Tìm hiểu logic của sự hình thành khái
niệm
Trần Thị Ngọc Anh
Tạp chí Triết học
10:14' AM - Chủ nhật, 10/12/2006
Đây là một vấn đề mà người nghiên cứu phải đặt ra khi muốn đi đến cội nguồn của
một khái niệm nào đó và sử dụng nó có hiệu quả trong quá trình tư duy và hoạt động
thực tiễn. Như đã biết, tư duy là một phạm trù cơ bản của triết học. Tư duy có thể
được hiểu theo nghĩa là toàn bộ đời sống tinh thần của con người, là phạm trù đối lập
với phạm trù vật chất (nghĩa này được dùng khi nói về vấn đề cơ bản của triết học).
Tư duy cũng có thể được hiểu theo nghĩa hẹp hơn đó là giai đoạn cao của nhận thức
(nhận thức lý tính). Theo nghĩa thứ hai, tư duy có quá trình hình thành, vận động và
phát triển. Khái niệm một hình thức của tư duy - đương nhiên cũng có quá trình sinh
thành, vận động và phát triển. Quá trình sinh thành, vận động và phát triển (gọi tắt là
quá trình hình thành) của khái niệm có logic của nó. Vậy, logic của sự hình thành khái
niệm là gì?
Để trả lời câu hỏi nêu trên, trước hết cần phải làm rõ "logic là gì”? Thuật ngữ "logic"
bắt nguồn từ thuật ngữ “logos" trong triết học Hi Lạp cổ, với các nghĩa là lời nói, tư
tưởng, lý tính, quy luật. Triết học macxít không sử dụng thuật ngữ "logos", mà thay
vào đó là thuật ngữ “logic". Thuật ngữ "logic" đùng để chỉ những thuộc tính tất yếu,
khách quan của các quá trình, hiện tượng. Tính tất yếu, khách quan này được con
người nhận thức ở nhiều cấp độ khác nhau.
Ở cấp độ thứử nhất, logic là tính tất yếu của một sự vật, hiện tượng, một quá trình
nào đó với tư cách là cái đơn nhất. Khi tìm hiểu logic của sự hình thành khái niệm ở
cấp độ này, chúng ta cần làm rõ cơ chế và quy trình hình thành nên khái niệm, tính
tuần tự của các thao tác kế tiếp nhau một cách tất yếu trong quá trình tư duy đi đến
khái niệm, những yếu tố cần và đủ cho sự ra đời cũng như sự tồn tại của khái niệm…
Ở cấp độ thứ hai, logic là tính tất yếu của một nhóm nhỏ các sự vật, hiện tượng, có
nghĩa là tính tất yếu đã có sự lặp lại nhưng mới chỉ ở một số ít các sự vật, hiện tượng
hữu hạn với tư cách là cái đặc thù. Ở cấp đủ này logic có thể được hiểu như là một
thuộc tính, bên cạnh rất nhiều thuộc tính khác nữa, và thuộc tính ở đây được hiểu là
tính quy luật. Khi tìm hiểu logic của sự hình thành khái niệm ở cấp độ này, chúng ta
cần xét theo nhóm. Ví dụ, nhóm các khái niệm triết họe, nhóm các khái niệm khoa học
xã hội, nhóm các khái niệm khoa học tự nhiên...
Ở cấp độ thứ bạ (cấp độ cao nhất), logic đồng nghĩa với quy luật. Đó là những mối
liên hệ phổ biến, tất yếu, tương đối ổn định được lặp đi lặp lại ở nhiều sự vật, hiện
tượng khác nhau. Khi tìm hiểu logic của sự hình thành khái niệm ở cấp độ này, chúng
ta cần phải tìm ra được những quy luật của sự hình thành khái niệm nói chung. Đây là
một công việc hết sức phức tạp.
Dù nghiên cứu logic của sự hình thành khái niệm ở cấp độ nào chăng nữa, chúng ta
cũng phải làm rõ tính tết yếu khách quan của sự hình thành khái niệm. Đương nhiên,
cần chú ý rằng, sự phân biệt giữa "một nhóm khái niệm" với "nhiều khái niệm" chỉ là
tương đối. Nhìn ở một góc độ khác, khi tìm hiểu logic của sự hình thành khái niệm,
chúng ta có thể tiếp cận khái niệm trong các trường hoạt động của nó.
Trường thứ nhất là khảo sát khái niệm trong tính lịch đại, nghĩa là xét logic của sự
hình thành khái niệm trong một quá trình lịch sử của nó, trong tính tất yếu nội tại của
bản thân nó, bất luận nó đã được cá nhân nhận thức hay chưa, nhận thức đến đâu. Nói
như vậy không có nghĩa là phủ nhận vai trò của con người, bởi quá trình hình thành
khái niệm chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở nhận thức của con người, chỉ có thể
diễn ra trong bộ não người. Ở đây, khái niệm không còn nằm trong khuôn khổ tư duy
của một cá nhân xác định, mà đó là kết tinh trí tuệ của loài người. Với sự phát triển
không ngừng của tri thức nhân loại, sự phát triển của khái niệm đến một "độ" nhất
định sẽ tự sản sinh ra khái niệm mới, tự mở đường đi đến những lãnh địa mới, sự tự
phát triển này diễn ra như thế nào? Chúng ta có thể tìm được lời đáp cho vấn đề này
trong "Khoa học logic" của Hêgen. Ở đó Hêgen nói về sự chuyển hóa liên tục của "tồn
tại" thông qua những nấc thang trung gian, mà chúng ta hiểu đó là sự tự triển khai của
khái niệm thông qua những khái niệm trung gian khác để đưa nhận thức đến một trình
độ cao hơn nữa. Theo đó, khái niệm được coi là kết quả sẽ lại trở thành khái niệm
trung gian của một khái niệm mới, và quá trình ấy sẽ không có điểm dừng.
Trường thứ hai là khảo sát khái niệm trong tính đồng đại, nghĩa là cần cắt ngang quá
trình hình thành và phát triển của khái niệm để nghiên cứu những yếu tố, những điều
kiện cần và đủ cho khái niệm tồn tại và hoạt động. Ở đây, khái niệm coi như là cái đã
có, như là kết quả của quá trình tư duy. Trong trường hợp này, chữ "xuất hiện" và chữ
"tồn tại" là như nhau. Chúng ta xét khái niệm trong cả một quá trình, mà quá trình ấy
như đã được co lại, rút lại, được đồn nén lại. Có thể làm được như vậy là vì logic của
sự vận động của tư tưởng trong đầu óc một người riêng rẽ lặp lại và sát nhập với
logic của sự phát triển lịch sử của tư duy, xét về đại thể và toàn bộ, dưới hình thức
vắn tắt và "được lược bỏ". Nói về sự "rút gọn" mà không bỏ qua này, Ph.Ăngghen đã
viết trong "Biện chứng của tự nhiên" như sau: "Sự phát triển của một khái niệm nào
đó, hay của mối quan hệ giữa những khái niệm...trong lịch sử của tư duy đối với sự
phát triển của nó ở trong đầu óc một nhà biện chứng riêng rẽ thì cũng như là sự phát
triển của một cơ thể nào đó trong cổ sinh vật học đối với sự phát triển của nó trong
bào thai học (hay, nói rõ hơn là trong lịch sử và trong một mầm mống riêng rẽ)".
Đến đây, người nghiên cứu sẽ vấp phải một vấn đề có tính chất phương pháp luận:
Giải quyết mối quan hệ giữa cái lịch sử và cái logic như thế nào? Khảo sát khái niệm
theo trường thứ nhất liệu có làm cho cái logic bị ảnh hưởng, còn khảo sát khái niệm
theo trường thứ hai liệu cung cấp làm cho cái lịch sử bị tổn thương? Cách duy nhất
đúng là, đã lựa chọn việc khảo sát khái niệm theo hướng nào (lịch đại hay đồng đại),
chúng ta cũng vẫn phải tôn trọng mối quan hệ mật thiết của cái lịch sử và cái logic.
Bởi đây chính là chìa khóa để tìm đến logic của sự hình thành khái niệm.
Lịch sử là bản thân quá trình vận động và phát triển của hiện thực, diễn ra với tất cả
tính đa dạng muôn vẻ của nó, bao hàm những tiến trình tuần tự, những bước nhảy và
cả những ngẫu nhiên. Còn logic là cái được trừu tượng hóa từ lịch sử, thể hiện những
mối quan hệ, liên hệ, tác động lẫn nhau giữa các mặt, các quá trình lịch sử, với tư cách
là những quy luật.
Mối quan hệ giữa cái lịch sử và cái logic là mối quan hệ thống nhất biện chứng có
chứa đựng mâu thuẫn. Sự thống nhất giữa chúng thể hiện ở chỗ, cái lịch sử luôn hàm
chứa cái logic, còn cái logic luôn được chứng minh bằng cái lịch sử. Sự mâu thuẫn
giữa chúng thể hiện ở chỗ, cái lịch sử là những ngẫu nhiên, những quanh co, khúc
khuỷu, còn cái logic đã gạt bỏ những ngẫu nhiên ấy, chỉ còn lại hạt nhân là những quy
luật. Theo Rôdentan, cái logic có hai đặc điểm, mà hai đặc điểm này cũng thể hiện sự
thống nhất với cái lịch sử.
Thứ nhất, logic là sự tái sản sinh cô đặc, vắn tắt của lịch sử, đã tẩy sạch tất cả những
cái ngẫu nhiên và thứ yếu (như cách nói của Hêgen), đã thóat khỏi hình thức lịch sử cụ
thể, là cái đã được cô lại, nhào lại, cải tạo lại trong lịch sử. Nhưng logic không phải là
bản sao đơn giản, "không có linh hồn", cứng đờ của quá trình lịch sử, mà là lịch sử
được sửa chữa lại, uốn nắn lại trên tinh thần phù hợp với những quy luật mà bản thân
quá trình lịch sử đã hàm chứa.
Thứ hai, tuy phản ánh lịch sử, nhưng logic là sự tái sản sinh lịch sử ở một trình độ cao
hơn trên cơ sở đạt được của trình độ nhận thức hiện tại phát triển hơn. Trình độ nhận
thức hiện tại là "chòi quan sát" mà ở đó ta có thể nhìn lại cả một tiến trình dài của lịch
sử đã qua cũng như những khuynh hướng của lịch sử sẽ diễn ra trong thời gian tới.
Đây là cơ sở chính cho sự ra đời "trước hiện thực" của nhiều khái niệm. Về vấn đề
này, có thể dẫn một câu nói nổi tiếng của C.Mác: giải phẫu con người là chìa khóa để
giải phẫu con vượn.
Mối quan hệ biện chứng giữa cái lịch sử và cái logic được thể hiện một cách rõ nét
trong khái niệm, bởi vì khái niệm là sự phản ánh chân thực lịch sử bằng cách giữ lại
cái logic của hiện thực ấy trong tư duy. Nghiên cứu khái niệm theo lát cắt đồng đại sẽ
cho thấy lịch sử được dồn nén trong nó như thế nào. Còn nghiên cứu khái niệm bắt
đầu từ lịch sử, không thóat ly khỏi lịch sử (theo lịch đại) lại là một nguyên tắc bắt
buộc.
Xác định nơi bắt đầu của lịch sử để tìm nơi bắt đầu của tư duy, nơi có thể hình thành
nên khái niệm không phải là một vấn đề đơn giản, bởi vì bản thân lịch sử cũng có
muôn vàn mặt khác nhau, và mỗi mặt ấy đều có thể được coi là khởi điểm. Vậy dựa
vào tiêu chí nào? C.Mác đã đưa ra một tiêu chí khi nghiên cứu về tư bản: nếu như việc
nghiên cứu bắt đầu từ chỗ lịch sử bắt đầu, thì nó cần phải bắt đầu từ cái làm thành
bước chuyển, làm thành mắt xích nối liền giữa quá khứ với hiện tại.
Nghiên cứu khái niệm cũng vậy, phải tìm ra được hiện thực nối liền khái niệm đã có
với khái niệm đang hình thành. Hiện thực ấy là những sự kiện. Khi bám chắc vào lịch
sử để tìm ra logic, nhận thức khoa học rất đề cao vai trò của sư kiện. Các sự kiện với
tư cách là những mặt, những yếu tố đa dạng của hiện thực, được con người thụ cảm
và ghi nhận, giúp con người đi sâu vào bản chất của khách thể. Tuy nhiên, không nên
quan niệm phương pháp lịch sử là sự liệt kê, mô tả một cách giản đơn các sự kiện
chồng chất, bởi nếu như vậy sẽ dẫn đến sự nhầm lẫn giữa cái ngẫu nhiên và cái tất
nhiên và hậu quả là không thể đi đến khái niệm được Điều đó có nghĩa là khi xuất
phát từ lịch sử, phải vạch ra tính quy luật của những sự kiện ấy, tìm ra được tính tất
nhiên ẩn giấu sau những ngẫu nhiên. Như vậy, "nếu phương pháp logic cũng là
phương pháp lịch sử, nhưng đã thóat khỏi hình thức lịch sử, thì đến lượt mình, phương
pháp lịch sử phải bao hàm trong mình yếu tố của phương pháp nghiên cứu logic".
Lênin đã chỉ ra con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, mà trên con đường đó
là sự triển khai của vô vàn khái niệm. Song, nên hiểu con đường biện chứng này như
thế nào? Về vấn đề này, Rôdentan viết: "Nhiều hoàn cảnh làm cho tư duy con người
thành phức tạp, không cho phép quá trình nhận thức diễn ra dưới dạng "thuần tuý" chỉ
trong những trường hợp rất hãn hữu mới có thể theo dõi trực tiếp thấy quá trình ấy
bắt đầu từ trực quan sinh động rồi từ trực quan sinh động chuyển thành khái niệm,
quy luật. Trong phần lớn trường hợp, tư duy con người bắt đầu ngay từ những khái
niệm, lý luận đã nêu ra và được biết từ trước đó được gọi là bộ khái niệm công cụ,
xuất phát điểm để nhận thức vươn tới những chân trời mới. Nếu tư duy lại bắt đầu
từ trực quan sinh động, thì trực quan sinh động sẽ bị nhét đầy những khái niệm, ý
niệm trừu tượng, thành thử mối liên hệ từ cái này sang cái khác hoàn toàn bị che lấp
đi. Những khái niệm công cụ hay những khái niệm trung chuyển từ vốn tri thức, sự
hiểu biết đã có của chủ thể sang khía cạnh mới, lĩnh vực mới của hiện thực sẽ đóng
vai trò là khởi điểm của quá trình hình thành nên khái niệm mới. Việc rút ra khái niệm
này từ khái niệm khác không phải là việc làm hoàn toàn mang tính tư biện, mà nó cũng
phải dựa trên cơ sở phản ánh tính tất yếu của khách thể.
Nghiên cứu khái niệm trong tính lịch sử, đó là tinh thần của logic biện chứng. Luận
điểm này có liên quan đến vấn đề kinh nghiệm. Những khi xét kinh nghiệm, phải
tránh sa vào chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa kinh viện, bởi vì sử dụng phương
pháp lịch sử mà không có logic sẽ dễ rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm hẹp hòi.Theo
nghĩa rộng, kinh nghiệm được hiểu là vốn tri thức tích luỹ được thông qua hoạt động
thực tiễn của cả nhân loại từ khi xuất hiện ý thức. Lênin đã phải đảo ngược Hêgen ở
quan điểm: "Hoạt động thực tiễn của con người phải làm cho ý thức con người lặp đi
lặp lại hàng nghìn triệu lần những hình tượng logic khác nhau để cho những hình
tượng này có thể có được ý nghĩa những công lý". Với một bề dày lịch sử, kinh
nghiệm của loài người được đúc kết lại thành kho tàng vô giá, được thế hệ này nối
tiếp thế hệ kia bồi đắp thêm. Song, kinh nghiệm chỉ thực sự có giá trị khi con người
biết cách vận dụng nó, mà một tấm gương điển hình về vận dụng nó là C.Mác, chủ
nghĩa Mác là một thí dụ chỉ rõ ràng chủ nghĩa cộng sản đã phát sinh như thế nào từ
tổng số những kiến thức của nhân loại, tất cả những cái mà xã hội loài người đã sáng
tạo ra, Mác đã nghiền ngẫm lại một cách có phê phán, không hề bỏ sót một điểm
nào". Những tác phẩm của C.Mác được đánh giá là những kiệt tác vì đã kết tinh tư
tưởng nhân loại bởi một bộ óc thiên tài. Nhưng bên cạnh đó, các tác phẩm của ông
cũng mang một luồng sinh khí mạnh mẽ, bởi chúng đã được kiểm chứng qua phong
trào đấu tranh của giai cấp công nhân. Ở đây, vai trò của kinh nghiệm theo nghĩa hẹp
đã phát huy tác dụng của mình.
Theo nghĩa hẹp, kinh nghiệm được hiểu là vốn tri thức được đúc kết lại thông qua
hoạt động thực tiễn của bản thân chủ thể Ph.Ăngghen luôn khẳng định sự cần thiết
của việc nghiên cứu lịch sử phát triển của khái niệm, của lý luận, bởi vì khái niệm
cũng như lý luận nói chung "không phải do bẩm sinh mà cả cũng không phải do ý thức
bình thường hằng ngày đem lại, mà đòi hỏi một tư duy đã trải qua một lịch sử kinh
nghiệm lâu dài". Sức thuyết phục của lý luận là ở chỗ đó. Nếu chỉ là sự sao chép đơn
thuần, sự chắp nối vụng về các kinh nghiệm đã có thì lý luận sẽ mất đi sức sống tự
thân. Để thấy được điểm khác nhau giữa ý nghĩa nêu trên của lý luận Hêgen đã có một
sự so sánh: "Giống như, cùng một câu cách ngôn luân lý, nếu do một thanh niên nói ra,
tuy anh ta hiểu nó một cách hoàn toàn đúng đắn, thì lại không có cùng một ý nghĩ và
cùng một tầm rộng như khi câu đó xuất phát từ miệng một người từng trải việc đời,
và khi nói câu đó, người này đã nói lên toàn bộ sức mạnh nội dung của nó”. Lênin
nhận xét rằng đây là một "sự so sánh hay, duy vật".
Việc tổng kết kinh nghiệm, phân tích lịch sử sẽ là điểm xuất phát cho nhận thức khoa
học mà trên đó, các khái niệm được triển khai, được "mài sắc, gọt giũa, mềm dẻo,
năng động". Từ lịch sử mà ta thấy được sức mạnh của khái niệm đang vận động. Rõ
ràng, "toàn bộ sức mạnh nội dung của khái niệm” nằm ở sự tất yếu của việc hình
thành nên khái niệm ấy, nằm ở hàm lượng tri thức nhân loại dồn nén trong nó, nằm ở
sự phát triển, tự triển khai của nó dưới dạng tiềm năng.
Như vậy, để khai thác được toàn bộ sức mạnh nội dung của khái niệm, chúng ta cần
phải làm rõ được logic của sự hình thành khái niệm. Muốn làm rõ được logic của sự
hình thành khái niệm, chúng ta phải bắt đầu nghiên cứu khái niệm từ trong lịch sử
hiện thực để chỉ ra đời sống của riêng nó, nêu lên sự liên hệ của nó với quá khứ và
tương lai, đồng thời phải nghiên cứu khái niệm trong tính hệ thống, nghĩa là nghiên
cứu sự tác động của khái niệm trong chuỗi của nó và sự tác động của nó tới các chuỗi
khái niệm khác.
Lôgíc học là khoa học về các hình thức và quy luật của tư duy. Muốn phản ánh đúng
hiện thực khách quan thì tư duy con người phải tuân theo những quy tắc và quy luật
nhất định. Đó là những quy tắc và quy luật của sự nhận thức, của suy nghĩ, của tư duy
mà lôgíc học nghiên cứu. Việc tuân theo những quy tắc quy luật này là điều kiện
không thể thiếu để đạt tới chân lý khách quan trong quá trình nhận thức.
Cuốn sách Lôgíc học bao gồm cả lôgíc hình thức và lôgíc biện chứng nhằm giúp cho
sinh viên nắm vững và biết vận dụng những hình thức, những quy tắc và quy luật chi
phối sự phát triển của tư duy vào học tập, nghiên cứu và vào cuộc sống; biết xem xét
phân tích tư tưởng không những về mặt nội dung mà cả về kết cấu; biết vận dụng
các thủ thuật lôgíc để tiếp thu một cách có hiệu quả những môn khoa học mà họ đang
học tập, nghiên cứu; biết sử dụng các tài liệu và tri thức đã được tích luỹ vào hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nghiên cứu lôgíc học còn giúp người học biết
giải thích một cách khoa học các sự kiện; biết cách nêu giả thuyết, chứng minh và bắt
bẻ, bác bỏ những tư tưởng, luận điểm không chân thực khi tranh luận, bút chiến,
chống lại những tư tưởng sai lầm trong khoa học và trong đời sống hiện thực.
KHAC: View Full Version : Những tư tưởng cơ bản của Hegel về logic học với tính
cách là logic biện chứng
Butchi
09-20-2009, 01:04 PM
Thông thường để xây dựng một hệ thống triết học của mình, thì mỗi triết gia đều
phải xuất phát từ điểm xuất phát triết học riêng biệt. Theo Ăngghen, điểm xuất phát
đó là vấn đề cơ bản của triết học mà nó được giải quyết trên lập trường của từng
triết gia. Hegel cho rằng, điểm xuất phát đó có một vị trí vô cùng quan trọng trong quá
trình hình thành nên học thuyết triết học mới. Nó có thể khắc phục được những hạn
chế của các học thuyết đã có từ trước. Chính vì vậy Hegel đã xác định điểm xuất phát
triết học của ông là sự đồng nhất duy tâm giữa tư duy và tồn tại hay là ý niệm tuyệt
đối. Nói một cách khác Hegel là nhà triết học duy tâm khách quan, nghĩa là đối với ông
tư tưởng của chúng ta không phải là sự phản ánh thế giới hiện thực khách quan, trái
lại những sự vật và hiện tượng trong thế giới là sự thể hiện của ý niệm tuyệt đối, mà
ý niệm này tồn tại trước khi thế giới xuất hiện.
Căn cứ vào sự phát triển của ý niệm tuyệt đối mà Hegel đã cấu trúc hệ thống triết học
của ông thành logic học, Triết học tự nhiên và Triết học tinh thần. Bài viết này muốn
đề cập đến những tư tưởng của Hegel về logic học với tính cách là logic biện chứng
trong hệ thống triết học Hêghen.
Theo Hêghen, đồng nhất giữa tư duy và tồn tại cũng có nghĩa là những quy luật của tư
duy được logic học nghiên cứu, thực chất cũng là những quy luật của tồn tại (của tự
nhiên, của lịch sử). Vì vậy logic học là bộ phận sinh động nhất của hệ thống triết học
Hêghen, bởi vì trong đó phép biện chứng của ông đã được thể hiện một cách đầy đủ
nhất.
Để xây dựng logic học mới với tính cách làlogic biện chứng, Hegel đã nghiên cứu toàn
bộ quá trình phát triển của logic hình thức cổ điển trước đây. Tuy không phủ nhận ý
nghĩa và vai trò của logic hình thức trong lịch sử nhận thức, nhưng Hegel đã chỉ ra
những hạn chế của nó. Theo Hêghen, logic học trước ông là khoa học về những hình
thức tư duy chủ quan, vì vậy nó chưa đầy đủ. chưa đáp ứng được với sự phát triển
của triết học và khoa học. Trên cơ sở đó Hegel đã sáng tạo ra một hệ thống logic học
mới - logic biện chứng nhằm đem lại cho triết học một phương pháp luận mới đó là
phép biện chứng. Phép biện chứng của Hegel là một trong những thành tựu quí giá
nhất của triết học cổ điển Đức nói riêng và lịch sử triết học trước Mác nói chung. Tuy
nhiên Hegel đã sáng tạo logic biện chứng trên lập trường duy tâm. ông đã xuất phát từ
cơ sở đồng nhất giữa tư duy và tồn tại khi coi những qui luật của tự nhiên, của lịch sử
cũng là những quy luật của tư duy. Để lý giải điều này, Hegel cho rằng, con người có
khả năng nhận thức được thế giới một cách tuyệt đối và đầy đủ, nghĩa là tư duy con
người nhận thức được thế giới tự nhiên và xã hội. Từ đó ông coi tư duy là bản chất
của chúng. Đồng thời quan niệm của Hegel về sự thống nhất giữa chủ thể và khách
thể không giống như quan niệm của chủ nghĩa duy vật, mà ông coi nó như là sự đồng
nhất hoàn toàn của chúng. Điều này có nghĩa là đối với Hegel khách thể của tư duy
không khác biệt với bản thân tư duy. Những khách thể của tư duy thực chất chỉ là
những quy định của chính tư duy mà thôi. Theo Hêghen, tư duy ở đây hoàn toàn không
được xem xét như là sản phẩm đặc biệt của bộ óc con người, như là nét đặc thù của
con người. Hegel đồng nhất tư duy với hoạt động của ý niệm tuyệt đối với tư cách là
cơ sở của mọi sự vật, hiện tượng của thế giới. Hơn nữa tư duy đồng thời vừa là
khách thể, vừa là chủ thể, nó vừa là những gì đang tư duy, vừa là những gì được tư
duy. Tuy nhiên, Hegel cũng thừa nhận cảm giác, trực giác, biểu tượng, mong muốn là
những hình thức của ý thức con người. Nhưng tất cả chúng đối với ông chỉ là những
thể hiện không đầy đủ, là những nét hoa văn bên ngoài của tư duy, tư tưởng. Vì vậy
vật chất theo ông, cũng thuộc về tư duy, tư tưởng mà thôi. Hegel cho rằng, đối tượng
đúng đắn của tư tưởng chính là bản thân tư tưởng, vì tư tưởng là chân lý của mọi sự
vật. Cho nên sự phát triển cũng cần phải được tiến hành theo những quy luật của tư
tưởng, theo những quy luật của logic học. Chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối của Hegel vì
vậy còn được xác định như là chủ nghĩa duy tâm logic. Ý niệm tuyệt đối là tư duy về
tư duy, đồng thời cũng có nghĩa là tự nhận thức, là sự mở rộng những xác định logic
vốn có đối với nó. Những phạm trù là những xác địnhlogic này, hơn nữa chúng còn thề
hiện sự phát triển của ý niệm tuyệt đối. Theo Hêghen, những phạm trù không phải là
sự phản ánh thế giới hiện thực khách quan, mà là những khái niệm thuần túy.
Trong "Khoa họclogic" Hegel đã thể hiện tư tưởng về Thượng đế có trước khi thế
giới và con người xuất hiện. Đây là tính qui luật của ý niệm tuyệt đối tồn tại trước
bản thân thế giới và như là thuộc tính siêu nhiên nào đó của thần thánh. Theo Ăngghen,
trong Cơ đốc giáo thế giới được sáng tạo một cách đơn giản bởi Thượng đế, còn
trong triết học Hegel thì sự sáng tạo này có hình thức phức tạp và khó hiểu hơn. Theo
Hêghen, logic học "thể hiện Chúa trong bản chất vĩnh hằng của Đức chúa trước khi
sáng tạo ra giới tự nhiên và các tinh thần hữu hạn" tức là những con người cụ thể.
Như đã nêu trên, những phạm trù trong triết học Hegel không phải là sự phản ánh thế
giới khách quan, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng hoàn toàn không chứa đựng
một nội dung gì cả. Trái lại, những phạm trù của Hegel còn có ý nghĩa bản thể luận.
Một trong những sự khác biệt giữa triết học Hegel và Cantơ cũng chính là ở điểm này.
Theo Cantơ, những phạm trù không có mối liên hệ nào với thế giới hiện thực khách
quan, chúng là sản phẩm của ý thức con người. Vì vậy, những phạm trù tự chúng
không chứa đựng nội dung khách quan. Còn ở Hegel thì những phạm trùlogic không
phải là cái gì khác hơn là những trừu tượng được tách ra từ bản thân hiện thực, cho
nên chúng có nội dung sinh động, phong phú, từ đó tạo nên nội dung sâu sắc của Khoa
họclogic. Tuy nhiên dưới góc độ duy tâm Hegel đã đánh giá những phạm trù cao hơn
thế giới khách quan, khi ông coi chúng là những tấm vải mộc, còn mọi hiện tượng,
quá trình của thế giới chỉ là những hoa văn được trang trí trên những tấm vải này.
Theo Hêghen, ý niệm tuyệt đối là bản chất của tự nhiên cũng như của tinh thần. Tất
cả mọi sự vật chỉ là chân lý chừng nào trong chúng đều thể hiện ý niệm này. Các sự
vật tự nó là nhất thời, tận cùng không phải là chân lý. Chỉ có ý niệm tuyệt đối tồn tại
như là hệ thống của những phạm trù là vĩnh viễn, là cơ sở của mọi vật, mọi hiện
tượng của thế giới. Hegel cho rằng, thế giới khách quan là logic học ứng dụng, còn
logic học là học thuyết về ý niệm tuyệt đối, là "hệ thống các phạm trù của tư duy,
trong đó sự đối lập giữa tính khách quan và chủ quan bị triệt tiêu”. Hegel nhấn mạnh
rằng, những phạm trù thực chất là những khái niệm mà tư duy thông thường cũng
thưởng sử dụng chúng. Trong tư duy thông thường những phạm trù hoà nhập với nội
dung của trực quan hay là của biểu tượng, vì vậy theo Hêghen, về thực chất chúng là
không rõ ràng. Để làm rõ những phạm trù đó nhiệm vụ của khoa học logic là phải giải
phóng chúng khỏi mọi nội dung của cảm giác, kinh nghiệm. Hegel đồng nhất khoa học
logic vớilogic học duy tâm.logic học này sử dụng những kết quả phát triển của những
khoa học tự nhiên. Theo Hêghen, những khoa học này có nhiệm vụ chuẩn bị tài liệu
chologic học nhằm phát hiện những quy luật, những khái niệm chung logic học duy
tâm của Hegel đã coi những khoa học này dưới những hình thức khác nhau và đặt đấu
ấn vào chúng. Nó chỉ ra rằng những quy luật và những khái niệm của các khoa học tự
nhiên là sự thể hiện không đầy đủ của những phạm trù lý tính thuần tuý.
Tác phẩm chủ yếu của Hegel là Khoa họclogic được gọi là Đại logic và logic học
phần đầu của Bách khoa toàn thư các khoa học triết học hay còn gọi là Tiểulogic đều
nghiên cứu những phạm trùlogic như là hệ thống phát triển, gắn liền và thống nhất
với nhau. Chính trong Khoa học logic cũng nhưlogic học Hegel đã trình bày một cách
đầy đủ và sâu sắc phép biện chứng trên cơ sở duy tâm. Theo Mác, phép biện chứng
của Hegel (hay như chính Hegel gọi là phương pháp tuyệt đối) là sự trừu tượng của
vận động, trừu tượng của phát triển của thế giới hiện thực khách quan. Phép biện
chứng này được Hegel hình dung như là sự vận động dưới hình thức cực kỳ trừu
tượng, sự vận động của lý tính thuần tuý.
Trong logic học Hegel đã trình bày qui luật phủ định của phủ định như là một trong
những quy luật quan trọng nhất của phép biện chứng. Hegel đã đồng nhất quy luật này
với tam đoạn thức: chính đề - phản đề - hợp đề. Từ đó ông đã xây dựng nên hệ thống
triết học cũng như từng phần trong hệ thống đó. Mỗi một phạm trù của phép biện
chứng được Hegel sắp xếp được hình thức chính đề. Chính đề này trong quá trình vận
động, phát triển trở thành phản đề và sau đó chúng hoà nhập vào khái niệm cao nhất là
hợp đề. Hợp đề không phải là quay trở lại một cách đơn giản về chính đề, mà là giai
đoạn phát triển cao hơn bởi yếu tố phủ định. Quy luật phủ định của phủ định vạch ra
khuynh hướng của sự phát triển từ thấp cho đến cao. Theo Hegel mặt phủ định thể
hiện trong mỗi một phạm trù, khái niệm là cơ sở, điều kiện của quá trình phát triền.
Ở đây Hegel đã vạch ra mâu thuẫn là nguyên nhân làm cho phạm trù, khái niệm
chuyển từ giai đoạn này đến giai đoạn khác. Trong Khoa họclogic Hegel đã nhấn
mạnh mâu thuẫn là nguồn gốc của mọi vận động và sức sống. Chỉ vì một cái gì đó có
mâu thuẫn ở trong bản thân mình mà nó được vận động, có mạch đập và hoạt động.
Khi đặt ra những cơ sở của phép biện chứng Hegel cho rằng, phương pháp này xuất
phát từ sự vận động, phát triển của những mâu thuẫn được diễn ra trong những khái
niệm. Sự vận động của mặt khẳng định đến mặt phủ định và việc xem xét sự thống
nhất của chúng là bản chất của nhận thức trừu tượng, nhận thức biện chứng. Nhận
thức này được Hegel đối lập lại với nhận thức lý trí,logic hình thức.
Như vậy cấu trúclogic của Hegel mang tính chất trừu tượng thuần tuý. Hegel đã xem
xét hệ thống những phạm trùlogic phát triển như là sơ đồ tiên nghiệm của sự phát
triển thế giới. Mặc dù với lối tư duy có tính chất tư biện, trừu tượng của Hêghen,
nhưng những phạm trù logic học của ông suy cho cùng cũng được rút ra từ thế giới
hiện thực khách quan. Cho nên trong Bút ký triết học Lênin đã chỉ ra rằng, Hegel đã
phỏng đoán một cách thiên tài về phép biện chứng của những sự vật, hiện tượng, thế
giới tự nhiên trong phép biện chứng của những khái niệm. Sự khẳng định này đã được
thể hiện trong sự phát triển của những khái niệm trong logic học Hêghen. Chính Mác
cũng cho rằng, Hegel trong sự trình bày một cách tư biện, trừu tượng thường lại đưa
ra được một sự trình bày hiện thực bao gồm chính các sự vật. Chính những quan điểm
này tạo nên giá trị to lớn của phép biện chứng của Hêghen, mà về sau chủ nghĩa duy
vật biện chứng đã kế thừa và phát triển. Tuy nhiên, hạn chế của chủ nghĩa duy tâm đã
không cho phép Hegel thực hiện nhiệm vụ được đặt ra trong triết học của ông là cống
hiến cho toàn bộ cuộc đời của sự vật. Đúng như Mác đã từng chỉ ra rằng nói chung
Hegel chủ yếu quan tâm đến không phải làlogic của sự vật, mà là công việc củalogic.
Điều này có nghĩa là Hegel có quan tâm đến nhận thức về thế giới hiện thực và sự
phản ánh của nhận thức này vào trong những phạm trù nhưng không lớn tới mức như
ông đã tạo nên hiện thực từ những khái niệm và phạm trù. Trong thực tế Hegel đã xây
dựng hệ thống nói chung cũng nhưlogic học nói riêng theo sơ đồ tam đoạn thức. Bằng
con đường này Hegel thường bịa ra những phạm trù mà chúng không thể có ở trong
hiện thực được. Vì vậy một số phạm trù trong logic học của ông có tính chất giả tạo.
Điều này xuất phát từ tư tưởng của Hegel về tất cả sự phong phú của thế giới đều
được nẩy sinh từ sự vận động của những khái niệm. Theo Mác, đối với Hegel thì tất
cả những gì đã diễn ra và đang diễn ra trong thế giới đều đồng nhất với những gì đang
diễn ra trong tư duy vốn có của ông. Như vậy sự vận động và sự phát triển của những
phạm trù theo Hegel là thể hiện sự phát triển của tự nhiên, xã hội, của tất cả những
biểu hiện văn hóa của con người. Bới vì như chúng ta đã biết, Hegel xuất phát không
phải từ sự thống nhất, mà từ sự đồng nhất của tư duy và tồn tại. ông cho rằng, chúng
ta không cần phải nghiên cứu một cách cụ thể mọi chi tiết của sự phát triển của tự
nhiên, xã hội vì sự phát triển của chúng chỉ là sự phản ánh sự phát triển của những
khái niệm. Cho nên theo Hêghen, phân tích những khái niệm là phương tiện nhận thức
hiện thực dễ hơn là nghiên cứu một cách cụ thể chính bản thân hiện thực này. Xuất
phát từ quan niệm này mà Hegel coi sự phát triển của thế giới như là sự phát triển của
những khái niệm. Từ đó ông buộc phải đưa ra một số phạm trù mà chúng chưa từng
có trong hiện thực, đặc biệt là sự chuyển biến một cách giả tạo từ một khái niệm này
nẩy sinh ra một khái niệm khác.
Theo Hêghen, nhiệm vụ củalogic học là thể hiện hệ thống những phạm trù không
phải như là hệ thống có sẵn trước, bất động mà như là hệ thống phát triển không
ngừng. Phù hợp với điều này Hegel đã vạch ra sự phát triển của những phạm trù là đi
từ trực tiếp, đơn giản, trừu tượng đến cụ thể, phức tạp và gián tiếp nhất.
"Khoa học logic" cũng nhưlogic học của hệ thống Hegel gồm ba phần là học thuyết
về tồn tại, học thuyết về bản chất và học thuyết về khái niệm. Ý nghĩa về phát triển
của những phạm trù chính là ở chỗ, trong logic học Hegel đã xuất phát từ tồn tại. Từ
sự vận động của những phạm trù tồn tại mà xuất hiện phạm trù bản chất. ở đây bản
chất như là phản đề hay là sự phủ định của tồn tại. Sau đó, từ vận động của những
phạm trù bản chất mà phát hiện ra khái niệm như là cơ sở sâu sắc hơn của toàn bộ
quá trình phát triển của những phạm trù. Như vậy, khái niệm được biểu hiện ra là hợp
đề của tồn tại và bản chất hay là sự phủ định của phủ định. Có thể nhận thấy rằng sự
phát triển của những phạm trù ở trong học thuyết về tồn tại, bản chất, khái niệm và ở
trong mỗi một phần nhỏ hơn của logic học đều được thực hiện theo sơ đồ tam đoạn
thức của Hegel đề ra. Theo Hêghen, học thuyết về tồn tại và học thuyết về bản chất
trong logic học là Logic khách quan còn học thuyết về khái niệm làlogic chủ quan.
Trong logic khách quan Hegel chủ yếu nghiên cứu những phạm trù của tư tưởng, mà
chúng đồng thời cũng là những phạm trù của thế giới tự nhiên vô cơ. Còn trong logic
chủ quan Hegel nghiên cứu sự vận động biện chứng của những phạm trù như những
hình thức tư tưởng thuần tuý và sự trưởng thành của đời sống tinh thần, của ý thức
của khái niệm trong thế giới hữu cơ và con người. Tuy nhiên sự phân chia logic học ra
thành logic khách quan vàlogic chủ quan là có tính chất tương đối. Bởi vì trên thực tế
trong logic khách quan Hegel bên cạnh phân tích những phạm trù của thế giới vô cơ,
thì ông cũng có đề cập đến những phạm trù có quan hệ với ý thức của con người. Trái
lại trong logic chủ quan đồng thời với việc trình bày những phạm trù của đời sống
hữu cơ thì Hegel cũng đưa ra cả những phạm trù có mối liên quan với thế giới tự
nhiên vô cơ.
Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Hegel đã tạo ra được một lý luận biện chứng phát
triển với tư cách logic học và là phương pháp. Ông đã kết hợp phép biện chứng và
logic học thành một quan niệm thống nhất về logic biện chứng. Phép biện chứng là
linh hồn của logic học nhờ đó khoa học logic trở thành một cơ thể sống, chứ không
phải là những phạm trù khô cứng như logic học trước đây. Công lao của Hegel so với
những bậc tiền bối chính là ở chỗ, ông đã đưa ra được một sự phân tích biện chứng,
khái quát tất cả những phạm trù quan trọng nhất của triết học và đã hình thành nên ba
qui luật cơ bản của tư duy trên cơ sở duy tâm. Không nghi ngờ gì nữa có thể khẳng
định rằng "Tính chất thần bí mà phép biện chứng đã mắc phải ở trong tay Hegel tuyệt
nhiên không ngăn cản Hegel trở thành người đầu tiên trình bày một cách bao quát và có
ý thức hình thái vận dụng chung của phép biện chứng đó”.
Logic, từ tiếng Hy Lạp cổ điển λόγος (logos), nghĩa nguyên thủy là từ ngữ, hoặc điều
đã được nói, (nhưng trong nhiều ngôn ngữ châu Âu đã trở thành có ý nghĩa là suy nghĩ
hoặc lập luận hay lý trí). Logic thường được nhắc đến như là một ngành nghiên cứu
về tiêu chí đánh giá các luận cứ, mặc dù định nghĩa chính xác của logic vẫn là vấn đề
còn đang được bàn cãi giữa các triết gia. Tuy nhiên khi môn học được xác định, nhiệm
vụ của nhà logic học vẫn như cũ: làm đẩy mạnh tiến bộ của việc phân tích các suy
luận có hiệu lực và suy luận ngụy biện để người ta có thể phân biệt được luận cứ nào
là hợp lý và luận cứ nào có chỗ không hợp lý.
Theo truyền thống, logic được nghiên cứu như là một nhánh của triết học. Kể từ giữa
thế kỉ 19 logic đã thường được nghiên cứu trong toán học và luật. Gần đây nhất logic
được áp dụng vào khoa học máy tính và trí tuệ nhân tạo. Là một ngành khoa học hình
thức, logic nghiên cứu và phân loại cấu trúc của các khẳng định và các lý lẽ, cả hai
đều thông qua việc nghiên cứu các hệ thống hình thức của việc suy luận và qua sự
nghiên cứu lý lẽ trong ngôn ngữ tự nhiên. Tầm bao quát của logic do vậy là rất rộng,
đi từ các đề tài cốt lõi như là nghiên cứu các lý lẽ ngụy biện và nghịch lý, đến những
phân tích chuyên gia về lập luận, chẳng hạn lập luận có xác suất đúng và các lý lẽ có
liên quan đến quan hệ nhân quả. Ngày nay, logic còn được sử dụng phổ biến trong lý
thuyết lý luận.
Qua suốt quá trình lịch sử, đã có nhiều sự quan tâm trong việc phân biệt lập luận tốt
và lập luận không tốt, và do đó logic đã được nghiên cứu trong một số dạng ít nhiều là
quen thuộc đối với chúng ta. Logic Aristotle chủ yếu quan tâm đến việc dạy lý luận
thế nào cho tốt, và ngày nay vẫn được dạy với mục đích đó, trong khi trong logic toán
học và triết học phân tích (analytical philosophy) người ta nhấn mạnh vào logic như là
một đối tượng nghiên cứu riêng, và do vậy logic được nghiên cứu ở một mức độ trừu
tượng hơn.
Các quan tâm về các loại logic khác nhau giải thích rằng logic không phải là được
nghiên cứu trong chân không. Trong khi logic thường có vẻ tự cung cấp sự thúc đẩy
chính nó, môn học này phát triển tốt nhất khi lý do mà chúng ta quan tâm đến logic
được đặt ra một cách rõ ràng.
(trích theo http://vi.wikipedia.org/wiki/Logic)
LÔGIC TRUYỀN THỐNG:
truyền thống lôgic học khá phức tạp và đa dạng. Song t ựu trung có hai truy ền thống l ớn:
truyền thống lôgic hình thức và truyền thống lôgic biện chứng. Lôgic học cổ truyền chưa có sự
phân ngành rõ rệt. Các hệ thống lôgic đều hàm chứa h ệ th ống lôgic hình th ức và c ả nh ững y ếu
tố lôgic biện chứng. Về sau, truyền thống lôgic học ở ph ương Tây khác h ẳn truy ền th ống lôgic
học phương Đông.
Truyền thống lôgic học phương Đông tiếp tục đặc trưng không phân hình thức và bi ện ch ứng.
Trong khi đó, ở phương Tây kể từ thời kì Phục hưng, đã diễn ra s ự phân hoá thành hai phân
ngành lớn của lôgic học: lôgic hình thức và lôgic biện ch ứng. Lôgic hình th ức truy ền th ống
phương Tây có những công trình đánh mốc thời đại l ịch s ử, nh ư lôgic quy n ạp c ủa Bêcơn F. (F.
Bacon), lôgic suy diễn của Đêcac R. (R. Descartes), vv. Trong trước tác của Laibnit G.V. (G. W.
Leibniz), không chỉ có sự hoàn thiện hệ thống quy luật và quy t ắc lôgic hình th ức truy ền th ống,
mà còn hàm chứa tư tưởng hiện đại hoá lôgic hình th ức b ằng ph ương th ức hình th ức hoá và
toán học hoá triệt để các lập luận lôgic.
Truyền thống lôgic học biện chứng thực ra bắt đầu từ công trình lôgic cuả Kantơ I. (I. Kant) khi
ông phân biệt rõ rệt hai bộ môn lôgic: "lôgic ph ổ thông" chính là lôgic hình th ức truy ền th ống và
"lôgic tiên nghiệm", thực chất là lôgic biện ch ứng. Hêghen G.V.F (G. W. F. Hegel) với công trình
lôgic vĩ đại của ông "Khoa học về lôgic" đã k ết thúc thời kì lôgic bi ện ch ứng truy ền th ống, đ ồng
thời mở ra giai đoạn mới cho lôgic biện chứng, giai đoạn lôgic bi ện ch ứng c ổ đi ển. LTT ở
phương Đông có nhiều tư tưởng lôgic mà ngày nay trong phong trào hi ện đại hoá t ư duy lôgic c ả
người phương Đông lẫn người phương Tây đều hội nhập vào trong m ột trào l ưu chung là lôgic
phi cổ điển. Theo một nghĩa nhất định, lôgic phi cổ đi ển ở phương Tây thực ch ất là hi ện đ ại hoá
lôgic phương Đông cổ truyền.
Logic hình thức nghiên cứu các quy luật hình thức của tư duy trừu tượng. Nếu như
quá trình nhận thức (khoa học) là "từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng rồi
lại từ tư duy trừu tượng trở về với thực tiễn" thì logic hình thức cho ta các quy luật để
suy luận trong giai đoạn tư duy trừu tượng của toàn bộ quá trình nhận thức đó. Đặc
trưng của nhặn thức khoa học là khái quát hóa các tri thức kinh nghiệm để tìm kiếm
các quy luật phổ biến, rồi bằng cách tổng hợp các quy luật phổ biến từ nhiều khía
cạnh khác nhau trở lại nhận thức các hiện tượng và sự vật cụ thể.
Trải qua hơn hai nghìn năm, từ thời Arixtốt đến nay, logic hình thức đã là công cụ đắc
lực góp phần hình thành và phát triển nhiều ngành khoa học khác nhau, nó cũng là công
cụ tư duy hợp lý trong mọi mặt đời sống nhận thức của con người. Ngày nay, ở giai
đoạn mà con người đang có tham vọng dùng máy móc để tự động hóa từng bước các
hoạt động trí tuệ của chính mình, logic không chỉ là công cụ để nghiên cứu, mà bản
thần nó cũng trở thành đối tượng nghiên cứu. Và từ đó nhiêu vấn đề mới nẩy sinh, mà
việc nghiên cứu chúng chắc chắn sẽ đưa đến những hiểu biết phong phú mới về hoạt
động tư duy và nhận thức của con người.
Logic hình thức cho ta các quy luật để hình thành các khái niệm, các phán đoán và đặc
biệt các phương pháp suy lý để tiến hành các lập luận trên các phán đoán đó. Một đặc
điểm cơ bản của logic hình thức là xem mỗi phán đoán có một giá trị chân lý xác định,
tức là mỗi phán đoán hoặc đúng, hoặc sai. Và các quy luật suy lý cho ta cách lập luận
để từ các giá trị chân lý của một số phán đoán cho trước suy ra giá trị chân lý của một
phán đoán đang xét.
Như vậy, logic hình thức không quan tâm đến nội dung của các phán đoán, mà chỉ quan
tâm đến các quan hệ chuyển đổi giá trị chân lý của các phán đoán mà thôi. Về sau này,
với việc sử dụng các phương pháp ký hiệu của toán học, các phán đoán trong logic
hình thức có thể được xem như các ký hiệu A, B, p, q… được gán giá trị 1 (đúng) hoặc
0 (sai).
Các quy luật cơ bản của logic hình thức là quy luật đồng nhất (A là A), quy luật bài
trung (A hoặc không A), quy luật phi mâu thuẫn (không thể đúng cả A và không
A). Luật suy lý cơ bản là tam đoạn luận, dưới dạng thu gọn là modus ponens, nói rằng
nếu A và A - B đều đúng, thì B đúng. Các quy luật bài trung và phi mâu thuẫn khẳng
định rằng logic hình thức là logic hai giá trị, và trong logic đó mỗi phán đoán chỉ có thể
nhận một trong hai giá trị đó (đúng hoặc sai). Khi xét cấu trúc chủ từ - tân từ của các
phán đoán, ta được logic tân từ và các quy luật về mối quan hệ giữa các loại phán đoán
phổ biến, đặc thù, đơn nhất. Thí dụ, quy luật nếu không phải mọi vật đều có thuộc
tính A thì ắt có một vật có thuộc tính không A" cho ta khẳng định một phán đoán tồn
tại (đặc thù) từ việc phủ định một phán đoán phổ biến.
Hơn bất kỳ ngành khoa học nào khác, toán học có đối tượng nghiên cứu là các quan hệ
và cấu trúc dưới dạng trừu tượng và khái quát nhất, nên toán học cũng là địa hạt mà
logic hình thức được ứng dụng một cách đầy đủ và rộng rãi nhất. Và đến lượt minh,
toán học cung cấp các kiểu mô hình trừu tượng và các phương pháp xử lý trong các mô
hình trừu tượng đó cho các ngành khoa học khác trong việc phân tích và nghiên cứu các
đối tượng của mình. Logic hình thức là công cụ của tư duy trừu tượng, do đó nó cũng
là công cụ quan trọng của mọi nhận thức khoa học.
Hệ thống các quy luật của Iôgich hình thức đã được sử dụng khá ổn định trong suốt
hơn hai nghìn năm nay, và dường như tính đúng đến của nó không còn phải bàn cãi.
Với các phương pháp tiên đề hóa và hình thức hóa của đầu thế kỷ XX, logic hình thức,
dưới dạng cổ điển của nó, đã được chứng minh là phi mâu thuẫn và đầy đủ. Thế
nhưng, nếu như nó có thể là đầy đủ tự nó, thì cũng vẫn đáng hoài nghi tính đầy đủ của
nó với tư cách là công cụ của tư duy và nhận thức.
Như đã nói ở trên, logic hình thức là logic hai giá trị, nó đòi hỏi mọi phán đoán mà nó
xét phải có giá trị đúng hoặc sai.
Nhưng trong thực tiễn nhận thức của đời sống, ta lại thường gặp nhiều phán đoán mà
tính đúng sai khó được xác định rõ ràng. Vậy trong các trường hợp đó, liệu có thể tiến
hành các lập luận logic được không? Tất nhiên là không, nếu ta dùng lại ở logic hình
thức cổ điển. Có thể mở rộng để có những logic khác trong đó cho phép tiến hành các
lập luận trên những tri thức mà tính đúng sai không được xác định rõ ràng hoặc chỉ rõ
ràng ở những mức độ khác nhau? Người ta đã phát triển nhiều lý thuyết theo hướng
đó, như logic nhiều giá tri, logic modal, logic mờ (fuzzy), logic xác suất... Ta sẽ trở lại
vấn đề này trong phần sau.
Ngay trong phạm vi hai giá trị của logic hình thức cũng có không ít vấn đề không thể
giải quyết một cách dễ dàng. Đa số những vấn đề này đều liên quan đến tính trừu
tượng khá cực đoan của bản thân logic hình thức khi đòi hỏi tính chân lý của các phán
đoán phải được xét độc lập với nội dung ngữ nghĩa của các phán đoán đó. Thí dụ, nói
về tính đúng sai của phán đoán phức hợp "nếu A thì B" sẽ vô nghĩa nếu chỉ đề cập
đến tính đúng sai của các phán đoán thành phần A và B mà không quan tâm gì đến quan
hệ nội dung có tính chất nhân quả giữa A và B. Nếu như để khẳng định một phán
đoán về sự tồn tại của một đối tượng thuộc loại nào đó ta không cần biết tập hợp tất
cả các đối tượng loại đó, thì để phủ định sự tồn tại, oái oăm thay ta lại cần biết tập
hợp tất cả các đối tượng loại đó, tất nhiên biết tập hợp với tư cách tập hợp chứ
không phải biết cụ thể từng đối tượng trong tập hợp đó. Cái không đôi khi gây nên
những nghịch lý logic, thí dụ nếu bảo không có Thượng đế là đúng thì hẳn bạn phải
mô tả được thượng đế là gì để bảo là nó không có chứ, nhưng khi đã mô tả được nó
thì cũng có nghĩa là nó đã tồn tại dưới một đồng nào đó rồi! Trong toán học, chứng
minh cái không thường khó hơn nhiều so với chứng minh cái có. Chẳng hạn, từ hàng
nghìn năm trước người ta đã chứng minh được có thuật toán này thuật toán nọ, nhưng
phải đợi đến giữa thế kỷ XX này sau khi xây dựng được những lý thuyết đầy đủ về
thuật toán, khó khăn lắm người ta mới chứng minh được sự không có thuật toán để
giải một số bài toán nhất định.
Một nhược điểm khác của logic hình thức là tách rời hành vi lập luận với đối tượng
của lập luận. Chú ý rằng đối tượng của lập luận logic là các khái niệm trừu tượng,
đẩy xa sự trừu tượng hóa đến một độ nào đó thì có thể làm cho các quy luật logic mất
đi những giá trị mà nó vốn có từ đầu Thí dụ rõ rệt nhất là việc sử dụng sự trừu tượng
hóa về vô hạn thực tại (actual infnite) trong toán học để xây dựng các khái niệm của
giải tích toán học. Logic hình thức áp đụng lên các khái niệm đó đã đưa đến những
khẳng định về sự tồn tại của nhiều đối tượng mà toán học không có cách gì chỉ ra
được chúng tồn tại ờ đâu, làm sao tìm được chúng. Nói chúng tồn tại mà không có
cách nào tìm được chúng thì liệu một lý thuyết trừu tượng như vậy còn có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn nào không. Sự phê phán này đã từng làm xuất hiện các yêu cầu xây
dựng lại toán học trên cơ sở các quan điềm của chủ nghĩa trực quan và chủ nghĩa kiến
thiết, các quan điểm này đòi hỏi không được sử dụng những phép trừu tượng hóa quá
"phóng khoáng" như về vô hạn thực tại, và không công nhận tính phổ dụng của các
quy luật logic hình thức cho mọi thế giới, đặc biệt cho cả những thế giới của những
đối tượng được hình thành nên từ những phép trừu tượng hóa quá phóng khoáng nói
trên.
Trong vài chục năm gần đây, việc ứng dụng ngày càng rộng rãi máy tính điện tử đã
thúc đấy việc nghiên cứu và thực hiện tự động hoá nhiều quá trình hoạt động từ tuệ
về nguyên tắc, cho đến nay máy tính điện tử chỉ có thể thực hiện được những quá
trình mang tỉnh chất thuật toán, nhưng liệu có thể chăng quy về thuật toán nhiều hoạt
động trí tuệ của con người, nhất là khi máy tính có tốc độ và năng suất tính toán cực
lớn? Ngành trí tuệ nhân tạo ra đời, gần đây được phát triển nhanh chóng, nhưng vẫn là
phát triển trong những tham vọng và những nghịch lý.
Để cho máy tính có khả năng trí tuệ "nhân tạo", thì phải cấp cho nó tổ chức và khả
năng tập luận, lý giải trên cơ sở tri thức đó như hoặc gần như con người vốn có. Mà
ngoài toán học và những gì liên quan đến toán học ra, trì tri thức con người vốn có
thường không chính xác và không chắc chắn.Không chính xác vì nhiều khái niệm được
sử dụng trong cuộc sổng vốn không cónội dung chính xác, không chắc chắn vì tuy sự
kiện khách quan có thể chắc nhung ta không đủ khả năng để biết chắc. Rõ ràng, với
loại tri thức này thì logic hình thức cổ điển hai giá tri không thể thích dụng được. Con
người thực chúng ta hàng ngày đã xử lý chúng nhu thế nào, ta cũng chưa biết rõ. Phải
chăng cần có những logic khác cho các loại tri thức đó? Và, nếu biết được các logic
đó, phải chăng ta có thể "thuật toán hóa" chúng để rồi cho máy tính bắt chước? Mô tả
tính không chính xác của tri thức bằng khái niệm mờ (fuzzy), người ta đã xây dựng lý
thuyết logic mờ, mô tà tính không chắc chắn của tri thức bằng một số đó xác suất
hoặc bằng một hàm tin tưởng (belief function), người ta đã phát triển các lý thuyết
logic xác suất và lý thuyết về sự tin tưởng...
Trí tuệ nhân tạo là trí tuệ mà con người gán vào cho máy. Không biết đến bao giờ thì
máy mới có được khả năng trừu tượng hóa như người để có thể hình dung ra những
thứ như "vô hạn", chứ như hiện nay thì dù có khả năng lưu trữ hàng tỷ bytes, trí nhớ
của máy vẫn luôn luôn là hữu hạn. Logic hình thức cổ điển tự cho mình cái năng lực
phổ dụng, bất chấp đối tượng là hữu hạn hay vô hạn, vì vậy nó có thể không thích
hợp với tri thức của máy. Thí dụ, nếu trong bộ nhớ của máy lưu trữ một danh sách
1000 người toàn đàn ông, thì đối với câu hỏi "có đàn bà trên thế gian này không" chắc
chắn nó sẽ trả lời "không”. Tính hữu hạn và thiếu khả năng tưởng tượng của máy
buộc phải tìm cho nó những lôgic khác, những logic này thường cỏ tính chất không
đơn điệu, nghĩa là việc mở rộng tri thức không nhất thiết kéo theo việc mở rộng tập
hợp các đinh lý của nó.
Việc nghiên cứu và phát triển nhiều lý thuyết logic kể trên có làm giảm vai trò của
logic hình thức (cổ điển) trong tư duy trừu tượng của con người hay không. Con
người, trọng hoạt động tư duy trừu tượng của mình vẫn chỉ dùng logic hình thức như
trước hay đã dùng đồng thời nhiều logic khác nhau. Có lẽ câu trả lời thích đáng là: các
loại logic kể trên vê thực chất là sự mô phỏng hoạt động nhận thức của con người
trong những tình huống tri thức khác nhau, sự mô phỏng đó có thể có chút gì tương tự,
nhưng không nhất thiết phù hợp với thực tế nhận thức của con người trong các tình
huống đó, điều mà đối với chúng ta vẫn còn là bí ẩn. Vì vậy, các loại logic đó cũng chỉ
là những đối tượng của nghiên cứu khoa học, được xem như đối tượng của tư duy
chứ không phải là công cụ của tư duy trừu tượng như logic hình thức cổ điển.
Trên đây là trình bày sơ lược một vài nét phát triển của logic hình thức và các vấn đề
liên quan đến nó trong những năm gần đây. Ngày nay, khi khoa học đã đạt đến trình độ
phát triển cực kỳ rực rỡ thì cũng là lúc con người nhận thấy rõ ràng rằng nhận thức
bằng con đường khoa học không phải là phương pháp duy nhất của nhạn thức nối
chung. Con đường khoa học, bằng tư duy trừu tượng với việc vận dụng logic hình
thức nhằm đạt tới các quy luật phổ biến rồi từ các quy luật phổ biến trở lại nhận
thức cái cụ thể, dẫu là sâu sắc vẫn có tính chất gián tiếp, và lườn cho ta những chân lý
tương đối những sự thật xấp xỉ. Ta đã từng biết các nhược điểm đố, và ta cũng từng
tin rằng dẫu có nhược điểm nhưng nhận thức không có cách nào khác. Nhưng phải
chăng sự thật là thế, phải chăng, cùng với phương pháp nhận thức khoa học, con
người vốn vẫn có những cách nhận thức khác, không nhất thiết qua hình thức học và
trừu tượng, mà là trực tiếp từ cụ thể đến cụ thể, trong một kiểu hòa nhập nào đó giữa
chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức? Và có thể chăng, trong bối cảnh đó ta sẽ
xác đinh được đúng đắn hơn vị trí và sức mạnh của tư duy trừu tượng và logic hình
thức trong toàn bộ hoạt động nhận thức của con người.
Nguồn: Tạp chí Triết học
LÔGÍC HỌC TRONG DẠY HỌC VẬT LÝ Tác giả: Đỗ Hương Trà Nhà xuất bản:
Đại học Sư phạm Ngôn ngữ: Việt Chuyên ngành: Vật lý - KT Từ khoá: Lôgíc Khổ:
17 x 29 cm Giá bìa: 22,000
member
ID 16277
10/19/2006
Logic học
Suy diễn và lập luận
Như đã nói ở trên, vào thời trung cổ, động cơ cho việc nghiên cứu logic là để ta có thể học cách
phân biệt giữa luận cứ tốt với luận cứ không tốt, nhờ đó có thể tranh luận và diễn thuyết hiệu quả
hơn, và cũng có lẽ để trở thành một người tốt hơn.
Động cơ này vẫn còn tồn tại, mặc dù nó không còn đóng vai trò trung tâm trong bức tranh toàn
cảnh của logic; thông thường, logic biện chứng sẽ cấu thành trung tâm của một khóa học về tư
duy phê phán (critical thinking), một khóa bắt buộc ở nhiều trường đại học, đặc biệt là các trường
theo mô hình của Mỹ.
Logic toán học
Logic toán học thực sự nói về hai lãnh vực nghiên cứu khác nhau: thứ nhất là áp dụng của các kỹ
thuật trong ngôn ngữ hình thức vào toán học và lập luận toán học, và thứ hai, theo một hướng
khác, sự áp dụng của các kỹ thuật trong toán học vào việc biểu diễn và phân tích logic hình thức.
Những áp dụng sớm nhất của toán học và hình học trong quan hệ với logic và triết học truy ngược
về những người Hy Lạp cổ đại như Euclid, Plato, và Aristotle. Nhiều triết gia cổ đại và trung cổ
khác đã áp dụng các ý tưởng và phương pháp toán học vào các khẳng định triết học của họ.
Cố gắng táo bạo nhất để áp dụng logic vào toán học chắc chắn là chủ nghĩa luận lý (logicism) do
các triết gia kiêm nhà logic như Gottlob Frege và Bertrand Russell đi tiên phong: ý tưởng là các lý
thuyết toán học là những điều khẳng định mang tính logic, và chương trình cần chứng minh điều
này bằng cách suy giản toán học về logic. Nhiều cố gắng khác nhau để tiến hành việc này đã
gặp phải một loạt các thất bại, từ việc dự án của Frege trong công trình Grundgesetze bị nghịch lý
Russell làm cho lụn bại, đến sự thất bại của chương trình Hilbert trước định lý Gödel về sự không
toàn vẹn (của bất kì hệ thống logic nào).
Cả khẳng định của Chương trình Hilbert và sự phủ nhận nó bởi Gödel đều dựa trên các công trình
của họ, thiết lập nên lãnh vực thứ hai của logic toán học, áp dụng của toán học vào logic dưới
hình thức lý thuyết chứng minh. Mặc cho bản chất phủ định của các định lý về sự không toàn vẹn,
định lý Gödel về sự toàn vẹn, một kết quả trong lý thuyết mô hình và một áp dụng khác của toán
học vào logic, có thể được hiểu như là một cách cho thấy logicism đã gần đạt tới tính đúng đắn
như thế nào: bất kì lý thuyết toán nào được định nghĩa chặt chẽ đều có thể được thâu tóm một
cách chính xác bởi một lý thuyết logic bậc nhất; [[tính toán chứng minh] của Frege đủ để mô tả
toàn bộ toán học tuy không tương đương với nó. Do vậy chúng ta thấy được hai ngành đó hỗ trợ
lẫn nhau như thế nào.
Nếu như lý thuyết chứng minh và lý thuyết mô hình đã là cơ sở của logic toán học, thì chúng chỉ
là hai trong bốn trụ cột của ngành học đó. Lý thuyết tập hợp bắt nguồn trong sự nghiên cứu của
Georg Cantor về sự vô hạn, và nó đã là nguồn của nhiều vấn đề quan trọng và thách thức nhất
trong logic toán học, từ định lý Cantor, qua vị thế của Tiên đề của sự chọn lựa (Axiom of Choice)
và câu hỏi về sự độc lập của giả thuyết về tính liên tục (continuum hypothesis), đến những tranh
cãi hiện đại về những tiên đề về số đếm cực lớn (large cardinal).
Lý thuyết đệ quy thu tóm ý tưởng của việc tính toán với các toán hạng logic và số học; thành tựu
cổ điển nhất của lý thuyết này là tính không quyết định được của bài toán Entscheidungsproblem
mà Alan Turing đã tìm ra, và trình bày của ông về luận đề ChurchTuring. Ngày nay, lý thuyết đệ
quy liên quan chủ yếu đến bài toán tinh vi hơn về các lớp của độ phức tạp tính toán(complexity
class) khi nào thì bài toán có thể giải được một cách hiệu quả? và sự phân loại về mức độ
không giải được.
Logic triết học
Logic triết học làm việc với những miêu tả hình thức của ngôn ngữ tự nhiên. Đa số các triết gia giả
sử rằng phần lớn các lập luận đúng đắn "bình thường" có thể được thu tóm bởi logic, nếu như
người ta có thể tìm được phương pháp đúng đắn để dịch từ ngôn ngữ thông thường thành logic.
Về bản chất, logic triết học là một sự tiếp tục của ngành khoa học truyền thống được gọi là
"Logic" trước khi nó bị hất cẳng bởi sự phát minh ra logic toán học. Logic triết học có một mối
quan tâm lớn hơn tới mối quan hệ giữa ngôn ngữ tự nhiên và logic. Kết quả là, các nhà logic triết
học đã đóng góp rất nhiều vào sự phát triển của logic không chuẩn (v.d., logic tự do, logic thời)
cũng như là các mở rộng khác của logic cổ điển (v.d., logic mô thái), và các ngữ nghĩa không
chuẩn cho các loại logic như vậy (v.d., kỹ thuật Kripke về sự đánh giá trội trong ngữ nghĩa của
logic).
Logic và triết học ngôn ngữ có liên hệ mật thiết với nhau. Triết học ngôn ngữ có liên quan đến
nghiên cứu về tương tác giữa ngôn ngữ và suy nghĩ. Logic có một tác động lập tức trên các lãnh
vực nghiên cứu đó. Nghiên cứu logic và mối liên quan giữa logic và ngôn ngữ thông thường có thể
giúp một người tổ chức lý lẽ của họ một cách tốt hơn và giúp phê phán các lý lẽ của người khác.
Nhiều lý lẽ thông dụng chứa đầy các lỗi bởi vì nhiều người không được huấn luyện logic và không
biết cách trình bày một lý lẽ thế nào cho đúng.
Triết học ngôn ngữ đã trải qua một thời kỳ phục hưng trong thế kỉ 20 bởi công trình của Ludwig
Wittgenstein.
Logic và tính toán
Logic là nội dung trung tâm của khoa học máy tính từ khi ngành này được hình thành: công trình
của Alan Turing về Entscheidungsproblem theo sau từ công trình của Kurt Gödel về các định lý
về sự không toàn vẹn, và khái niệm của các máy tính dành cho mục đích tổng quát bắt nguồn từ
công trình này đã có tầm quan trọng mang tính nền tảng đối với các nhà thiết kế máy tính trong
những năm 1940.
Trong những năm 1950 và 1960, các nhà nghiên cứu dự đoán rằng khi tri thức của con người có
thể được biểu diễn bằng logic và các ký hiệu toán học, sẽ có khả năng tạo ra một máy tính có khả
năng lập luận, hay nói cách khác là trí tuệ nhân tạo. Điều này hóa ra là khó khăn hơn đã dự đoán
do sự phức tạp trong lập luận của con người. Trong lập trình logic, một chương trình bao gồm một
tập hợp các tiên đề và các luật. Các hệ thống lập trình logic như Prolog tính toán các hệ quả của
các tiên đề và luật để trả lời một truy vấn.
Ngày nay, logic được ứng dụng rộng rãi trong các lãnh vực của trí tuệ nhân tạo, và khoa học máy
tính, và những ngành này cung cấp một nguồn dồi dào các bài toán trong logic hình thức và phi
hình thức. Lý thuyết lý luận là một ví dụ tốt cho thấy logic được áp dụng vào trí tuệ nhân tạo như
thế nào.
Thêm vào đó, máy tính có thể được sử dụng như công cụ cho các nhà logic học. Ví dụ, trong logic
biểu tượng và logic toán học, các chứng minh bởi con người có thể được hỗ trợ bởi máy tính. Sử
dụng chứng minh định lý tự động, máy tính có thể tìm ra và kiểm tra các chứng minh, cũng như là
làm việc với những chứng minh quá dài cho việc viết ra bằng tay.
Lý thuyết lý luận
Lý thuyết lý luận là một ngành nghiên cứu về logic không hình thức, các điều phi lý, và các câu
hỏi phê phán liên quan đến những tình huống thực tế hàng ngày. Các hội thoại cụ thể có thể được
phân tích và xem xét để làm lộ ra các giả thuyết, kết luận, và các điều vô lý. Lý thuyết lý luận
ngày nay được áp dụng trong trí tuệ nhân tạo và luật.