhóm vật liệu và quan hệ giữa chúng. 1. Bán dẫn; 2. Siêu dẫn; 3. Silicon; 4. Polyme dẫn điện. Sự kết hợp giữa kim loại với polyme, giữa polyme với ceramíc, giữa ceramíc với kim loại, v.v là cơ sở để chế tạo các loại vật liệu kết hợp-compozít với những tính năng khác nhau phục vụ tốt trong các ngành công nghiệp và sản xuất cơ khí nói chung. Một số vật liệu kết hợp - compozít được ứng dụng trong ngành hàng không rất có hiệu quả như sợi thủy tinh độ bền cao và sợi các bon. Ngoài bốn nhóm vật liệu chính vừa được nêu trên còn có các nhóm vật liệu khác có tính năng và thành phần rất riêng biệt như vật liệu bán dẫn và vật liệu siêu dẫn, vật liệu polyme dẫn điện và vật liệu silicon. 1.1.3 LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN VẬT LIỆU. Lịch sử phát triển khoa học vật liệu nhìn chung có thể chia ra làm 3 giai đoạn lớn sau: 1.1.3.1 Giai đoạn tiền sử của loài người. Từ hàng ngàn, hàng vạn năm trước công nguyên con người nguyên thủy đã biết sử dụng công cụ lao động để duy trì và phát triển cộng đồng, ngày đó họ đã biết sử dụng các vật liệu có sẵn trong tự nhiên như : 3 − Vật liệu vô cơ là đất sét, đá, và các loại khoáng vật v.v. − Vật liệu hữu cơ như da, sợi thực vật, gỗ, tre v.v. − Vật liệu kim loại như vàng, bạc, đồng tự nhiên và sắt thiên thạch v.v. Trong giai đoạn này, các vật liệu được sử dụng đa phần ở dạng nguyên thủy, không qua chế biến. Các vật dụng được chế tạo chủ yếu bằng các cắt, mài, đập hay nghiền v.v. Tại thời kỳ này riêng người Ai Cập cổ, người Babylon, người La Mã và người Trung Quốc đã biết chế tạo ra gạch để xây cất bằng cách phơi khô đất sét ngoài nắng. 1.1.3.2 Giai đoạn chế tạo và sử dụng vật liệu theo kinh nghiệm. Phải trải qua một thời gian rất lâu, nghĩa là sau hàng nghìn năm để tích lũy các quan sát ngẫu nhiên và các kinh nghiệm, thực hiện các thí nghiệm một cách rời rạc và mò mẫm, con người thời trước Công nguyên cũng đã tạo ra được nhiều sự kiện quan trọng về lĩnh vực vật liệu. Có thể kể ra đây vài ví dụ: Trước Công nguyên khoảng 6.000 năm, người ta đã biết luyện đồng từ quặng để chế tạo ra những công cụ lao động và vũ khí. Những cục xỉ đồng với tuổi 8.500 năm, mà người ta phát hiện được ở cao nguyên Anotolia Thổ Nhĩ Kỳ đã nói lên sự xuất hiện rất sớm nghề luyện đồng từ quặng trên trái đất của chúng ta. Sắt thép cũng xuất hiện khá sớm. Vào khoảng thế kỷ 15 trước Công nguyên người ta đã biết sử dụng công cụ bằng thép và sau đó khoảng 4 thế kỷ, người Hy Lạp và La Mã đã biết sử dụng phương pháp nhiệt luyện tôi thép để làm tăng độ cứng cho thép. Kỹ thuật này đạt được đỉnh cao vào thời trung cổ với các thanh kiếm nổi tiếng như Damascus (Syrie) cho đến ngày nay vẫn còn là một bí mật về công nghệ. Các nhà khảo cổ học khi khai quật ở Ninevia - kinh đô của đồ sứ cổ Assiria trong cung điện vua Sargon đệ nhị thế kỷ thứ VIII trước Công nguyên đã phát hiện ra một kho chứa khoảng 200 tấn sản phẩm bằng sắt như mũ sắt, lưỡi cưa và các công cụ rèn v.v. Một kỳ tích về công nghệ luyện kim của nhân loại cổ xưa đã được tìm thấy như cây cột trụ bằng sắt nổi tiếng của Ấn độ gần như nguyên chất (nó chứa tới 99,72% sắt) nặng tới 6,5 tấn, cao hơn 7m được xây dựng từ năm 415 để tưởng niệm vị vua Chanđragupta đệ nhị. Những lò luyện sắt đầu tiên có ở Trung Quốc và Ai cập từng xuất hiện từ hơn 3.000 năm trước Công nguyên. Vào cuối thế kỷ thứ XVIII kỹ thuật chế tạo thép với qui mô lớn đã xuất hiện, mà nhờ đó con người đã sử dụng phổ biến để chế tạo ra các máy hơi nước, tầu thủy, xây dựng cầu cống, nhà cửa và đường sắt v.v. Một công trình bằng thép đồ sộ phải kể đến tháp Effen tại thủ đô Pari của Pháp. Tháp này nặng 7.341 tấn và cao tới 320 m được xây dựng xong năm 1889 không những là niềm tự hào và là biều tượng văn minh của nước Pháp mà còn là một kỳ quan của thế giới. Ngoài sự phát triển mạnh của những vật liệu kim loại đã nêu trên, vật liệu vô cơ cũng đã có những bước tiến rất sớm. Từ thế kỷ XV trước Công nguyên, ở Ai Cập, Babylon và La Mã người ta đã biết sử dụng hỗn hợp đá nghiền với vôi tôi rồi tới đầu thế kỷ XIX xi măng portlan đã xuất hiện ở Anh, Mỹ, Nga và sau đó kỹ thuật đúc bê tông cốt thép sử dụng trong xây dựng đã xuất hiện ở Mỹ vào năm 1875 và ngày nay loại vật liệu này ngày càng được sử dụng rộng rãi trong các công trình xây dựng cầu đường, nhà cửa v.v. 4 1.1.3.3 Giai đoạn chế tạo và sử dụng vật liêu theo kiến thức khoa học. Vào cuối thế kỷ thứ XIX cuộc cách mạng công nghiệp đã thúc đẩy sự phát triển nhanh, mạnh nhiều ngành khoa học khác nhau, nhiều ngành trong đó có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển vật liệu như hóa học và vật lý. Người ta đã đi sâu tìm hiểu bản chất của vật liệu, tìm hiểu nguyên nhân của sự hình thành các tính chất khác nhau của chúng. Chính nhờ những kiến thức khoa học đó mà con người đã đánh giá được định tính chiều hướng phát triển của vật liệu và định hướng các công nghệ chế tạo vật liệu với những tính chất mong muốn. Có thể kể ra đây một vài bước tiến nổi bật về công nghệ vật liệu. − Năm 1930 công nghệ chế tạo hợp kim nhôm cứng có tên Ðuara (duaralumin) xuất hiện nhờ quá trình hóa già biến cứng. − Năm 1940 công nghệ chế tạo chất dẻo polyme ra đời nhờ quá trình trùng hợp. − Năm 1955 công nghệ chế tạo bán dẫn bằng kỹ thuật tinh luyện và tạo lớp chuyển tiếp. − Năm 1965 một loạt vật liệu mới ra đời như thép xây dựng vi hợp kim hóa, thép kết cấu độ bền cao và đặc biệt là sự xuất hiện vật liệu kết hợp compozít. − Năm 1975 chế tạo vật liệu nhớ hình. − Năm 1980 chế tạo thành công kim loại thủy tinh v.v. Tuy nhiên còn có rất nhiều loại vật liệu hiện còn đang trong quá trình nghiên cứu tại các phòng thí nghiệm có nhiều triển vọng ứng dụng rộng rãi vào thực tế trong tương lai. 1.2 NHỮNG TÍNH CHẤT CƠ BẢN CỦA VẬT LIỆU. 1.2.1 Ba yêu cầu cơ bản đối với vật liệu Vật liệu nói chung và vật liệu dùng trong cơ khí nói riêng được sử dụng rộng rãi trong công nghiệp để chế tạo các chi tiết máy, các dụng cụ, các kết cấu công trình và tạo nên các sản phẩm cho cuộc sống v.v. Tuy nhiên khi chế tạo và sử dụng, chúng ta cần phải dựa vào các yêu cầu kỹ thuật để lựa chọn vật liệu thích hợp, bảo đảm chất lượng và tính kinh tế của sản phẩm. Ba yêu cầu cơ bản đối với vật liệu như sau:  Thứ nhất là yêu cầu về tính sử dụng. Ðể bảo đảm một sản phẩm cơ khí có thể sử dụng được (tức làm việc được trong thực tế) thì vật liệu chế tạo ra nó phải có cơ tính, lý tính, hóa tính v.v sao cho sản phẩm sử dụng được bền lâu với độ tin cậy trong thời gian dự kiến.  Thứ hai là tính công nghệ của vật liệu. 5 Tính công nghệ của vật liệu được hiểu là khả năng có thể gia công vật liệu bằng các phương pháp khác nhau như đúc, hàn, rèn, nhiệt luyện v.v để tạo ra sản phẩm có chất lượng phù hợp với yêu cầu sử dụng.  Thứ ba là tính kinh tế. Tính kinh tế là yêu cầu tất yếu của sản phẩm, nó đòi hỏi vật liệu chế tạo ra nó phải cho giá thành thấp nhất trong khi các yêu cầu về công nghệ và sử dụng được thỏa mãn. 1.2.2 Những tính chất cơ bản của vật liệu Trong khuôn khổ của môn học, cuốn sách này chỉ đề cập đến hai yêu cầu cơ bản ban đầu với những tính chất cơ học, tính chất vật lý, tính chất hóa học, tính công nghệ đồng thời sơ lược về độ tin cậy và tuổi thọ của vật liệu. 1.2.2.1 Tính chất cơ học. Tính chất cơ học (hay còn được gọi là cơ tính) của vật liệu là những đặc trưng cơ học biểu thị khả năng của vật liệu chịu tác dụng của các loại tải trọng. Các đặc trưng quan trọng của cơ tính là độ bền, độ dẻo, độ cứng, độ dai va đập, độ bền mỏi và tính chống mài mòn. a. Ðộ bền. Ðộ bền là khả năng cơ học của vật liệu chịu tác dụng của ngoại lực mà không bị phá hủy và được ký hiệu bằng σ (xích ma). Ðơn vị đo độ bền được tính bằng N/mm2, kN/ m2, hay MPa. Nhóm các đặc trưng cho độ bền bao gồm:  Giới hạn đàn hồi σ dh (còn được ký hiệu là Re). Giới hạn đàn hồi là ứng suất lớn nhất tác dụng lên mẫu đo mà sau khi bỏ nó đi mẫu không bị biến dạng dẻo hoặc chỉ bị biến dạng dẻo rất nhỏù (độ biến dạng dư vào khoảng 0,001 – 0,005% so với chiều dài ban đầu của mẫu). Giới hạn đàn hồi được tính theo công thức: Pp σ dh = , (N/mm2 hay MPa). F0 Trong đó: F0 (mm2) là tiết diện ban đầu của mẫu. Pp (N) là lực tác dụng. Trong giai đoạn đàn hồi, nếu là đàn hồi tuyến tính, quan hệ giữa ứng suất σ và biến dạng ε tuân theo định luật Hook, và nó có thể biểu diễn dưới dạng công thức đơn giản. σ = E. ε , (MPa). Với E (N/m2) là mô đun đàn hồi khi kéo, nén. 6 Người ta qui định gọi σ 0,002 là giới hạn đàn hồi qui ước.  Giới hạn chảy σ c (còn được ký hiệu là R0,2). Giới hạn chảy là ứng suất tại đó vật liệu bị "chảy", tức tiếp tục bị biến dạng với ứng suất không đổi . Pc σc = , (N/mm2 hay MPa). F0 Với Pc (N) là lực tác dụng bắt đầu biến dạng dẻo. F0 (mm2) là tiết diện ban đầu của mẫu. Thực tế rất khó xác định giá trị Pc ứng với lúc vật liệu bắt đầu chảy, cho nên khi vật liệu có tính dẻo kém, không có thềm chảy rõ, người ta thường qui ước tải trọng ứng với P0, 2 khi mẫu bị biến dạng 0,2% là tải trọng chảy, vì thế giá trị σ 0, 2 = được gọi là giới F0 hạn chảy qui ước.  Giới hạn bền σ b (còn được ký hiệu là Rm). Giới hạn bền là ứng suất ứng với tải trọng tác dụng lớn nhất Pb hay Pmax làm cho thanh vật liệu bị đứt. Theo tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 197-85 giới hạn bền còn được gọi là giá trị độ bền tức thời. Giới hạn bền được tính theo công thức: Pb σb = , (N/mm2 hay MPa). F0 Với F0 (mm2) là tiết diện ban đầu của mẫu. Pb (N) là lực tác dụng lớn nhất. Trong hệ SI giới hạn bền được đo bằng N/mm2. Giới hạn bền càng lớn, khả năng chịu tải mà không gây phá hủy của kết cấu càng lớn. Tùy theo dạng khác nhau của ngoại lực mà ta có các độ bền như độ bền kéo σk, độ bền uốn σ u và độ bền nén σ n v.v. b.Ðộ dẻo: Ðộ dẻo là khả năng biến dạng của vật liệu khi chịu tác dụng của ngoại lực mà không bị phá hủy. Ðộ dẻo được xác định bằng độ giãn dài tương đối δ (%) và độ thắt tỉ đối ψ (%).  Ðộ giãn dài tương đối δ (%) Ðộ giãn dài tương đối là tỉ lệ tính theo phần trăm giữa lượng giãn dài tuyệt đối của mẫu sau khi đứt với chiều dài ban đầu. 7 Ðộ giãn dài tương đối được tính theo công thức: l1 − l0 δ = .100% , (%). l0 Với: l0 (mm) và l1 (mm) là độ dài của mẫu trước và sau khi kéo.  Ðộ thắt tương đối hay độ thắt tỉ đối ψ (%). Ðộ thắt tỉ đối cũng là tỉ số tính theo phần trăm giữa độ thắt tuyệt đối của mẫu sau khi đứt với diện tích mặt cắt ngang ban đầu. Ðộ thắt tỉ đối được tính theo công thức: ∆F ψ = .100% , (%). F0 Trong đó ∆F = F0 – F1 với F0 và F1 là tiết điện của mẫu trước và sau khi kéo tính cùng đơn vị đo (mm2). Vật liệu có độ giãn dài tương đối và độ thắt tỉ đối càng lớn thì càng dẻo và ngược lại. Có nhiều phương pháp thử để xác định độ bền và độ dẻo của vật liệu nhưng thông dụng nhất là thử kéo.  Thử kéo Nội dung của phương pháp này là dùng máy kéo nén vạn năng ( hình 1.2) để kéo mẫu thử được làm theo tiêu chuẩn đến khi mẫu bị đứt. Quá trình tăng tải sẽ gây ra biến dạng mẫu một lượng ∆l. Mối quan hệ giữa lực P và lượng biến dạng tuyệt đối ∆l hoặc ứng suất σ và biến dạng tương đối ε được ghi lại trên giản đồ kéo. Mẫu thử kéo được chọn theo những qui định riêng và có hình dạng, kích thước theo tiêu chuẩn. Thử kéo là phương pháp tác động từ từ lên mẫu một tải trọng kéo cho đến khi mẫu đứt rời. Hình 1.2 giới thiệu một loại máy thử kéo, nén vạn năng. Hình 1.2 Máy thử kéo nén vạn năng. 8 c. Ðộ cứng Ðộ cứng là khả năng của vật liệu chống lại biến dạng dẻo cục bộ khi có ngoại lực tác dụng thông qua vật nén. Nếu cùng một giá trị lực nén, lõm biến dạng trên mẫu càng lớn, càng sâu thì độ cứng của mẫu đo càng kém. Ðo độ cứng là phương pháp thử đơn giản và nhanh chóng để xác định tính chất của vật liệu mà không cần phá hủy chi tiết. Ðộ cứng có thể đo bằng nhiều phương pháp khác nhau nhưng đều dùng tải trọng ấn viên bi bằng thép nhiệt luyện cứng hoặc mũi côn kim cương hoặc mũi chóp kim cương lên bề mặt của vật liệu cần thử, rồi xác định kích thước vết lõm in trên bề mặt vật liệu đo. Thường dùng các loại độ cứng Brinen (HB), độ cứng Rockwell (HRC, HRB và HRA), và độ cứng Vícke (HV).  Ðộ cứng Brinen Ðộ cứng Brinen được xác định bằng cách dùng tải trọng P để ấn viên bi bằng thép đã nhiệt luyện có đường kính D lên bề mặt vật liệu muốn thử (hình 1.3). Ðơn vị đo độ cứng Brinen HB là kG/mm2 hoặc đổi ra MPa. Tùy theo chiều dày của mẫu thử chúng ta chọn đường kính của viên bi là D = 10 mm, D = 5 mm hoặc D = 0,25 mm, đồng thời tùy thuộc vào tính chất của vật liệu chúng ta chọn tải trọng P cho thích hợp. − Ðối với thép và gang thì P = 30D2. − Ðối với đồng và hợp kim đồng P = 10D2. − Ðối với nhôm, babít và hợp kim mềm khác P = 2,5D2. P 0 1 2 3 4 5 6 7 D b. Hình 1.3 Sơ đồ đo độ cứng Brinen (a) và sơ đồ đo đường kính vết lõm a. bằng kính lúp có thước mẫu (b). d Thí dụ: Khi thử thép dùng bi có đường kính D = 10 mm ta chọn tải trọng P = 30D2 = 300 kG. P Ðộ cứng Brinen được tính theo công thức: HB = . F Trong đó F là diện tích mặt cầu của vết lõm và được tính: π .D 2 π .D F= − D2 − d 2 , (mm2). 2 2 9    2  P  π  Và do đó HB = 2   D  d 2  1 − 1 −  D       Với D (mm) là đường kính viên bi và d (mm) là đường kính vết lõm. Ðộ cứng HB của vật liệu được kiểm tra không lớn hơn 450 (kG/mm2).  Ðộ cứng Rockwell. Ðộ cứng Rockwell được xác định bằng cách dùng tải trọng P để ấn viên bi bằng thép đã nhiệt luyện có đường kính 1,587mm tương đương 1/16" (thang B) hoặc mũi côn bằng kim cương có góc ở đỉnh 1200 (thang A hoặc C) lên bề mặt vật liệu muốn thử (hình 1.4). Viên bi thép dùng để thử những vật liệu ít cứng, còn mũi côn kim cương dùng để thử các vật liệu có độ cứng cao như thép đã nhiệt luyện. Khi đo độ cứng Rockwell bao giờ tải trọng P cũng tác động hai lần: Hình 1.4 Vị trí tương đối giữa mũi đâm và mẫu đo ở các thời điểm đo: 00: lúc chưa đo; 11: tải trọng sơ bộ P0 22: thêm tải trọng chính P1; 33: P1. Lần đầu là tải trọng sơ bộ với P0 = 10 kG, chiều sâu vết lõm tính từ đây. Sau đến tải trọng chính P (tải trọng chính P phụ thuộc vào độ cứng của vật liệu theo bảng). Trong khi thử, số đo độ cứng được chỉ trực tiếp ngay bằng kim đồng hồ. Số đo độ cứng Rockwell được biểu thị bằng đơn vị qui ước (không có thứ nguyên). Có nhiều thang đo độ cứng Rockwell, nhưng trong thực tế dùng nhiều nhất là thang B (HRB), thang A (HRA) và thang C (HRC). Thang HRB dùng bi thép với P = 100 kG áp dụng cho các vật liệu mềm và cứng vừa như gang, thép sau khi ủ, hợp kim đồng nhôm. Thang HRC dùng mũi kim cương với P = 150 kG áp dụng cho các vật liệu có độ cứng trung bình và cao như gang, thép sau khi tôi và ram. Thang HRA dùng mũi kim cương với P = 60 kG áp dụng cho các vật liệu rất cứng như hợp kim cứng, lớp thấm xuyanua.  Ðộ cứng Vicke. 10 d 1360 d a. b. Hình 1.5 Mũi đâm hình tháp (a) và vết lõm (b) khi đo độ cứng bằng phương pháp Vicke Ðộ cứng Vicke là loại độ cứng có phương pháp đo tương tự như Brinen, nhưng có những điểm khác như: − Mũi đâm làm bằng kim cương với hình tháp bốn mặt đều có góc ở đỉnh giữa hai mặt đối diện là 1360 (hình 1.5). − Tải trọng tác dụng nhỏ từ 1 đến 100 kG, trong đó mức 30 kG với thời gian giữ tải trọng 10 đến 15 giây được coi là điều kiện tiêu chuẩn. − Khi ấn mũi hình tháp, tỉ lệ giữa các đường chéo vết lõm nhận được khi thay đồi tải trọng luôn luôn không đổi nên cho phép tăng hay giảm tải trọng tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu. Ðộ cứng Vicke được dùng để đo độ cứng của các vật liệu từ rất mềm đến rất cứng với lớp cần đo rất mỏng có thể tới 0,04 đến 0,06mm của bề mặt sau khi thấm than, thấm nitơ và nhiệt luyện. Ðộ cứng Vicke được ký hiệu là HV đơn vị kG/mm2 và được xác định theo công thức: P HV = 1,854 d2 Trong đó: P (kG) là tải trọng . d (mm) là đường chéo của vết lõm. Lưu ý: Ðộ cứng ở điều kiện tiêu chuẩn chỉ cần viết vắn tắt bằng HV và số đo mà không cần ghi thứ nguyên. Thí dụ: HV300. Ðộ cứng ở điều kiện phi tiêu chuẩn thì phải ghi thêm các điều kiện. HV10/ 30300 được hiểu là độ cứng HV được đo bằng tải trọng 10 kG với thời gian giữ tải trọng 30 giây là 300 kG/mm2. Ðộ cứng Vicke được dùng cả trong độ cứng tế vi. d.Ðộ dai va chạm. Có những chi tiết máy khi làm việc phải chịu các tải trọng tác dụng đột ngột (hay tải trọng va đập). Khả năng chịu đựng của vật liệu bởi các tải trọng đột ngột hay va đập đó mà không bị phá hủy được gọi là độ dai va đập (hay độ dai va chạm). Muốn thử va đập 11 cần phải có mẫu thử được lựa chọn theo những qui định riêng như ngang hay dọc thớ, vị trí nào trên sản phẩm và có hình dạng kích thước theo tiêu chuẩn. Nhìn chung các nước đều qui định mẫu thử là thanh có tiết diện hình vuông 10 x 10 (mm) và có chiều dài 55 mm hoặc 75 mm. Chúng khác nhau chủ yếu ở hình dạng và kích thước của vết khía trên mẫu, nơi tập trung ứng suất để phá hủy dòn. Hiện nay, người ta sử dụng phổ biến hai phương pháp thử va đập và kèm theo đó là hai dạng mẩu thử: − Loại Charpy (có chiều dài 55 mm). − Loại Izod (có chiều dài 75 mm). TCVN 312 - 69 qui định một mẫu chính và bốn mẫu phụ. Sơ đồ thử va đập được mô tả trên hình 1.6. Hình1.6. Sơ đồ thử va đập: a. Cách gá mẫu Izod; b. Cách gá mẫu Charpy; c. Sơ đồ thiết bị và quá trình thử. Búa với khối lượng P được thả rơi tự do từ độ cao h, đập vào mẫu rồi làm vỡ nó, vì thế chỉ trở về tới độ cao h' < h. Năng lượng va đập dùng để phá hủy mẫu được ký hiệu là AK và được xác định theo công thức: AK = P.h - P.h' = P.(h - h'). 12 Năng lượng (phá hủy do) va đập AK được tính theo đơn vị công, trước đây theo kG.m, theo hệ quốc tế SI được đo bằng Jun (J) với 1J = 1N.m. Trong các qui định của TCVN và một số nước độ dai va đập được ký hiệu là ak. Nó là công cần thiết để phá hủy một đơn vị diện tích, mặt cắt ngang của mẫu ở chỗ có rãnh và được xác định theo công thức: AK aK = với đơn vị đo là J/mm2 hay kJ/m2. F Trong đó AK (J hay kJ) là năng lượng va đập. F (mm2) là diện tích mặt cắt ngang của mẫu ở chỗ có rãnh. e. Ðộ bền mỏi. Khi chi tiết máy làm việc trong điều kiện tải trọng biến đổi theo thời gian, có qui luật và được lặp đi lặp lại theo chu kỳ nhiều lần thường xảy ra phá hủy với ứng suất thấp hơn giới hạn bền kéo tĩnh. Hiện tượng này được gọi là hiện tượng mỏi. Nguyên nhân của mỏi là do có sự tích lũy dần các khuyết tật mạng dẫn đến hình thành các vết nứt tế vi, rồi các vết nứt này phát triển tạo nên sự phá hủy. Khả năng chống lại hiện tượng mỏi của vật liệu được gọi là độ bền mỏi. Trong phá hủy mỏi người ta quan tâm đến hai chỉ tiêu quan trọng là độ bền mỏi và tuổi thọ chu kỳ. Ðộ bền mỏi là ứng suất lớn nhất mà vật liệu có thể chịu đựng được một số chu trình làm việc bất kỳ mà không bị phá hủy và nó được ký hiệu là σ -1. Còn số chu kỳ tối thiểu mà vật liệu chịu đựng được trước khi xuất hiện vết nứt mỏi có kích thước đủ lớn dẫn đến phá hủy được gọi là tuổi thọ chu kỳ và được ký hiệu là NG. Tuổi thọ chu kỳ có thể là vô hạn khi σ Max lớn hơn σ -1. Ðối với thép NG = 106 ÷ 107 còn hợp kim nhôm thì NG = 106 (xem thêm chương 5 phần phá hủy mỏi). f. Tính chống mài mòn. Mài mòn là quá trình phá hủy dần lớp bề mặt chi tiết của vật liệu bằng cách tách các hạt khỏi bề mặt do tác dụng của ma sát. Người ta xác định sự mài mòn theo sự thay đổi kích thước hoặc khối lượng của vật liệu. Khả năng của vật liệu chống lại sự mài mòn trong những điều kiện ma sát nhất định của vật liệu được gọi là tính chống mài mòn của vật liệu. Ðể đánh giá mức độ mòn, người ta thường dùng: − Tốc độ mài mòn Vh là tỉ số giữa lượng mài mòn và thời gian mài mòn. − Cường độ mài mòn jh là nghịch đảo của tốc độ mòn. Giá trị vận tốc mài mòn càng nhỏ thì tuổi thọ làm việc của vật liệu càng cao. 1.2.2.2 Tính chất vật lý. 13 Tính chất vật lý hay còn được gọi là lý tính của vật liệu là những tính chất của vật liệu thể hiện qua các hiện tượng vật lý khi thành phần hóa học của chúng không bị thay đổi. Lý tính cơ bản của vật liệu gồm có: khối lượng riêng, nhiệt độ nóng chảy, tính chất nhiệt, tính chất điện và từ tính. 1.Khối lượng riêng. Khối lượng riêng là khối lượng của 1 cm3 vật chất. Nếu gọi P là khối lượng của vật chất (g), V là thể tích của vật chất (cm3) và γ là khối lượng riêng của vật chất (hay vật liệu) ta có: P γ = , (g/cm3). V Ứng dụng của khối lượng riêng trong kỹ thuật rất rộng rãi, nó không những có thể dùng để so sánh các vật liệu nặng nhẹ khác nhau để tiện việc lựa chọn vật liệu mà còn có thể giải quyết những vấn đề thực tế. Thí dụ, những vật lớn, thép hình khó cân được khối lượng, nhưng biết được khối lượng riêng của vật liệu và đo được kích thước của chúng, người ta có thể tính được thể tích nên có thể không cần cân cả vật mà ta vẫn tính được khối lượng của chúng. 2.Nhiệt độ nóng chảy. Nhiệt độ nóng chảy của vật liệu là nhiệt độ mà khi nung nóng đến đó thì vật liệu từ thể rắn chuyển thành thể lỏng. Tính chất này rất quan trọng đối với công nghiệp chế tạo cơ khí, vì tính chảy loãng của vật liệu ở thể lỏng tốt hay xấu do nhiệt độ nóng chảy của chúng quyết định. Nhiệt độ nóng chảy của vật liệu càng thấp thì tính chảy loãng của chúng càng tốt và càng dễ đúc. 3.Tính chất nhiệt. Khi một vật rắn hấp thụ năng lượng dưới dạng nhiệt, nhiệt độ của nó tăng lên và các kích thước của nó giãn nở ra. Nhiệt lượng của nó có thể được truyền từ vùng nhiệt độ cao hơn tới vùng có nhiệt độ thấp hơn. Nhiệt dung, tính giãn nở nhiệt và độ dẫn nhiệt là những tính chất nhiệt quan trọng của vật liệu rắn. a. Nhiệt dung: Nhiệt dung biểu thị năng lượng cần thiết để nâng nhiệt độ của một đơn vị vật chất lên một độ. Nhiệt dung được xác định theo công thức: dQ C= . dT Trong đó: dQ là năng lượng cần thiết để gây ra độ biến thiên nhiệt độ dT. 14 Thông thường nhiệt dung có đơn vị đo là jun hoặc calo cho một mol vật liệu (J/mol hay cal/mol.K). Nhiệt dung của một đơn vị khối lượng được gọi là nhiệt dung riêng và có thứ nguyên là J/kG.K hay cal/g.K. b. Tính dãn nở nhiệt: Tính dãn nở nhiệt là khả năng dãn nở của vật liệu khi nung nóng. Ðộ dãn nở lớn hay bé có thể biểu thị bằng hệ số dãn nở theo chiều dài. Ða số các vật liệu nở ra khi bị nung nóng nóng và co lại khi lạnh. Nguyên nhân của hiện tượng giãn nở nhiệt chính là sự tăng khoảng cách trung bình giữa các nguyên tử khi tăng nhiệt độ. Sự thay đổi chiều dài theo nhiệt độ của vật liệu của vật liệu rắn được xác định như sau: l1 − l0 ∆l = α l (T1 − T0 ) hay = α l .∆T l0 l0 Trong đó: − l0 (mm) và l1 (mm) là chiều dài ban đầu và chiều dài sau khi thay đổi nhiệt độ từ T0 đến T1. − αl là hệ số giãn nở vì nhiệt với thứ nguyên 0C-1. Các vật liệu polyme thường có hệ số giãn nở nhiệt αl lớn (vào khoảng 50.10-3/0C đến 300.10-3/0C). Vật liệu vô cơ gốm, kim loại có αl nhỏ hơn (vào khoảng 0,5.10-6/0C đến 25.10-6/0C). Giữa các đoạn đường ray nối nhau, người ta luôn để khe hở chính là để dự phòng sự thay đổi kích thước do dãn nở nhiệt. c. Tính dẫn nhiệt. Dẫn nhiệt là hiện tượng nhiệt được truyền từ vùng nhiệt độ cao đến vùng nhiệt độ thấp của vật liệu. Ðặc trưng cho khả năng dẫn nhiệt của vật liệu là độ dẫn nhiệt λ với thứ nguyên là W/m.K.. Trong vật rắn, nhiệt được truyền bởi sóng dao động mạng (phôtôn) và điện tử tự do. Các kim loại thường dẫn nhiệt tốt, ngược lại các vật liệu khác như gốm, vật liệu phi kim và polyme dẫn nhiệt kém, nên chúng thường được dùng làm vật liệu cách nhiệt. 4. Tính chất điện. Một trong những đặc tính quan trọng nhất của vật liệu rắn là khả năng dẫn điện của nó.  Tính dẫn điện. Tính dẫn điện của vật liệu là khả năng truyền dòng điện của vật liệu. Ðặc trưng cho khả năng dẫn điện của kim loại là độ dẫn điện σ với đơn vị đo (Ωcm)-1. Các kim loại đều là vật dẫn điện tốt. Dẫn điện tốt nhất là bạc, sau đó đến đồng và nhôm. Hợp kim nói chung và các vật liệu phi kim có tính dẫn điện kém hơn kim loại. 15 Ðộ dẫn điện được biểu diễn bằng điện tích Q (Culông) đi qua một đơn vị diện tích S (cm2) trong một đơn vị thời gian t thường tính bằng giây của dây dẫn dài l (cm) có điện áp hai đầu dây là U (V). 1 Q.l σ = = [Ω −1.cm −1 ] . ρ U .t.S Với ρ là điện trở suất của vật liệu mẫu (Ω.cm). Các vật liệu rắn có độ dẫn điện trải rộng trên 27 cỡ số. Căn cứ vào khả năng dẫn điện, các vật liệu rắn được chia thành ba loại: vật liệu dẫn điện, vật liệu bán dẫn và vật liệu cách điện. Các vật liệu dẫn điện có độ dẫn điện cỡ 107 (Ωcm)-1, thường các kim loại là những vật liệu dẫn điện tốt. Các vật liệu cách điện còn được gọi là các điện môi có độ dẫn điện thấp, nằm trong khoảng 10-10 (Ωcm)-1 và 10-20 (Ωcm)-1. Các vật liệu bán dẫn là các loại vật liệu có độ dẫn điện trung gian giữa hai loại trên, nó nằm trong khoảng từ 10-6 (Ωcm)-1 đến 104 (Ωcm)-1. Dòng điện được tạo thành do chuyển động của các hạt mang điện tích dưới tác dụng lực của một điện trường ngoài đặt vào. Các hạt mang điện dương được gia tốc theo hướng của điện trường còn các hạt mang điện âm thì theo hướng ngược lại. Trong hầu hết các vật liệu rắn, dòng điện được tạo thành do các dòng điện tử và đó là sự dẫn điện bằng điện tử. Ngoài ra, trong các vật liệu ion, sự chuyển động thuần túy của các ion cũng có thể tạo ra một dòng điện và đó là sự dẫn điện bằng ion.  Siêu dẫn (điện). Ða số kim loại khi được làm lạnh xuống đến nhiệt độ gần 00K thì điện trở giảm từ từ và đạt tới một giá trị nhất định. Hình 1.7 Sự phụ thuộc điện trở-nhiệt độ của vật dẫn bình thường và vật liệu siêu dẫn ở gần 00K. 16 Các vật liệu có tính chất trên được gọi là vật liệu siêu dẫn và nhiệt độ tại đó vật liệu đạt tới trạng thái siêu dẫn được gọi là nhiệt độ tới hạn TC . Hiện tượng siêu dẫn được giải thích bằng lý thuyết khá phức tạp, nhưng về cơ bản, trạng thái siêu dẫn có được là do tương tác hút giữa cặp điện tử dẫn. Chuyển động của những điện tử ghép cặp này hầu như không bị tán xạ bởi dao động nhiệt và các nguyên tử phức tạp, nhờ đó mà điện trở vốn tỉ lệ với cường độ tán xạ điện tử sẽ bằng không. Hiện tượng siêu dẫn có những ứng dụng thực tế rất đa dạng, ví dụ như: − Các nam châm siêu dẫn có khả năng tạo ra những từ trường mạnh với công suất tiêu thụ thấp được sử dụng trong các thiết bị thí nghiệm và nghiên cứu khoa học. − Nam châm cho các máy gia tốc hạt năng lượng cao. − Truyền tín hiệu và chuyển mạch tốc độ cao hơn cho máy tính. − Tầu đệm từ cao tốc với đệm nâng nhờ lực đẩy của từ trường. Tiếc thay, trở ngại lớn nhất của vật liệu siêu dẫn là khó khăn trong việc đạt và làm chủ được nhiệt độ rất thấp (khoảng từ 770K đến 1300K). Chúng ta hy vọng trở ngại này sớm được khắc phục cùng với sự phát triển thế hệ mới của các chất siêu dẫn với nhiệt độ tới hạn cao hợp lý. 5. Từ tính. Hiện tượng các vật liệu biểu hiện lực hút hoặc lực đẩy có ảnh hưởng lên các vật liệu khác gọi là hiện tượng "từ". Từ tính là khả năng dẫn từ của kim loại. Sắt, niken, cô ban và hợp kim của chúng đều có từ tính thể hiện rất rõ rệt nên chúng được gọi là kim loại từ tính. Vật liệu từ có tầm quan trọng lớn trong hàng loạt ngành công nghiệp như chế tạo động cơ điện, máy phát và máy biến thế điện, điện thoại và máy tính v.v. 1.2.2.3 Tính chất hóa học. Tính chất hóa học đáng quan tâm nhất đối với vật liệu dùng trong cơ khí là tính ổn định hóa học của vật liệu khi chúng tiếp xúc với môi trường có hoạt tính khác nhau như ô xy, nước, axít, bazơ v.v mà không bị phá hủy. Thông thường mỗi vật liệu có tính ổn định hóa học ứng với từng môi trường nhất định. Tính năng hóa học cơ bản của vật liệu có thể chia thành mấy loại sau:  Tính chịu ăn mòn: Tính chịu ăn mòn của vật liệu là độ bền của vật liệu đối với sự ăn mòn của các môi trường xung quanh.  Tính chịu nhiệt: Tính chịu nhiệt của vật liệu là độ bền của vật liệu đối với sự ăn mòn của ôxy trong không khí ở nhiệt độ cao hoặc đối với tác dụng ăn mòn của một vài thể lỏng hoặc thể khí đặc biệt ở nhiệt độ cao. 17  Tính chịu axít: Tính chịu axít của vật liệu là độ bền của vật liệu đối với sự ăn mòn của axít. 1.2.2.4 Tính công nghệ. Tính công nghệ là khả năng của vật liệu cho phép gia công nóng hay gia công nguội. Tính công nghệ bao gồm các tính chất sau:  Tính đúc: Tính đúc của vật liệu là khả năng điền đầy vật liệu lỏng vào lòng khuôn và nó được đặc trưng bởi độ chảy loãng, độ co, tính hoà tan khí và tính thiên tích.  Tính rèn: Tính rèn là khả năng biến dạng vĩnh cửu của vật liệu khi chịu tác dụng của ngoại lực để tạo thành hình dạng của chi tiết mà không bị phá hủy. Thép có tính rèn cao khi nung nóng đến nhiệt độ phù hợp vì tính dẻo tương đối lớn. Gang không có khả năng rèn vì dòn. Ðồng, chì có tính rèn tốt ngay cả ở trạng thái nguội v.v.  Tính hàn Tính hàn là khả năng tạo thành sự liên kết giữa các chi tiết hàn được nung nóng cục bộ chỗ mối hàn đến trạng thái chảy hay dẻo. Tính hàn của vật liệu phụ thuộc vào thành phần hóa học, bản chất vật liệu v.v.  Tính cắt gọt: Tính cắt gọt là khả năng của vật liệu cho phép gia công cắt gọt như tiện, phay, bào v.v dễ hay khó. Nhân tố ảnh hưởng đến tính cắt gọt là độ cứng. Ðộ cứng của thép để gia công cắt thuận lợi đạt độ bóng bề mắt cao vào khoảng 180 ÷ 200 HB. 1.2.2.5 Ðộ tin cậy. Ðộ tin cậy là xác suất không xuất hiện hư hỏng của vật liệu trong một thời gian hoặc trong một phạm vi làm việc nào đó. Ví dụ: độ tin cậy làm việc không hỏng của bánh răng sau khi chạy 300.000 km là 0,9 có nghĩa là sau khi làm việc (chạy được 300.000 km) thì sẽ có khoảng 10% bánh răng hỏng vì bị mòn, tróc hoặc gẫy v.v. Ðộ tin cậy của vật liệu phụ thuộc vào khả năng của vật liệu chống lại các phá hủy khi xuất hiện các ứng suất cực đại. Nói cách khác, độ tin cậy là khả năng của vật liệu làm việc bình thường trong thời gian ngắn hạn, dưới tác dụng của tình huống ngoài tính toán như áp suất, nhiệt độ và môi trường. Sự xuất hiện phá hủy dòn là tình huống nguy hiểm nhất đối với độ tin cậy của kết cấu. Chính vì thế, để nâng cao độ tin cậy của kết cấu cần phải thực hiện các biện pháp giảm khả năng (xác suất) phá hủy dòn bằng cách chế tạo ra vật liệu kết cấu có đủ độ dẻo và độ dai va đập. 18 1.2.2.6 Tuổi thọ. Tuổi thọ của vật liệu đặc trưng cho khả năng của vật liệu chống lại sự phát triển dần của phá hủy, đảm bảo duy trì khả năng làm việc của chi tiết trong thời gian đã định. Ðây là chỉ tiêu có tính chất tổng hợp của vật liệu. Làm tăng tuổi thọ của vật liệu có nghĩa là làm giảm tốc độ phá hủy đến mức tối thiểu. Với đa số các chi tiết máy, tuổi thọ được quyết định bởi độ bền mỏi và tính chống mài mòn. 19
DMCA.com Protection Status Copyright by webtailieu.net