logo

Vài nét về quá trình đô thị hóa vùng ven đô TP.Hồ Chí Minh từ sau đổi mới (1986-1996)

Đô thị hoá là một quá trình tập trung dân cư đô thị. Đồng thời đó là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất nông nghiệp giảm, sản xuất phi nông nghiệp tăng. Bộ mặt đô thị ngày càng hiện đại, không gian đô thị mở rộng.
VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HOÁ VÙNG VEN ĐÔ TP. HỒ CHÍ MINH TỪ SAU ĐỔI MỚI (1986 – 1996) NGUYỄN THỊ THUỶ (*) 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Đô thị hoá là một quá trình tập trung dân cư đô thị. Đồng thời đó là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất nông nghiệp giảm, sản xuất phi nông nghiệp tăng. Bộ mặt đô thị ngày càng hiện đại, không gian đô thị mở rộng. Ở Việt Nam, trước 1975 đất nước liên tục bị chiến tranh nên ở miền Bắc đô thị hoá diễn ra hết sức chậm chạp. Ở miền Nam dưới thời Mỹ - Ngụy đô thị hoá diễn ra ồ ạt ở Sài Gòn (nay là TP. Hồ Chí Minh) nhưng mang tính cưỡng bức nên đã để lại hậu quả khá nặng nề sau chiến tranh. Sau năm 1975, cả nước ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ trọng tâm của các tỉnh miền Nam là khắc phục mọi khó khăn khôi phục và phát triển kinh tế, ổn định xã hội và đời sống nhân dân. Do vậy những năm đầu sau giải phóng, đô thị hoá ở Sài Gòn về cơ bản không có gì đáng kể. Từ năm 1986, khi Đảng và Nhà nước chủ trương đổi mới, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, Sài Gòn với ưu thế là một thành phố trẻ có tiềm năng về khoa học kỹ thuật, về quan hệ buôn bàn với nước ngoài và tiềm ẩn nền kinh tế đa thành phần đã nhanh chóng trở thành trung tâm công nghiệp – thương mại – du lịch - dịch vụ và quan hệ quốc tế. Đây cũng là thành phố dẫn đầu cả nước về tốc độ đô thị hoá ở Tp. Hồ Chí Minh đã diễn ra trong không gian rộng lớn cả nội ô và vùng ven đô Tp. Hồ Chí Minh. Ven đô Tp. Hồ Chí Minh là một vùng rộng lớn bao gồm các quận ven nội và các huyện cửa ngõ của thành phố như: Bình Thạnh, Tân Bình, Gò Vấp, Hóc Môn, Thủ Đức, Nhà Bè, Bình Chánh, Ven đô Tp. Hồ Chí Minh chiếm 79% diện tích và 17% dân số thành phố (tính tới thời điểm 1996). Trong chiến tranh cũng như lúc hoà bình vùng ven đô có một vị trí hết sức quan trọng đối với sự trường tồn của thành phố. Khi chiến tranh xảy ra, vùng ven là pháo đài xanh để bảo vệ cho sự bình yên của thành phố. Hoà bình lập lại, vùng ven đô là nơi cung cấp lao động, lương thực thực phẩm để xây dựng phát triển thành phố. Đồng thời, đây còn là “vành đai xanh” để chắn lọc gió bụi cho nội ô. Trong quá trình đô thị hoá Tp. Hồ Chí Minh, vùng ven đô là nơi trực tiếp chịu sự tác động của làn sóng di dân nông thôn – thành thị. Nơi đây cũng đã xảy ra quá trình đô thị hoá khá mạnh mẽ. Trong phạm vi bài viết này xin được đề cập đến một số nét nổi bật trong quá trình đô thị hoá vùng ven đô Tp. Hồ Chí Minh (chủ yếu là các quận ven). 2. QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HOÁ CỦA CÁC QUẬN VEN ĐÔ TP. HỒ CHÍ MINH 2.1 Quá trình tập trung dân cư đô thị Trong quá trình đô thị hoá, vấn đề di dân nông thôn – thành thị xảy ra với hầu hết các nước trên thế giới và trong khu vực như Thái Lan, Indonesia, Philippin… Ở Việt Nam, công cuộc đổi mới của đất nước đã làm cho quan hệ sản xuất được cải thiện, năng lực sản xuất được giảI phóng, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước được đẩy mạnh đã thu hút lao động từ nông thôn ra thành thị kiếm việc làm. Vì vậy, sau đổi mới Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Tp. Hồ Chí Minh đều có sự gia tăng dân số đột ngột, đặc biệt là Tp. Hồ Chí Minh. Theo điều tra của các nhà xã hội học, mỗi ngày có hàng trăm người đủ các thành phần trí thức đến công nhân, nông dân đủ mọi lứa tuổi từ cụ già đến em nhỏ khắp các địa phương trong nước đổ về thành phố với ước muốn khác nhau: Tìm kiếm công ăn việc làm, thăng quan tiến chức, tìm đất dụng võ… Do đó đã làm cho sự gia tăng dân số cơ học của Tp. Hồ Chí Minh vượt trội so với các thành phố khác. Năm 1980 Tp. Hồ Chí Minh có khoảng 3.202.000 người. Năm 1990 là 4.005.000 người và đến năm 2000 là hơn 6.000.000 người. Nếu xét về dân nhập cư: năm 1996 có khoảng 600.000 người. Trong khi tỷ lệ tăng tự nhiên của thành phố chỉ khoảng 1,5% mỗi năm thì tăng dân số cơ học lên đến 2%. Sự gia tăng dân số nhanh đã làm cho mật độ dân số quá đông. Bình quân là 23.800 người/ km2. Trong thực tế lên tới 35.900 người/ km2. Một số quận trung tâm mật độ còn cao hơn: ở quận 5 là 52.900 người/ km2, các quận ven nội mật độ dân thấp hơn; Gò Vấp mật độ dân số cao nhất là 29.945 người/ km2 (phường 1). Dần dần, các quận nội ô tô trở nên quá tải, di dân nông thôn – thành thị bành trướng về các quận ven. Trong 600.000 người nhập cư năm 1996 có 65.609 người tạm trú ở Thủ Đức, tập trung tại một số phường như Phước Bình: 2.426 người, Hiệp Bình Chánh: 5.816 người. Phường 26 quận Bình Thạnh có 4.283 người; phường 12 (Bình Thạnh) có 7.576 người (1). Ngoài bộ phận dân nhập cư từ nông thôn đến, ven đô còn là nơi giãn dân của nội thành. Với chính sách chỉnh trang đô thị, giải phóng nhà ổ chuột, nhà trên kênh rạch của thành phố, ven đô đã tiếp nhận thêm một bộ phận dân cư từ các quận nội thành chuyển ra. Sau đó là những người dân giàu có từ các quận trung tâm cũng tìm đến ven đô để tậu đất, tậu nhà xây dựng biệt thực làm nơi thư giãn cuối tuần hoặc vào các ngày tết, lễ. Hơn nữa, cùng với sự xuất hiện ngày càng nhiều các cơ sở công nghiệp, xí nghiệp liên doanh với nước ngoài ở ven càng nhiều. Chủ yếu là dân di cư từ nông thôn ra thành thị làm các nghề thợ hồ, may mặc, dệt da, chế biến lương thực, thực phẩm. Tất cả những yếu tố trên đã góp phần làm cho dân số ven đô tăng lên nhanh chóng (xem bảng 1) Bảng 1. Sự biến động dân số của ven đô Tp. Hồ Chí Minh qua các thời kỳ Năm 1979 1991 1994 1999 Dân số Mật độ Dân số Mật độ Dân số Mật độ Dân số Mật độ (nghìn (người/k (nghìn (người/ (nghìn (người/ (nghìn (người/ Quận người) m2) người) km2) người) km2) người) km2) Tân Bình 264.315 6.955 349.000 9.065 404.993 10.519 581.838 15.113 Bình Thạnh 299.640 12.118 333.000 16.244 385.172 18.788 404.147 19.714 Gò Vấp 199.302 6.768 170.000 8.854 196.836 10.252 308.816 15.926 Quận 8 213.470 11.415 264.000 14.043 302.613 16.096 33.418 154.575 Nhà Bè 97.450 731 127.000 939 147.783 1.092 63.450 645 Bình Chánh 164.953 558 211.000 691 244.381 800 334.010 1.101 Thủ Đức 239.078 1.142 311.000 1.480 362.136 1.722 210.605 4.388 (Nguồn: Niên giám thống kê Tp. Hồ Chí Minh) Có thể nói rằng áp lực về dân số ngoài yếu tố tích cực là cung cấp lực lượng lao động dồi dào cho Tp. Hồ Chí Minh, nó cũng đặt ra nhiều vấn đề bức xúc mà quân ven cần phải xem xét giải quyết như vấn đề lao động - việc làm, nhà ở, tệ nạn xã hội… 2.2 Sự chuyển biến về cơ cấu kinh tế Nét nổi bậc trong quá trình đô thị hoá của ven đô Tp. Hồ Chí Minh là sự chuyển dịch về cơ cấu kinh tế. Sau giải phóng, các quận, huyện ven bước ra khỏi cuộc chiến tranh với một thực trạng nền kinh tế nghèo nàn. Cơ sở hạ tầng yếu kém, đường sá chủ yếu là đường đất đỏ, các cơ sở sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp nhỏ bé. Sản xuất nông nghiệp lạc hậu và đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Để tiến lên chủ nghĩa xã hội cùng với cả nước, thời kỳ sau 1975 đến những năm 1980 các tỉnh phía Nam cũng như Tp. Hồ Chí Minh và các quận ven đã ra sức khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế ổn định đời sống nhân dân. Nhiệm vụ trọng tâm của thành phố và các quận ven lúc này là tập trung cải tạo XHCN đối với các thành phần kinh tế, xoá bỏ xếp lại cơ sở sản xuất. Đối với các xí nghiệp công nghiệp tư sản mại bản, Nhà nước tịch thu chuyển thành xí nghiệp quốc doanh do nhà nước quản lý. Với phần lớn các xí nghiệp khác của tư sản, Nhà nước áp dụng hình thức công tư hợp doanh. Thực chất cũng chuyển sang nhà nước quảng lý. Các cơ sở tiểu thủ công nghiệp tổ chức thành các hợp tác xã, tổ hợp. Về thương nghiệp, thành lập mạng lưới thương nghiệp hợp tác xã. Một số chuyển sang trực tiếp sản xuất. Đối với nông nghiệp, thực hiện chính sách khai hoang phục hoá và phát triển theo con đường hợp tác hoá, thành lập đoàn sản xuất. Khôi phục kinh tế, sắp xếp lại sản xuất sau chiến tranh là một nhiệm vụ hết sức nặng nề đối với ven đô thành phố. Mặt khác, việc xoá bỏ các thành phần kinh tế đã kìm hãm sức sản xuất vốn có của các quận huyện ven đô Tp. Hồ Chí Minh, làm cho sản xuất chậm phát triển. Nền kinh tế ven đô thời kỳ này về cơ bản nông nghiệp vẫn chiếm vị trí quan trọng trong đời sống người dân, mặc dù diện tích nông nghiệp có giảm dần. Từ 1986 đến nay, Đảng và Nhà nước đã ban hành chính sách đổi mới, khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, năng lực sản xuất được cải thiện, kinh tế đất nước đã phát triển mạnh mẽ, tăng trưởng kinh tế nhanh chóng. Trong bối cảnh chung ấy, dưới sự chỉ đạo của thành uỷ, Ủy ban nhân dân thành phố, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân ven đô đã tự cho mình một hướng đi thích hợp với thực lực kinh tế của từng quận. Vì vậy, từ sau 1986 đến nay kinh tế các quận ven đã phát triển nhanh chóng theo xu hướng chung là công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp – thương mại - dịch vụ ngày càng chiếm vị trí then chốt. Sản xuất nông nghiệp giảm dân về diện tích và ngày càng đi vào chuyên canh, sản xuất theo kiểu hàng hoá. Trong đó thế mạnh của từng quận được phát huy như Tân Bình nặng về phát triển (TTCN) – xây dựng cơ bản – thương mại, Bình Thạnh thiên về thương mại – du lịch - dịch vụ sau đó là CN – TTCN.. Trong công nghiệp, số lượng cơ sở sản xuất ngày càng tăng, máy móc trang thiết bị ngày càng hiện đại. Quy mô sản xuất ngày càng mở rộng. Ngoài sự hợp tác với các cơ sở sản xuất trong nước còn có sự liên doanh liên kết với nước ngoài và hình thành khu công nghiệp lớn như khu công nghiệp Bình Hoà (Bình Thạnh), khu chế xuất Linh Trung (Thủ Đức), khu chế xuất Tân Thuận (Nhà Bè). Khu công nghiệp Tân Thới Hiệp (Quận 12). Tốc độ tăng trưởng của các giá trị sản lượng công nghiệp - dịch vụ ngày càng cao và giữ vị trí then chốt trong toàn bộ nền kinh tế của các quận ven (xem bảng 2). Bảng 2: Tốc độ tăng trưởng của các giá trị sản lượng chia theo khu vực kinh tế của quận Bình Thạnh, Tân Bình Đơn vị tính: triệu đồng Quận Bình Thạnh Tân Bình Khu vực sản xuất 1990 1995 2000 1990 1995 2000 Nông, lâm ngư nghiệp 4.184 2.208 1.678 5.104 3.460 2.715 CN – TTCN 26.661 89.456 215.758 254.254 520.000 1.180.000 TN – DV 68.456 324.448 808.323 980.000 980.000 3.000.000 (Nguồn: Quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội quận Bình Thạnh, Tân Bình thời kỳ 1996 – 2000) Do tăng trưởng trong khu vực công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và thương mại - dịch vụ cao, thu nhập của người lao động trong khu vực này cũng cao hơn hẳn so với lao động ở khu vực nông nghiệp. Theo số liệu điều tra mức sống của dân Việt Nam năm 1997, những người lao động trong khu vực thương mại - dịch vụ có thu nhập gấp 10,15 lần so với những người lao động trong khu vực nông nghiệp. Chính vì vậy đã tạo nên sức hút mạnh mẽ đối với lao động khu vực phi sản xuất nông nghiệp. Trong khi lao động nông nghiệp giảm, lao động khu vực CN – TTCN, thương mại - dịch vụ tăng (xem bảng 3). Bảng 3: Lao động trong các khu vực của một số quận ven. Năm 1995 Quận Bình Thạnh Tân Bình Gò Vấp Nghìn % Nghìn % Nghìn % Khu lao động người người người Khu vực nông, lâm, ngư nghiệp 2.470 1.51 1.508 0.69 5.638 5.7 Khu vực CN – TTCN 52.915 33.7 45.000 20.49 12.509 12.9 Khu vực thương mại - dịch vụ 47.447 30.2 27.500 12.52 7.614 7.8 (Nguồn: - Quy hoạch phát triển xã hội quận Bình Thạnh, Tân Bình thời kỳ 1996 – 2000 - Gò Vấp 25 năm xây dựng, đổi mới và phát triển 1976 – 2000) Về sản xuất nông nghiệp, diện tích sản xuất nông nghiệp ở các quận ven giảm nhanh (Xem bảng 4). Bảng 4: Diện tích đất nông nghiệp của một số quận ven qua các thời kỳ N ăm 1985 1990 1995 1999 – 2000 Quận Diện tích: ha Diện tích: ha Diện tích: ha Diện tích: ha Bình Thạnh 653 503 233 150 (2000) Tân Bình - 734.7 367 170 (2000) Gò Vấp 727.9 697 610.9 540 (1999) (Nguồn: Niên giám thống kê của các quận) Diện tích đất nông nghiệp ở các quận ven giảm sút do nhiều nguyên nhân. Trước hết là do tốc độ đô thị hoá nhanh, đất nông nghiệp đã bị sử dụng vào mục đích khác như: xây cất nhà máy xí nghiệp, xây dựng nhà ở, công trình phúc lợi. Một số là do những cư dân giàu có mua bán sang nhượng chiếm giữ đất lưu thông khá nhiều, và vì sản xuất nông nghiệp thu nhập thấp, bấp bênh làm cho nhiều hộ nông dân chuyển sang kinh doanh bằng nghề khác. Trong ngành nông nghiệp xu hướng chung là diện tích trồng lúa, màu và cây công nghiệp giảm. Diện tích chuyên canh tăng. Tại quận 12, năm 1998 diện tích trồng lúa giảm 178 ha, diện tích trồng rau xanh giảm 474 ha, diện tích trồng cây công nghiệp giảm 274, diện tích trồng hoa kiểng tăng. Riêng năm 1998 quận 12 có hơn 187 ha trồng hoa kiểng. Ở Gò Vấp năm 1976 có 50 ha trồng hoa, năm 1985 có 73 ha, năm 1998 có 98 ha và năm 1999 lên tới 116 ha. Điều đáng phấn khởi là chăn nuôi phát triển theo chiều hướng mới. Ngoài chăn nuôi heo bò, nông dân đã tiếp cận với khoa học kỹ thuật chăn nuôi cá giống, cá kiểng, ba ba, cá sấu. Có những gia đình nông dân đã thu nhập rất cao từ những nghề này. 2.3 Tình hình cơ sở hạ tầng đô thị Như đã trình bày, đặc điểm chung của các quận ven sau giải phóng là cơ sở hạ tầng nghèo nàn, yếu kém. Trong quá trình đô thị hoá việc gia tăng dân số đã kéo theo tình trạng lấn chiếm lòng lề đường, cơ sở hạ tầng đô thị xuống cấp nhanh chóng. Những năm sau đổi mới, khi kinh tế phát triển, hầu hết các quận ven đều chăm lo đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng: như làm mới nâng cấp sửa chữa đường giao thông: đường Phan Văn Trị, Đinh Bộ Lĩnh, Điện Biên Phủ (quận Bình Thạnh), đường Nguyễn Thái Sơn, Nguyễn Văn Lượng, Nguyễn Oanh (Gò Vấp), đường liên phường 10 – 19 – 18, nút giao thông Bà Quẹo (Tân Bình). Hệ thống cấp thoát nước được chú ý nạo vét: nạo vét, xây kè kênh Nhiêu Lộc, kênh Tham Lương, hệ thống cống xả được khôi phục… Ngoài ra các quận đều chú ý lắp đặt thêm đường ống nước sạch, cải tạo lưới điện trung thế, hạ thế cho các khu dân cư… Đặc biệt là các quận quan tâm xây dựng mở mang trường học, bệnh viện, khu công thự, nhà ở, khu vui chơi nhằm cải thiện đời sống nhân dân. Một số quận đã thực hiện chương trình nhà ở cho người nghèo. Riêng Bình Thạnh từ năm 1994 – 1999 đã xây dựng hoàn chỉnh khoảng 1000 căn hộ tại các khu chung cư để phục vụ cho việc giải toả kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè và nhà ở cho người có thu nhập thấp… Tính đến năm 1995 Tp. Hồ Chí Minh dẫn đầu cả nước về tốc độ xâu dựng nhà ở: 2.618.640 m2. Dự tính đến năm 2010 thành phố sẽ đầu tư xây dựng 9 khu dân cư với diện tích 8.450 ha, tổng diện tích xây dựng nhà: 67 triệu m2. Tổng vốn đầu tư ước tính 161 nghìn tỷ đồng (4). Kết quả sau 10 năm đô thị hoá, nhiều khu đô thị mới xuất hiện: Khu thương mại chợ Bà Chiểu, khu dân cư công nghiệp Bình Hoà (Bình Thạnh), khu ngã 6, khu căn cứ 26, khu chợ Tân Sơn Nhất (Gò Vấp), khu công nghiệp phường 20, khu dân cư Tân Trụ, khu cư xá Nhiêu Lộc, khu công nghiệp tập trung phường 15 – 16 (Tân Bình). Các công trình văn hoá du lịch được xây dựng với quy mô lớn, thu hút nhiều khách tham quan như: khu Văn Thánh, Bình Quới, Thanh Đa, Suối Tiên. Các khu chung cư mới như: Xóm Cải, Xóm Đầm, Thị Nghè xuất hiện thay thế dần các khu nhà ở tồi tàn lụp xụp. Với những chuyển biến về kinh tế xã hội như đã nêu, quận ven đã dần chuyển hoá thành nội ô, các huyện ngoại thành chuyển biến thành vùng ven. Đến năm 1997 một số quận mới được hình thành, bao gồm: Quận 12 được tách ra từ huyện Hóc Môn, quận 7 được tách ra từ huyện Nhà Bè, quận 2, quận 9, quận Thủ Đức được tách ra từ huyện Thủ Đức. 2.4 Sự chuyển biến về tâm lý - lối sống của cư dân đô thị Trước những thay đổi về kinh tế - xã hội đời sống vật chất, tinh thần của người dân đô thị được nâng cao. Mở cửa hội nhập và giao lưu làm cho người dân ven đô tiếp cận nhiều điều mới lạ. Họ học tập được kinh nghiệm làm ăn sinh sống của dân cư các vùng khác đến. Tiếp cận với khoa học kỹ thuật, với cung cách làm ăn mới, nhận thức họ mở mang, giao tiếp ứng xử tế nhị, lịch lãm hơn, tự tin hơn. Những phong tục tập quán lạc hậu, tuỳ tiện được rũ bỏ dần. Ngày nay, thanh niên vùng ven đã quen với lối sống mới, với các tác phong công nghiệp. Họ lao vào học tập văn hoá, rèn luyện tay nghề, làm việc có năng suất, chất lượng hơn, chính vì thuế thu nhập cũng cao hơn. Mức độ chi tiêu cũng tăng lên. Theo số liệu thống kê của phòng Thống kê quận Gò Vấp cho thấy chi tiêu bình quân đầu người tăng dần: Năm Năm 1985 Năm 1995 Năm 1999 Năm 2000 Số tiền: đồng/ 201.346 đ 386.084 đ 496.297 đ 560.000 đ người/ tháng Ở Tân Bình: Năm 1995 là 290.000đ/ người/ tháng. Năm 2000 là 460.000đ/ người/ tháng. Việc chi tiêu cũng hợp lý hơn. Tỷ lệ chi cho nhà, thiết bị, đồ dùng tăng, chi phí cho ăn uống giảm. Ngược lại, một bộ phận dân cư làm ăn phát đạt hoặc được đền bù giải toả, bán đất, bán nhà … có thu nhập cao đã xuất hiện tâm lý ăn chơi, hưởng thụ, chạy đua theo mốt… Một số người do nhận thức không đầy đủ đã quá đề cao giá trị đồng tiến, đôi lúc, vì đồng tiền đã chà đạp lên nhân phẩm của người thân trong gia đình, anh em họ hàng, tình làng nghĩa xóm phai lạt. 3. MỘT SỐ TỒN TẠI VÀ GIẢI PHÁP 3.1 Tồn tại: -Vấn đề di dân nông thôn – thành thị và gia tăng dân số cơ học. Gia tăng dân số trong quá trình đô thị hoá ven đô Tp. Hồ Chí Minh đã đặt ra những vấn đề nan giải về giải quyết công ăn việc làm, thất nghiệp tại chỗ, nhà ở và tệ nạn xã hội làm cho trật tự xã hội ven đô ngày càng thêm phức tạp. - Tình trạng thất học, thất nghiệp và phân hoá giàu nghèo. Trong quá trình đô thị hoá hội nhập và phát triển, người dân đô thị cần có trình độ văn hoá tay nghề cao để tiếp cận với khoa học kỹ thuật – công nghệ và đáp ứng với nhu cầu tuyển dụng lao động. Song thực tế cho thấy ven đô thành phố còn nhiều người thất học. Theo số liệu thống kê của Sở Lao động – Thương binh xã hội Thành phố, năm 1995 ngoại thành có gần 755.000 người trong hạn tuổi lao động. Số không có việc làm và làm việc không ổn định gần 99.000, tính bình quân mỗi huyện có từ 12.000 đến 15.000 người chưa có việc làm, hầu hết không có nghề chuyên môn và trình độ học vấn bình quân lớp 7/ 12. Nhà Bè có gần 60.000 người trong độ tuổi từ 15 đến 34, trong đó có khoảng 3000 ngườI không biết chữ, 4000 người không qua lớp 5, 20.000 người chưa học hết cấp Trung học cơ sở (5). Vì vậy, khu chế xuất Tân Thuận đóng trên địa bàn Nhà Bè rất cần tuyển công nhân nhưng thực tế số người dân Nhà Bè được tuyển vào rất ít. Thất học, thất nghiệp, đói nghèo sẽ dẫn đến phân tầng xã hội và phân hoá giai cấp. Đây là sự bất ổn đối với mong muốn phát triển một xã hội đô thị công bằng, ổn định và văn minh của nhân dân ta. - Vấn đề ô nhiễm môi trường: Tại các quận, huyện ven việc chiếm dụng đất công, san lấp mặt bằng, kênh rạch lấn chiếm lòng đề đường để làm nhà và xậy dựng trái phép đang diễn ra hàng ngày làm cản trở đến việc tiêu, thoát đô thị. Ở quận 12 sông Vàm Thuật bị lấp chiếm hơn 1.500 m2 vi phạm tuyến hành lang giao thông đường thuỷ. Kênh Tân Trụ (Phường 17 – Tân Bình) bị san lấp xây nhà với quy mô lớn. Điều đó đã làm cho nước ngập úng nhà dân sau mỗi cơn mưa, ảnh hưởng đến sinh hoạt của nhân dân và môi trường đô thị. Ô nhiễm môi trường còn do lượng người nhập cư quá đông, trình độ học vấn có hạn, quen với lối sống tiểu nông, tuỳ tiện vứt xác động vật, vứt rác ra đường, ra các mảnh đất lưu không xen lẫn trong khu dân cư. Mức sống cao cũng góp phần làm ô nhiễm môi trường. Rác thải trong mỗi gia đình, khu phố ngày càng nhiều nếu không được xử lý tốt, vi trùng sẽ sinh sôi nảy nở, bệnh tật sẽ dễ dàng lây lan… Ô nhiễm môi trường luôn luôn gắn liền với ô nhiễm nguồn nước. Trong khi tại Tp. Hồ Chí Minh có hơn 6 triệu người; hơn 1 triệu hộ dân chỉ có 300.000 đồng hồ nước. Ở các đô thị lớn như: Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng tỷ lệ cấp nước sạch chỉ đạt tới 60 – 70%. Ô nhiễm nguồn nước là vấn đề hết sức bức xúc đối với ven đô Tp. Hồ Chí Minh. Bởi vì đa số người dân vùng ven đều dùng nước máy tự khoan chưa qua kiểm nghiệm và không qua xử lý. - Vấn đề nhà ở và quản lý trật tự an toàn xã hội ở đô thị. Nhìn chung hầu hết ở các đô thị hiện nay đều xảy ra tình trạng thiếu nhà ở. Đặc biệt là dân nghèo đô thị và những người mới nhập cư vào thành phố. Cho nên một số người đã bất chấp những quy định về quản lý đô thị. Nhiều hộ tự ý san lấp, lấn chiếm, sang nhượng đất để xây nhà một cách tạm bợ, tuỳ tiên. Việt xây cất không theo quy hoạch làm xuất hiện “Nhà không số, phố không tên” chen lấn hỗn độn. Đường đi lối đi lại tối tăm, quanh co. Do đó tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng hình sự lẫn trốn pháp luật. Theo số liệu năm 1999 của Cục Thống Kê Tp. Hồ Chí Minh, tệ nạn xã hội ở thành phố ngày càng tăng, nhất là ở lứa tuổi thanh thiếu niên (chiếm trên 80% vụ phạm pháp hình sự). Địa bàn có số vụ phạm pháp hình sự cao là quận Tân Bình và quân Bình Thạnh. Mặt khác, xây cất không theo quy hoạch đã ảnh hưởng đến mỹ quan của thành phố. Chắc chắn điều đó sẽ ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển thành phố trường tồn bền vững. 3.2 Giải pháp: Để hạn chế những yếu tố tiêu cực trong quá trình đô thị hoá ven đô Tp. Hồ Chí Minh, thiết nghĩ còn nhiều vấn đề cần giải quyết, trước mắt cần xem xét một số mặt sau đây: - Tăng cường đầu tư cho giáo dục nhằm nâng cao bằng dân trí, nâng cao nhận thức của người dân. Đồng thời đó là biện pháp tốt nhất để giải quyết vấn đề lao động, việc làm để đảm bảo cho người dân ven đô được làm việc có thu nhập ổn định, làm chủ cuộc sống của mình tránh mọi phiền toái cho xã hội. - Hạn chế và quản lý tốt hơn đối với dân nhập cư, góp phần lập lại trật tự xã hội đảm bảo cho việc xây dựng xã hội đô thị ổn định, bền vững. - Tăng cường giáo dục nếp sống văn minh, gia đình văn hoá mới đối với cư dân đô thị, hạn chế những hành vi xấu làm ảnh hưởng đến lối sống văn mình lịch sự của cư dân đô thị. - Đổi mới trong lĩnh vực quản lý nhà đất đô thị. Tăng cường các biện pháp quản lý đất đô thị một cách hữu hiệu nhằm giữ gìn bảo vệ nguồn tài nguyên quý giá của đô thị đảm bảo cho việc quy hoạch, phát triển đô thị lâu dài. URBANIZATION PROCESS IN THE OUTSKIRTS OF HO CHI MINH CITY SINCE THE RENOVATION NGUYEN THI THUY Urbaniztion is a process of urban development towards more and more modern civilized. The space of urban centre has been increasingly expanded. From having renovated up to now, the process of urbanization has been happening in almost big cities in Vietnam such as Ha Noi, Hai Phong, Ho Chi Minh city. In Ho Chi Minh city, urbanization has happened strongly. It’s a big pressure to the urbanization in surrounding districts of Ho Chi Minh city. In this article, the author would like to introduce some points of urbanization in surrounding districts of Ho Chi Minh city during ten years after renovation (1986 – 1996). CHÚ THÍCH (1) Báo Tuổi trẻ ngày 18/ 6/ 1996. (2) Báo cáo số 06/ BC – UB ngày 15/ 1/ 1999 của UBND quận 12. (3) Gò Vấp 25 năm xây dựng, đổi mới và phát triển (1976 – 2000). Phòng Thống kê quận Gò Vấp. (4) Xem Chương trình phát triển và quản lý đô thị 5 năm (1996 – 2000). TS. Trịnh Duy Luân. HN, 1996. (5) Báo Sài Gòn giải phóng 27/ 9/ 1995. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Xây dựng: Đô thị Việt Nam tập 1; NXB Xây dựng, Hà Nội, 1995. 2. Bộ Xây dựng: Định hướng phát triển cấp nước đô thị đến năm 2020; NXB Xây dựng, Hà Nội, 1999. 3. Ban Thường vụ thành uỷ Tp. Hồ Chí Minh: Thành phố Hồ Chí Minh 20 năm (1975 – 1995); NXB Tp. Hồ Chí Minh, 1997. 4. Ban chấp hành Đảng Bộ huyện Củ Chi: Củ Chi 20 năm xây dựng và phát triển; NXB Trẻ, 1995. 5. Ban Thường vụ quận ủy quận Gò Vấp: Gò Vấp 20 năm xây dựng và phát triển. 6. G.S Trần Văn Bính (chủ biên): Văn hoá trong quá trình đô thị hoá ở nước ta hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, 1998. 7. T.S Trịnh Duy Luân: Chương trình phát triển và quản lý đô thị 5 năm (1996 – 2000), 1996. 8. Niên giám Thống kê Tp. Hồ Chí Minh: 1991, 1992, 1995, 1996. 9. Trần Văn Dụ: Đảng bộ Gò Vấp lãnh đạo thực hiện kinh tế nhiều thành phần giai đoạn 1986 – 1996. Luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử HN, 1998. 10. G.S Mạc Đường: Lịch sử và con người quận 8, Tp. Hồ Chí Minh, 1991. 11. Lịch sử quận Gò Vấp Tp. Hồ Chí Minh (sơ khảo); NXB Khoa học xã hội, 1994. 12. Quy hoạch tổng thể quận Bình Thạnh thời kỳ 1996 – 2010. 13. Quy hoạch tổng thể quận Tân Bình thời kỳ 1996 – 2010. 14. Tôn Nữ Quỳnh Trân: Văn hoá làng xã trước sự thách thức của đô thị hoá tại Tp. Hồ Chí Minh, NXB Trẻ 1999. 15. Trung tâm nghiên cứu Đông Nam Á. Viện KHXH tại Tp. Hồ Chí Minh: Môi trường nhân văn và đô thị hoá tại Việt Nam, Đông Nam Á và Nhật Bản; NXB Tp. Hồ Chí Minh, 1997. 16. Gò Vấp 25 năm xây dựng, đổi mới và phát triển (1976 – 2000). Phòng Thống kê quận Gò Vấp 2000.
DMCA.com Protection Status Copyright by webtailieu.net