Trận thủy chiến Rạch Gầm-Xoài Mút (1785)
Trận Rạch Gầm-Xoài Mút là một trận chiến lớn trên sông diễn ra vào
đêm 19 rạng 20 tháng 1 năm 1785 giữa liên quân Xiêm-Nguyễn và quân
Tây Sơn tại khúc sông Rạch Gầm-Xoài Mút, khi đó thuộc dinh Trấn
Định[3], xứ Đàng Trong, nước Đại Việt; nay thuộc Tiền Giang, Việt Nam.
Trận thủy chiến Rạch Gầm-Xoài Mút (1785)
Trận Rạch Gầm-Xoài Mút là một trận chiến lớn trên sông diễn ra vào
đêm 19 rạng 20 tháng 1 năm 1785 giữa liên quân Xiêm-Nguyễn và quân
Tây Sơn tại khúc sông Rạch Gầm-Xoài Mút, khi đó thuộc dinh Trấn
Định[3], xứ Đàng Trong, nước Đại Việt; nay thuộc Tiền Giang, Việt Nam.
1. Nguyên nhân
Năm 1771, ba anh em Tây Sơn là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn
Lữ, nổi lên chống chúa Nguyễn. Sau khi hai chúa Nguyễn bị giết năm
1777, chúa mới là Nguyễn Ánh cũng bị Tây Sơn đánh thua nhiều lần. Tuy
nhiên, vị chúa này vẫn cố tập hợp lại lực lượng ở Gia Định để khôi phục.
Tháng 2 năm Quý Mão (1783), Nguyễn Nhạc sai hai em là Nguyễn Huệ và
Nguyễn Lữ mang quân vào Nam. Tướng nguyễn là Châu Văn Tiếp dùng
hỏa công chống lại nhưng bị trở gió nên thua trận. Chúa Nguyễn Ánh phải
chạy xuống Ba Giồng (Định Tường), còn Châu Văn Tiếp phải men theo
đường núi qua Cao Miên rồi qua Xiêm cầu viện.
Nước Xiêm lúc bấy giờ ở dưới triều vua Chất Tri đương lúc thịnh vượng
và đang nuôi tham vọng chiếm lấy Cao Miên và Gia Định để mở rộng bờ
cõi. Khi nghe Châu Văn Tiếp - một bề tôi thân tín của chúa Nguyễn - đến
cầu cứu, vua Xiêm liền đồng ý.
Được hứa hẹn, Châu Văn Tiếp gửi ngay mật thư báo tin cho chúa
Nguyễn. Sau khi hội đàm với tướng Xiêm tên là Thát Xỉ Đa tại Cà Mau,
vào tháng Hai năm Giáp Thìn (1784), chúa Nguyễn sang Vọng Các hội
kiến với vua Xiêm. Được tiếp đãi và giúp đỡ, chúa Nguyễn tổ chức lại
lực lượng.
2. Lực lượng
2.1 Liên quân Xiêm-Nguyễn
Cuối tháng 7 năm 1784[4], vua Xiêm sai hai người cháu, cũng là hai viên
tướng cao cấp là Chiêu Tăng và Chiêu Sương[5], đem 2 vạn quân thủy cùng
300 chiến thuyền vượt vịnh Xiêm La, qua ngả Kiên Giang, sang giúp.
Nhưng theo Mạc Thị gia phả của Vũ Thế Dinh[6]và Biên niên sử Chân Lạp
thì ngoài số quân trên, còn có đạo bộ binh gồm khoảng 3 vạn quân bộ, do
các tướng Lục Côn, Sạ Uyển, Chiêu Thùy Biện[7]chỉ huy tiến sang Chân
Lạp (tức Cao Miên) với danh nghĩa giúp vua nước này; để rồi từ đó, tiến
qua ngả Châu Đốc (nay thuộc An Giang), phối hợp cùng thủy binh của
Chiêu Tăng và Chiêu Sương.
Tuy nhiên, chính sử của triều Nguyễn như Đại Nam thực lục, Đại Nam
chính biến liệt truyện và một số tác phẩm khác như Gia Định thành thông
chí của Trịnh Hoài Đức, Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, Việt sử
tân biên (quyển 3) của Phạm Văn Sơn… đều chép số quân Xiêm chỉ có 2
vạn. Cho nên, vấn đề này cần phải tra cứu thêm.
Phần quân Nguyễn gồm các quân tướng đi theo phò chúa Nguyễn, số
người Việt lưu vong ở Xiêm, cùng một số còn đang ẩn náu ở Nam Bộ;
gộp chung được khoảng 3, 4 nghìn người. Chúa Nguyễn cử Châu Văn
Tiếp làm Bình Tây đại đô đốc, Mạc Tử Sanh (con Mạc Thiên Tứ) làm
Tham tướng, để cùng dẫn quân Xiêm về nước đánh nhau với quân Tây
Sơn...
2.2 Quân Tây Sơn
Hiện vẫn còn nhiều con số khác nhau. Theo sách Nhà Tây Sơn, thì quân
của Phò mã Trương Văn Đa không quá 1 vạn, đại quân do tướng Nguyễn
Huệ chỉ huy ước khoảng 2 vạn, như vậy tổng cộng có khoảng 3 vạn quân
Tây Sơn[8].
Nhưng theo sách Một số trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử dân
tộc [9] thì tổng số quân Tây Sơn ở Gia Định - kể cả quân đồn trú của
Trương Văn Đa và đoàn binh thuyền mới được tăng cường của Nguyễn
Huệ - chỉ khoảng 2 vạn. Nhưng về trang bị vũ khí, nhất là súng đại bác,
quân Tây Sơn không hề thua kém quân Xiêm[10].
Về con số Vũ Thế Dinh đưa ra "riêng thủy quân của Nguyễn Huệ đã 5
vạn" (Mạc Thị gia phả), nhóm tác giả quyển sách trên không đồng tình, vì
lẽ: Con số này không phù hợp với lực lượng và tình hình quân Tây Sơn lúc
đó. Từ khi khởi nghĩa năm 1771 cho đến cuộc tiếu công ra Bắc năm 1786,
chưa có chiến địch nào quân Tây Sơn huy động đến 3 vạn quân...Vũ Thế
Dinh là một võ quan tin cẩn của Nguyễn Ánh,lẽ dĩ nhiên tác giả đã thổi
phồng quân số Tây Sơn để giảm bớt thất bại của quân Xiêm và quân
Nguyễn.
3. Diễn biến
3.1 Trước trận chính
Tháng 7 năm 1784, thủy quân Xiêm đổ bộ lên đánh lấy Rạch Giá (thuộc
đạo Kiên Giang), tiến đánh quân Tây Sơn của Đô đốc Nguyễn Hóa ở Trấn
Giang (Cần Thơ), tiến chiếm các miền Ba Thắc (Srok Pra-sak), Trà Ôn, Sa
Đéc, Mân Thít (hay Mang thít, Man Thiết) rồi chia quân đóng giữ. Tướng
Tây Sơn là Trương Văn Đa liền đem quân thủy từ Gia Định tiến xuống
Long Hồ (Vĩnh Long) để cản ngăn.
Ngày 30 tháng 11 năm 1784, Đại đô đốc Chu Văn Tiếp, vì thông thạo địa
hình, nên dẫn quân đi trước. Ông cho quân vào sông Mân Thít, bị Tiền
quân Chưởng cơ Tây Sơn tên là Bảo (Chưởng tiền Bảo) dẫn quân ra
đánh, vây được tiền quân của Chu Văn Tiếp, và giết chết được viên
tướng này. Mất đại tướng, chúa Nguyễn Ánh liền cho quân đánh gấp vào
cứu viện, chém chết Chưởng tiền Bảo cùng nhiều quân Tây Sơn. Xét
thấy quân ít, không chống chọi được, Trương Văn Đa cho quân lui về giữ
Long Hồ.
Chu Văn Tiếp tử trận, Lê Văn Quân được cử lên thay, liền cho quân tiến
đánh lũy Ba Lai (Bến Tre) và Trà Tân (Định Tường). Trong trận Ba Lai,
Chưởng cơ quân Nguyễn là Đặng Văn Lượng bị tướng Tây Sơn là
Nguyễn Văn Kim chém chết, tướng Lê Văn Quân cũng bị Lê Văn Kế
chém trọng thương. Kể từ đó, bộ chỉ huy liên quân cho quân đóng dọc theo
sông Tiền, từ cù lao Năm Thôn trở lên hướng Mỹ Tho và đặt đại bản
doanh tại Trà Tân[11].
Cuối năm 1784, Trương Văn Đa sai Đô úy Đặng Văn Trấn về Quy Nhơn
báo rõ tình hình nguy cấp ở phía Nam, vua Thái Đức (Nguyễn Nhạc) liền
cử Nguyễn Huệ làm tổng chỉ huy, cùng với các tướng là Võ Văn Dũng,
Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân, đem đại binh vào đánh dẹp.
Nguyễn Huệ dẫn quân xuống tàu nhưng lần này không vào Gia Định như
mấy lần trước, mà đi thẳng vào cửa sông Tiền kéo đến Mỹ Tho, vào
tháng Chạp năm Giáp Thìn (1784), rồi đặt đại bản doanh ở đây. Xong, ông
dùng lực lượng nhỏ đánh vài trận thăm dò, nhưng kết quả không khả
quan[12].
Sau, càng đóng quân lâu, thì mâu thuẫn giữa quân Nguyễn, quân Xiêm và
nhân dân Việt càng trở nên sâu sắc. Quân Xiêm cậy mình là kẻ cứu giúp
nên đàn áp, cướp bóc nhân dân, khinh mạn cả chúa Nguyễn và quân
Nguyễn[13]. Bởi vậy, trong thư đề ngày 25 tháng 1 năm 1785, chúa Nguyễn
Ánh đã than phiền với giáo sĩ J. Liot rằng:
Nay thì Xiêm binh tự do cướp giật, cưỡng hiếp phụ nữ, cướp bóc
tài sản, giết bừa không tha già trẻ. Vậy nên, "giặc" Tây Sơn ngày
một mạnh, thế quân Xiêm ngày một suy[14].
3.2 Trận chính
So sánh lực lượng, biết không thể nào đánh thẳng vào Sa Đéc hay Trà Tân
được, Nguyễn Huệ liền đi xem xét địa hình, thăm dò lòng dân ở đây và tìm
hiểu điểm mạnh, yếu của đối phương. Cuối cùng, ông quyết định chọn
khúc sông Mỹ Tho từ Rạch Gầm đến Xoài Mút[15], cách Mỹ Tho khoảng
12km, làm trận địa quyết chiến.
Một mặt Nguyễn Huệ giả vờ cho người đem nhiều của cải đến Trà Tân,
xin giảng hòa; mặt khác, ông giao Võ Văn Dũng chỉ huy thủy binh, vợ
chồng Trần Quang Diệu chỉ huy bộ binh, bí mật cho quân và tàu chiến ẩn
náu ở các nơi hiểm yếu, rồi mới cho quân đến khiêu khích.
Bị khiêu khích, Chiêu Tăng giao Sạ Uyển ở lại giữ đại bản doanh, cử Lục
Cổn dẫn bộ binh men theo tả ngạn sông Tiền để cùng phối họp; rồi ông
với tướng tiên phong là Chiêu Sương, dẫn hàng trăm thuyền chiến, tiến
xuống Mỹ Tho, nơi đặt đại bản doanh của Tây Sơn. Đêm 19 rạng 20
tháng 1 năm 1785[16](tức đêm mùng 9 rạng mùng 10 tháng 12 năm Giáp
Thìn), lợi dụng con nước đang xuôi, cả hai đạo thủy bộ cùng rầm rộ tấn
công…
Tuy nhiên, theo Nguyễn Khắc Thuần, dù lực lượng quân Xiêm rất hùng
hậu, chúa Nguyễn vẫn không tin sẽ dễ dàng đạt thắng lợi. Vì thế, mặc dù
bị chính Chiêu Tăng xui đi trước, vị chúa này vẫn cố tìm cách đi sau, cùng
một số bề tôi thân tín như Trần Phúc Giai, Nguyễn Văn Bình, Lê Văn
Duyệt... Như thế chưa đủ, ông còn mật cho Mạc Tử Sanh bố trí một lối
thoát riêng dành cho mình[17].
Tiên liệu trước, nên Nguyễn Huệ sai Võ Văn Dũng dùng một số thuyền
nhỏ tiến ra chống cự một lát thì bỏ chạy, nhử đối phương vào khúc sông
mai phục. Khi quân Xiêm lọt vào vòng vây, là lúc trời vừa tối và con nước
cũng vừa lên; tức thì pháo lệnh tấn công của Tây Sơn nổ vang. Từ hai bờ
sông Tiền (đoạn Rạch Gầm-Xoài Mút) và dọc bờ cù lao Thới Sơn, bãi
Tôn, cồn Bà Kiểu, Rừng Dừa,…các đại bác cùng pháo hỏa hổ của bộ
binh Tây Sơn bắn ra uy hiếp dữ dội. Đồng loạt, đoàn thuyền Tây Sơn từ
rạch Xoài Mút, Rạch Gầm, từ trong những nhánh rạch nhỏ chảy quanh
các cồn bãi, nhanh chóng kéo ra chặn đánh đầu. Một đoàn thuyền Tây Sơn
khác ẩn náu sau cù lao Thới Sơn, xông ra đánh mạnh vào hông (nhằm chia
cắt đội hình) và đánh chặn đường lui, dồn đoàn thuyền của đối phương
vào thế tiến thoái lưỡng nan. Cùng lúc ấy, quân Tây Sơn, cho những
thuyền nhẹ chở đầy những vật liệu dễ cháy đâm thẳng vào những chiến
thuyền đang rối loạn làm cho số bị chìm, số bị cháy...
Sách Nhà Tây Sơn kể:
Phần bị trước chặn đánh, sau đuổi đánh, phần bị hai bên hông và
trên đầu đại bác nã, phần thuyền va vào nhau, hàng ngũ rối loạn,
hết phương day trở, hết phương chống đỡ, thuyền địch (liên quân)
lớp bị tan vỡ, lớp bị bắn chìm không còn một chiếc. Quân sĩ lớp
nhảy xuống nước bị chết chìm, lớp bị giết chết, trăm phần không
còn được một, hai...Còn đạo bộ binh của giặc (Xiêm) đương đi
bỗng nghe tiếng đại bác nổ, liền dừng bước. Thình lình trong lau
lách phục binh của Tây Sơn vừa hét vừa xông ra. Lục Côn trở tay
không kịp, bị Bùi Thị Xuân chém một nhát bay đầu. Binh lính hết
hồn, đều bỏ chạy tán loạn.Nhưng sau lưng có quân đánh, hai bên tả
hữu có quân đánhNhưng sau lưng có quân đánh, hai bên tả hữu
cũng có quân đánh, chúng ùa nhau chạy về phía trước, nhảy ào vào
Rừng Dừa. Hai vạn binh Xiêm và số quân nhà Nguyễn, lớp bị đao
kiếm, lớp bị sình lầy, chết không còn một mống![18]
Trời vừa rạng sáng, thì chiến cuộc cũng vừa dứt. Vậy là 300 chiến thuyền
và 2 vạn thủy binh của Xiêm cùng một số quân của chúa Nguyễn, không
đầy một ngày, đã bị quân Tây Sơn phá tan. Hai tướng Chiêu Tăng, Chiêu
Sương chạy trốn về Sa Đéc, bị truy kích, lại hối hả cùng Sa Uyển dẫn vài
nghìn tàn quân chạy bộ sang Chân Lạp rồi về Xiêm[19].
Phía quân Nguyễn, Chưởng cơ Nguyễn Văn Oai tử trận. Nghe tin quân
mình đại bại, vua Xiêm tức giận nói rằng: Hai tên súc sinh (chỉ Chiêu
Tăng, Chiêu Sương) làm việc kiêu căng và hung hãn, dám vào sâu trong
đất giặc (chỉ Tây Sơn) mà không vâng mệnh Quốc vương (chỉ Nguyễn
Ánh), tàn hại dân của họ.[20]. Rồi cử ngay tướng Phi Nhã Xuân đem thêm
10 chiến thuyền đi cứu nguy. Nhưng, ông tướng này vừa xuất quân thì
cũng vừa thấy những tàn quân Xiêm đang chạy về, nên không tiến nữa [21].
3.3 Sau trận
Khi thấy quân Xiêm tháo chạy, Mạc Tử Sanh vội vã lấy thuyền chở
Nguyễn Ánh rời khỏi trận địa[22]. Các tướng chỉ huy quân Nguyễn như Lê
Văn Quân, Nguyễn Văn Thành, Tôn Thất Hội, Tôn Thất Huy...cũng dẫn
tàn quân chạy tháo thân mỗi người một ngả.
Bị truy đuổi gắt, Nguyễn Ánh phải bỏ thuyền, cùng 12 thuộc hạ (trong số
đó có Lê Văn Duyệt), chạy về Trấn Giang (Cần Thơ), rồi qua Rạch Giá.
Đến đây, theo Hoàng Việt hưng long chí, chúa Nguyễn cùng các bề tôi bị
quân Tây Sơn bắt được. Nghĩ đến cha ông ngày trước chịu ơn Nam triều,
viên chỉ huy quân Tây Sơn là Chưởng cơ Trân, ngay trong đêm ấy, đã tìm
cách thả[23].
Từ Đồng Vân, chúa Nguyễn và đoàn tùy tùng phải đi bộ về Trấn Giang.
Dọc đường lại bị quân Tây Sơn truy đuổi, nhờ có Cai đội Nguyễn Văn Trị
cõng chúa Nguyễn chạy trốn, rồi được Mạc Tử Sanh đem thuyền đến đón
kịp.
Trong lần chạy tháo thân này, Nguyễn Ánh và đoàn tùy tùng lại lâm vào
cảnh rất khổ sở, có lúc cạn cả lương ăn, tướng Nguyễn Văn Thành phải
đi ăn cướp, bị đánh trọng thương, suýt chết[24].
Ngày 25 tháng 1 năm 1785, chúa Nguyễn sai Mạc Tử Sanh và Cai cơ
Trung sang Xiêm báo tin thất trận. Sau đó, các tướng là Nguyễn Văn
Thành, Tôn Thất Huy, Tôn Thất Hội dẫn năm sáu chục người đến, rồi
đưa chúa Nguyễn ra đảo Thổ Chu. Chúa Nguyễn biết thế không mong
cậy được người Xiêm nữa, bèn giục giáo sĩ Bá Đa Lộc đem Nguyễn Phúc
Cảnh Hoàng tử Cảnh đi sang nước Pháp cầu viện.
Tháng 3, quân Tây Sơn tìm đến, chúa Nguyễn cùng với khoảng 200 quân
tướng[25]lại phải chạy sang đảo Cổ Cốt, rồi sang Xiêm, xin với vua Xiêm
cho ra ở Đồng Khoai, ngoại thành Vọng Các. Ở đây, đoàn Nguyễn Ánh lo
khẩn hoang, làm ruộng, đốn củi...để nuôi nhau.
Xét tội, vua Xiêm định hạ lệnh chém đầu Chiêu Tăng và Chiêu Sương,
nhờ Nguyễn Ánh lựa lời can gián, nên được tha tội chết. Còn Nguyễn
Huệ, sau khi đánh dẹp xong, đem đại quân về Quy Nhơn, để Đô đốc là
Đặng Văn Trấn ở lại giữ Gia Định.
***
Chỉ trong thời gian một ngày, quân đội Tây sơn đã tiêu diệt gọn nhiều vạn
quân Xiêm-Nguyễn, đặt toàn bộ lãnh thổ Đàng Trong dưới quyền kiểm
soát của mình. Trong trận quyết chiến này, Nguyễn Huệ đã lợi dụng địa
hình, vận dụng chiến thuật một cách linh hoạt. Đặc biệt, ông đã khéo léo
kết hợp quân thủy và quân bộ để cùng tấn công, đánh đối phương trên cả
bốn mặt, nhưng chủ lực là đánh thật mạnh vào sườn địch.
Xét khía cạnh khác, Nguyễn Huệ không thể cho quân tấn công đối
phương ở Trà Tân, vì đây là một bản doanh tập trung đông quân và được
phòng bị chặt chẽ, trong khi quân của Tây Sơn ít hơn hẳn về số lượng.
Hơn nữa trong tình hình cả nước lúc bấy giờ, đòi hỏi ông phải đánh nhanh
giải quyết nhanh. Bởi kẻ thù nguy hiểm của Tây Sơn không phải chỉ có
liên quân Xiêm-Nguyễn ở Gia Định mà còn có quân Trịnh ở Thuận Hóa.
Tiến công vào Trà Tân, cuộc chiến đấu chắc chắn sẽ ác liệt và kéo dài.
Như vậy, quân chủ lực tinh nhuệ của Tân Sơn bị giam chân ở phía Nam.
Rất có thể, khi ấy quân Trịnh chớp lấy thời cơ đánh vào Quy Nhơn. Phải
đồng thời đối phó với hai kẻ thù ở hai phía, quân Tây Sơn chắc chắn sẽ bị
phân tán lực lượng. Đó là những lý do vì sao Nguyễn Huệ không mở cuộc
tiến công vào đó, mà chủ trương nhử địch ra khỏi căn cứ, kéo họ đến một
địa hình có lợi cho quân mình, để tiêu diệt gọn bằng một trận thủy chiến.
Nói gọn, trận Rạch Gầm-Xoài Mút là một trận đánh mai phục kết hợp
với bao vây tiêu diệt. Muốn mai phục được ở một vùng đất có người như
ở đó thì vấn đề cốt lõi là phải nắm được lòng dân... Thực tế cho thấy,
nhân dân đã giữ bí mật trận địa mai phục đến phút chót khiến đối phương
không một chút nghi ngờ. Và qua trận đánh cũng đã cho thấy, nhân dân nơi
này rất căm ghét quân xâm lược, rất tin tưởng chủ tướng Tây Sơn sẽ cởi
được tai ách cho mình, biểu hiện qua việc hướng dẫn nghĩa quân đi trinh
sát địa bàn, cung cấp thông tin về tình hình sông nước, thủy triều…Nhờ
vậy, Nguyễn Huệ thiết lập được trận địa mai phục và có phương án tác
chiến hiệu quả. Bên cạnh đó, nhân dân còn đóng góp người, lương thực,
thực phẩm và các vật dụng cần thiết khác...để hổ trợ..
Trải qua 14 năm, kể từ ngày khởi sự cho tới năm 1785, nghĩa quân Tây
Sơn đã giành được nhiều chiến thắng lớn, nhưng chưa có chiến thắng nào
nhanh gọn, lớn lao và rực rỡ bằng chiến thắng Rạch Gầm-Xoài Mút.
Bùi Thụy Đào Nguyên, soạn.
(Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh An Giang)
Chú thích
1. Theo Nhà Tây Sơn, tr. 94 và 96.
2. Hỏi đáp lịch sử (tập 3), tr. 234.
3. Năm 1782, dinh Trường Đồn đổi làm dinh Trấn Định, trị sở đặt ở
chợ Mỹ Tho; đến Năm 1808, lại đổi làm trấn Định Tường.
4. Chép theo Đại cương Lịch sử Việt Nam (tập I), tr.418.
5. Các nhà nghiên cứu giải thích: chữ Chiêu không phải là tên họ mà là
chức tước, có thể gọi là chao hay chậu trong tiếng Lào và tiếng
Thái. Chữ Hán vốn viết là Chiếu ( ( ), sau vì kiêng huý nên các sử
thần nhà Nguyễn mới viết thành chiêu ( ) (Tìm hiểu thiên tài quân
sự của Nguyễn Huệ, tr. 88)
6. Vũ Thế Dinh là người trực tiếp tham gia cuộc chiến tranh lúc đó.
Khi ấy, ông giữ chức cai đội dưới quyền của tham tướng Mạc Tử
Sanh. Sau khi quân Xiêm thất bại, Nguyễn Ánh giao cho ông thu
thập tài liệu viết bức “quốc thư” gửi cho vua Xiêm trình bày rõ sự
tàn bạo và thất bại của quân Xiêm. Vũ Thế Dinh viết Mạc Thị gia
phả vào năm 1818. Do đó, theo sách Một số trận quyết chiến chiến
lược trong lịch sử dân tộc, thì những tài liệu ghi trong cuốn gia phả
về số quân Xiêm, về diễn biến của cuộc chiến tranh là có thể tin
cậy được. SáchĐại cương Lịch sử Việt Nam (tập I), sách dẫn ở
mục tham khảo, cũng đưa ra con số tương tự (tr. 418).
7. Chiêu Thùy Biện, (hay Bèn, Bẹn), nguyên là đại thần của Cao Miên
chạy sang thần phục Xiêm.
8. Nhà Tây Sơn, tr. 94 và 96.
9. Một số trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử dân tộc (bản điện
tử, có trên internet).
10. Nguyễn Khắc Thuần cho biết lúc bấy giờ quân Tây Sơn đã có khá
nhiều đại bác do Hà Lan sản xuất (sách đã dẫn, tr. 189).
11. Trà Tân còn có tên Trà Luật hay cù lao Năm Thôn. Ở đây có rạch
Trà Tân nằm ở bờ bắc sông Mỹ Tho, chảy qua Hưng Lễ, Hưng
Nhân rồi đổ ra sông Tiền. Địa hình và vị trí vùng này khá lợi hại. Từ
Trà Tân, liên quân Xiêm-Nguyễn dễ dàng theo đường thủy tiến
đánh Mỹ Tho, là đại bản doanh của quân Tây Sơn. Theo Mạc Thị
gia phả, thì Nguyễn Ánh "đóng đồn ở trên bờ sông", và quân Xiêm
"lên cả trên bờ cố thủ, chiến thuyền đỗ dọc theo bờ sông làm thế ỷ
dốc."
12. Theo sách Hoàng Việt hưng long chí thì: Giao chiến liền mấy trận
bị thất lợi, định rút quân về, không ngờ có kẻ phản thần là Lê Xuân
Giác bày mưu kế cho Huệ.(tr. 122). Tuy nhiên, sách Một số trận
quyết chiến chiến lược trong lịch sử dân tộc (đã dẫn nguồn) lại cho
rằng đó là những trận tập kích nhằm nghi binh thăm dò lực lượng
địch và kích động thêm tinh thần chủ quan, khinh địch của quân
Xiêm. Đó chính là những trận đánh mà sử quán triều Nguyễn đã
xuyên tạc tính chất và mục đích, cho rằng "Huệ đến, đánh vài trận
không được, muốn đem quân về". Còn chi tiết nhờ "Lê Xuân Giác
bày mưu kế cho Huệ", theo Nguyễn Khắc Thuần, thì đây cũng là
điều xuyên tạc (tr. 188)
13. Tìm hiểu thiên tài quân sự của nguyễn Huệ, tr. 92.
14. Nguyễn Khắc Thuần dịch (Danh tướng Việt Nam tập 3, tr. 188).
Tương tự, sách Hoàng Việt hưng long chí chép: Quân Xiêm tàn bạo,
đi đến đâu đều cướp bóc, bắt bớ; nên dân chúng ta thán oán ghét(tr.
121)
15. Đoạn sông này dài khoảng 6-7km, lòng sông rộng từ 1-2 km, Giữa
sông có cù lao Thới Sơn, cù lao Hộ (còn gọi là Bãi Tồn), cồn Bà
Kiểu, rạch Rau Răm, Rừng Dừa,…với nhiều cây cối rậm rạp, rất
thuận lợi cho việc giấu quân và mai phục.
16. ^ Chép theo Mạc thị gia phả của Vũ Thế Dinh. Bức thư của
Nguyễn Ánh gửi giáo sĩ J. Liot thì nói là đêm 18 rạng ngày 19.
17. Danh tướng Việt nam (tập 3), tr. 193
18. Nhà Tây Sơn, tr. 99-100.
19. Vũ Thế Dinh, tác giả Mạc Thị gia phả, là người tham dự trận, thì:
Lúc xuất quân, quân thủy, bộ tất cả gồm 5 vạn quân nay chỉ còn
hơn 1 vạn. Hoàng Việt hưng long chí chép: Quân Xiêm đại bại.
Chiêu Tăng, Chiêu Sương chỉ thu thập được mấy nghìn tàn quân,
theo đường núi Chân Lạp chạy về nước (tr. 122). Tương tự, Việt
Nam sử lược, chép: Nguyễn Huệ…đánh phá một trận, giết quân
Tiêm chỉ còn được vài nghìn người, chạy theo đường thượng đạo
trốn về nước. Sách Lịch sử Campuchia viết: Quân Xiêm thua to:
gần bốn vạn người bị giết chết tại trận. Chiến thắng này đã giúp
cho nhân dân Campuchia thoát khỏi sự chiếm đóng của quân Xiêm
một thời gian. (tr. 159). Tuy nhiên, để có con số chuẩn xác, cần có
nguồn khách quan hơn.
20. Mạc thị gia phả. Dẫn lại theo Danh tướng Việt nam (tập 3), tr. 195
21. Theo sử nhà Nguyễn thì sau trận đánh này, quân Xiêm sợ quân Tây
Sơn như sợ cọp. Ghi theo Tạ Trí Đại Trường, Việt Nam thời Tây
Sơn, lịch sử nội chiến 1771-1802(Nxb Công an nhân dân, 2007, tr
144) & Trương Hữu Quýnh, Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh,
Đại cương Lịch sử Việt Nam (Tập I, Nxb Giáo dục, 2007, tr. 419).
22. Ghi theo Danh tướng Việt Nam (tập 3). Sách Nhà Tây Sơn (tr. 100)
chép khác: "Nguyễn Ánh nhờ một bộ tướng là Nguyễn Văn Trị cứu
khỏi và cõng chạy trốn nơi Mỹ Đức ở Thi Giang (tức sông Cần
Thơ), rồi chạy lần ra náu ở Cồn Khơi thuộc Hà Tiên".Hoàng Việt
hưng long chí (tr. 120) cho biết việc tướng Trị cõng Nguyễn Ánh
chạy về Trấn Giang xảy ra sau khi chúa Nguyễn bị bắt ở Rạch Giá
rồi được tha.
23. Hoàng Việt hưng long chí (tr. 122).
24. Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, q. 21 và 15 (Nguyễn Khắc
Thuần dẫn lại, Danh tướng Việt nam, tập 3, tr. 195).
25. Con số căn cứ theo sách Tìm hiểu thiên tài quân sự của Nguyễn
Huệ(tr. 97) & Danh tướng Việt Nam , tập 3 (tr.195).
Sách tham khảo
• Ngô Giáp Đậu, Hoàng Việt hưng long chí. Nxb Văn học, 1993.
• Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Nxb Tân Việt, Sài Gòn, 1968.
• Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên (Quyển 3). Sài Gòn, 1959.
• Quách Tấn & Quách Giao, Nhà Tây Sơn. Bảo tàng Quang Trung
(Bình Định) xuất bản năm 2002.
• Tạ Chí Đại Trường,Việt Nam thời Tây Sơn, lịch sử nội chiến 1771-
1802, Nxb Công an nhân dân, 2007.
• Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doãn, Phạm Thị Tâm, Trần
Bá Chí, Một số trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử dân tộc
ta. Nxb Quân đội Nhân dân , 1998.
• Nguyễn Khắc Thuần, Danh tướng Việt Nam (tập 3). Nxb Giáo dục,
2005.
• Huỳnh Minh, Định Tường xưa (tái bản). Nxb Thanh Niên, 2001.
• Nguyễn Lương Bích, Pham Ngọc Phụng,Tìm hiểu thiên tài quân sự
của Nguyễn Huệ, Nxb Quân đội nhân dân, 1976.
• Trương Hữu Quýnh, Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh, Đại
cương Lịch sử Việt Nam (tập I). Nxb Giáo dục, 2007.
• Phạm Việt Trung-Nguyễn Xuân Kỳ-Đỗ Văn Nhung, Lịch sử
Campuchia. Nxb Đại học & THCN, 1982.
• Nhiều tác giả, Hỏi đáp lịch sử (tập 3). Nxb Trẻ, 2007.
Ảnh 1: Tượng đài trong Khu di tích chiến thắng Rạch Gầm Xoài Mút
thuộc ấp Đông, xã Kim Sơn, huyện Châu Thành, Tiền Giang.
Ảnh 2: Tàu chiến Tây Sơn đã sử dụng trong trận đánh (mô hình trưng bày
trong khu di tích trên).
Ảnh 3: Sơ đồ trận đánh.