Tiểu luận
Sử dụng phương
pháp tưới hiện đại
trong sản xuất rau
MỤC LỤC
MỤC LỤC ............................................................. 1
PHẦN 1. ĐẶT VẤN ĐỀ ....................................... 3
PHẦN 2. NỘI DUNG TÌM HIỂU......................... 4
I. Cơ sở lý luận .................................................... 4
2.1. Ảnh hưởng của nước tưới tới năng suất cây
trồng ................................................................. 4
1.2. Phạm vi ẩm độ thích hợp ........................... 5
1.3. Phương pháp tưới truyền thống và sự lãng
phí nước............................................................ 5
II. Phương pháp tưới hiện đại trong sản xuất rau 6
2.1. Phương pháp tưới nhỏ giọt........................ 7
2.2. Phương pháp tưới phun mưa..................... 9
PHẦN 3. KẾT LUẬN ......................................... 12
PHẦN 1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tài nguyên nước là thành phần chủ yếu của môi trường sống, quyết định sự
thành công trong các chiến lược quy hoạch, phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc
phòng của mỗi quốc gia. Hiện nay nguồn tài nguyên thiên nhiên đã từng được coi là
vô tận này đang phải đối mặt với nguy cơ ô nhiễm và cạn kiệt. Nguy cơ thiếu nước,
đặc biệt là nước ngọt và nước sạch là một hiểm họa lớn đối với sự tồn vong của con
người cũng như toàn bộ sự sống trên trái đất. Do đó, con người cần phải nhanh chóng
có các biện pháp bảo vệ và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên nước. Bảo vệ tài nguyên
nước là nhiệm vụ cấp bách, nó không chỉ đáp ứng các yêu cầu trước mắt mà còn tạo
nền tảng vững chắc cho sự nghiệp bảo vệ Tài nguyên và môi trường trong tương lai
lâu dài, vì đó là sự sống còn của chính chúng ta và con cháu sau này.
Rau là một loại thực phẩm rất cần thiết trong đời sống hàng ngày và
không thể thay thế của con người. Rau cung cấp cho con người những chất
không thể thiếu và thay thế được như các chất: protein; vitamin; muối khoáng;
các ãit hữu cơ và chất xơ. So với cây lương thực và các cây trồng ngắn ngày
khác thì cây rau có giá trị kinh tế cao hơn trên đơn vị diện tích. Do vậy, phát
triển rau không chỉ trực tiếp nâng cao thu nhập cho người trồng mà còn thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu cây trồng trong nông nghiệp, góp phần đẩy nhanh tiến trình
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn.
Hiện nay với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, yêu cầu và đòi hỏi phải áp
dụng, phát triển các phương pháp tưới hiện đại tiết kiệm nước đã được đặt ra một cách
bức thiết và nó đã mở ra triển vọng lớn cho việc phát triển các cây rau màu, cây công
nghiệp, cây ăn quả và các loại hoa cây cảnh có giá trị kinh tế cao. Đó chính là biện
pháp kỹ thuật tối ưu thích hợp nhất cho các loại cây trồng vì bên cạnh việc tiết kiệm
nước tưới nó còn là phương pháp tưới mới cung cấp nước cho cây trồng rất hiệu quả,
góp phần tăng năng suất và sản lượng một cách đáng kể.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên tôi đã tiến hành tìm hiểu về "Sử dụng
phương pháp tưới hiện đại trong sản xuất rau".
PHẦN 2. NỘI DUNG TÌM HIỂU
I. Cơ sở lý luận
2.1. Ảnh hưởng của nước tưới tới năng suất cây trồng
Nước là nhân tố quan trọng bậc nhất đối với sự sinh trưởng và phát triển
của cây trồng. Khi cây không được cung cấp đủ nước thì sẽ làm hạn chế một số
chức năng sinh lý quan trọng như quang hợp, hô hấp từ đó ảnh hưởng đến sinh
trưởng và phát triển của cây trồng. Nhiều thí nghiệm cho thấy cung cấp đầy đủ
nước và cacbonic cho cây trồng có thể nâng cao khả năng đồng hoá lên 5 - 8 lần
hoặc cao hơn. Thí nghiệm của trạm Excốp (Liên Xô) đã chứng minh: khả năng
đồng hoá của cây trồng được tưới có thể tăng gấp đôi ngay cả khi trời âm u.
Khi được cung cấp đủ nước cây trồng sử dụng đến mức tối đa các yếu tố
dinh dưỡng, nhất là phân bón. Từ đó làm tăng năng suất và phẩm chất cây trồng.
Theo viện sỹ L.I. Paracolop trên thế giới có 13% diện tích được tưới nước
nhưng thu được 87% sản lượng nông nghiệp. Tác giả Salter và Giode (1967) cho
rằng cây trồng đạt đến năng suất tiềm năng khi lượng nước của cây có thể sử
dụng ở tầng rễ không bị giảm quá 25 - 40% giữa các lần tưới.
Để làm rõ hơn những lý luận trên, Bộ môn Thủy nông – Canh tác, trường
Đại học Nông nghiệp Hà Nội đã tiến hành thí nghiệm trên 3 loại cây trồng:
Bảng 1. Ảnh hưởng của tưới nước đến năng suất cây trồng
Lượng nước Năng suất
Loại cây Công thức thí nghiệm %
(m3/ha) (tạ/ha)
Không tưới 16,9 100
Tưới 2 lần 740 24,3 144
Ngô
Tưới 3 lần 1140 25,6 152
Tưới 4 lần 1320 27,4 163
Không tưới 100,0 100
Khoai lang Tưới 2 lần 700 160,0 160
Tưới 3 lần 1200 200,0 200
Không tưới 15,2 100
Lúa tưới ngập thường xuyên 38,0 250
Tưới ngập gián đoạn 30,0 200
Kết quả thu được cho thấy số lần tưới và thời điểm tới có ảnh hưởng rất
lớn đến năng suất cây trồng; và giữa tưới hợp lý với không tưới cho kết quả sai
khác là rất lớn. Nhìn chung, đối với các loại cây trồng khi được tưới đều cho
năng suất tăng rõ rệt.
1.2. Phạm vi ẩm độ thích hợp
Độ ẩm thích hợp là độ ẩm mà tại đó cây trồng có thể hút nước và dinh
dưỡng từ đất trong quá trình sinh trưởng - phát triển tạo năng suất, thậm chí còn
cho năng suất, chất lượng cao. Cây trồng cạn chỉ hút được nước hữu hiệu trong
đất, tức là lượng nước được tính từ độ ẩm cây héo đến độ ẩm tối đa đồng ruộng.
Theo đó thì sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng không giảm cho tới một
độ ẩm nhất định. Giới hạn này khác nhau tuỳ thuộc vào loại đất (khả năng giữ
nước của đất). Như vậy, khi tưới nước phải duy trì độ ẩm trong tầng đất có bộ rễ
phân bố không giảm xuống quá một giới hạn nào đó để đảm bảo cây trồng sinh
trưởng và phát triển tốt, cho năng suất cao nhất mà số lần tưới ít. Độ ẩm giới hạn
này gọi là độ ẩm tối thiểu thích hợp. Độ ẩm này có giá trị tối đa là độ ẩm đồng
ruộng và giới hạn dưới tuỳ thuộc vào loại đất.
Theo Nguyễn Duy Tân (1985) thí nghiệm xác định độ ẩm tối thiểu để bắt
đầu tưới lấy như sau:
Trên đất nặng: Ymin = Y0 + 2/3 (Ymax - Y0)
Trên đất trung bình: Ymin = Y 0 + 1/2 (Y max - Y0)
Trên đất nhẹ: Ymin = Y0 + 1/3 (Ymax - Y0)
Khi duy trì lượng trữ nước trong đất ở trong khoảng độ ẩm thích hợp từ
Ymin đến Ymax cây trồng sẽ được cung cấp nước thường xuyên, khoảng 15 - 40%
thể tích khe rỗng, bảo đảm thoả mãn yêu cầu về ôxy cho bộ rễ và vi sinh vật
cũng như loại trừ được cacbonic tạo ra bởi quá trình sinh lý trong đất.
1.3. Phương pháp tưới truyền thống và sự lãng phí nước
Theo thống kê của cục quản lý tài nguyên nước, nhu cầu sử dụng nước
cho mục đích tưới trong nông nghiệp hiện chiếm tỷ lệ lớn nhất trong các nhu cầu
sử dụng nước. Ước tính, nhu cầu nước tưới năm 2000 là 76,6 tỷ m3, chiếm 84%
tổng nhu cầu sử dụng nước toàn quốc. Nhu cầu này còn tiếp tục gia tăng khi
mục tiêu đảm bảo tưới của Việt Nam đến năm 2010 là 12 triệu ha – tương ứng
với lượng nước sử dụng là 88,8 tỷ m3. Tuy nhiên, con số này có thể là nhỏ hơn
nếu các biện pháp tưới tiết kiệm nước được áp dụng sâu và rộng trong nông
nghiệp; đồng thời hệ thống kênh mương được gia cố hợp lý, chống thất thoát
nước trên đường vận chuyển.
Thực tế cho thấy, một số nông dân ở một số vùng ở tỉnh Bắc ninh cho
biết họ có thói quen là mực nước trong ruộng lúa lúc nào cũng phải đầy, không
thể nhỏ hơn 5 - 7 cm (thường là 7-10 cm) và chỉ tháo nước làm khô ruộng khi
chuẩn bị gặt. Một phép tính đơn giản từ thực tế trên là nếu thường xuyên giữ lớp
nước tưới trong ruộng lớn hơn qui định khoảng 2-3 cm thì lượng nước cần cung
cấp cho tưới đã tăng lên 200 - 300 m3/ ha/1lần và lượng nước tưới cả vụ sẽ tăng
lên 1500 - 1800 m3/vụ. Nếu tính toán theo mức trên đối với diện tích được tưới
trên 7 triệu ha thì lượng nước tưới đã sử dụng lãng phí khoảng trên 10 tỷ m3
(lượng nước này gấp 2 lần tổng dung tích hồ chứa hiện có trong cả nước) chiếm
15 - 16% tổng lượng nước yêu cầu. Để có được lượng nước này phải có trên
6000 tỷ đồng để xây dựng 20 -25 hồ chứa loại vừa trở lên có dung tích bình
quân trên 500 triệu m3/ hồ. (Đăng Tạp chí TNT - WATER RESOURCES -Hội TLVN
(VIWARDA) trang 45. Số 2-2005). TS. Vũ Thế Hải - Giám đốc Trung tâm Nghiên
cứu thuỷ nông và cải tạo đất (Viện Khoa học thuỷ lợi)- Theo NTNN - Ngày
22/2/2006, cho biết: "Do người nông dân vẫn còn sử dụng các phương pháp
tưới truyền thống như tưới rãnh và tưới ngập, nên lượng nước sử dụng cho 1ha
lúa trong một vụ hiện khá cao, lên đến 6.000-7.000m3. Trong đó, lượng nước
thực mà cây trồng sử dụng để sinh trưởng, phát triển tăng sinh khối chỉ chiếm
một phần nhỏ còn lại là nước bị thất thoát theo các con đường bốc hơi, dò rỉ qua
bờ thửa, do thấm ngang qua bờ kênh ra mương tiêu…Điều này gây lãng phí một
lượng nước rất lớn, đồng thời có thể gây bệnh cho cây trồng do nước chảy tràn
mầm bệnh lan truyền nhanh, hoặc gây hiện tượng yếm khí lâu ngày gây độc cho
cây, từ đó ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng sản phẩm.
Tóm lại, với điều kiện khan hiếm nước sinh hoạt và nước tưới như hiện
nay thì các phương pháp tưới truyền thống cần phải được cân nhắc và cải tiến
trước khi áp dụng cho mỗi đối tượng cây trồng. Đồng thời đẩy mạnh việc áp
dụng các phương pháp tưới hiện đại tiết kiệm nước cho cây trồng nước cũng như
cây trồng cạn.
II. Phương pháp tưới hiện đại trong sản xuất rau
Hiện nay, ở trên thế giới cũng như Việt Nam có rất nhiều phương pháp tưới
khác nhau được áp dụng để cung cấp nước cho cây trồng, có thể chia ra 2 loại chủ
yếu là phương pháp tưới theo trọng lực (Phương pháp tưới truyền thống) như tưới
rãnh, dải, tưới mặt đất… và tưới bằng áp lực (phương pháp tưới hiện đại tiết kiệm
nước) như tưới phun mưa, nhỏ giọt và tưới ngầm…Trong đó, các phương pháp
tưới truyền thống dẫn đến sự lãng phí nước và làm hạn chế khả năng sinh trưởng
của một số loại cây trồng như đã nêu ở trên; còn phương pháp tưới hiện đại tiết
kiệm nước với những tính năng ưu việt của chúng đã và đang được khuyến khích
mở rộng phạm vi áp dụng.
Các phương pháp tưới hiện đại được áp dụng phổ biến trong sản xuất rau:
2.1. Phương pháp tưới nhỏ giọt
Đây là một phương pháp tưới tiết kiệm nước được phát triển vài chục năm
gần đây trên thế giới. Hệ thống tưới được lắp các vòi nhỏ giọt cung cấp vào
vùng rễ cây trồng dưới dạng các giọt liên tục. Đặc điểm của tưới nhỏ giọt là lưu
lượng tưới nhỏ (2 - 10 lít.giờ), áp lực làm việc thấp (khoảng 1 atm), thời gian
một lần tưới dài, chu kỳ tưới ngắn, có thể khống chế lượng nước, chất dinh
dưỡng chính xác gần nhất với nhu cầu của cây trồng vào đất ở vùng hoạt động
của rễ cây. Diện tích đất còn lại trong ruộng không được làm ẩm nên tiết kiệm
nhiều nước tưới, hạn chế sự phát triển cỏ dại, tạo độ thoáng khí trong đất, tạo
điều kiện thuận lợi cho rễ cây phát triển mạnh. Hệ thống tưới nhỏ giọt có thể bố
trí cố định, bán cố định hoặc di chuyển được. Tuy nhiên đa số ống tưới là ống
mềm, đặt nổi trên mặt đất nên dễ di chuyển và lắp đặt.
Khi nước nhỏ ra từ vòi lan truyền vào đất nhờ trọng lực và mao dẫn, theo
phương thẳng đứng và theo phương nằm ngang, tạo thành hình côn ẩm. Lõi của
côn ẩm là vùng đất gần bão hoà nước, ngoài cùng là mặt viền ẩm. Rễ cây phát
triển chủ yếu trong vùng côn ẩm. Kích thước và hình dạng côn ẩm phụ thuộc
chủ yếu vào lưu lượng vòi nước, loại đất và thời gian tưới. Qua thực nghiệm
người ta đã ước tính được khoảng cách bố trí vòi nhỏ giọt đối với các loại đất
như sau:
Bảng 2. Khoảng cách bố trí vòi nhỏ giọt đối với các loại đất
Lưu lượng vòi (lít/giờ)
Loại đất 2 4 8
Khoảng cách vòi (m)
Đất nhẹ 0,4 x 0,4 0,8 x 0,8 1,2 x 1,2
Đất trung bình 0,8 x 0,8 1,2 x 1,2 1,6 x 1,6
Đất nặng 1,2 x 1,2 1,6 x 1,6 2,0 x 2,0
Như vậy, phương pháp này ngoài tiết kiệm nước tưới nó còn có tính thích
nghi cao với đất tưới và điều kiện địa hình, có thể áp dụng cho các loại đất khác
nhau, diện tích nhỏ, không cần san bằng đất tưới…đặc biệt, tốt đối với những
vùng thấm nước lớn, khó khăn cho việc làm kênh mương; đồng thời giảm quy
mô công trình đầu mối, tiết kiệm đất canh tác, tiết kiệm công sức lao động; có
thể bón phân hoá học, thuốc bảo vệ thực vật với độ đồng đều cao qua hệ thống;
không tạo thành dòng chảy bề mặt nên không gây xói mòn đất cục bộ, phá vỡ
cấu tượng bề mặt đất canh tác; Và làm tăng năng suất, chất lượng sản phẩm của
cây trồng, đem lại thu nhập cao cho người nông dân.
Theo Nguyễn Thị Hằng Nga, 2003, thí nghiệm trên cây khoai tây cho biết
tưới nhỏ giọt làm tỷ lệ nảy mầm đạt 100%, năng suất đạt khoảng 25 tấn/ha, hiệu
suất sử dụng nước đạt 0,119 m 3/kg củ khoai tây. Các kết quả đó đều cao vượt
trội hơn so với kết quả thu được ở công thức tưới rãnh. Hay một dẫn chứng khác
để lý giải cho lựa chọn phương pháp tưới nhỏ giọt là sáng suốt và hợp lý trong
điều kiện hiện nay của nền nông nghiệp thế giới cũng như của nước ta, đó là ở
Ixrael từ đầu những năm 70 của thế kỷ trước, sự phát triển của công nghệ tưới
nhỏ giọt có thể được coi là cuộc cách mạng trong nông nghiệp ở những vùng đất
khô cằn, cho phép tiết kiệm rất nhiều nước tưới (hiệu suất tưới đạt tới 80 - 95%),
tăng lượng ôxy trong đất, cho phép tưới kết hợp bón phân, đồng thời có thể sử
dụng nước tưới có chất lượng thấp hơn….Còn nhiều các mô hình khác về việc
áp dụng phương pháp tưới nhỏ giọt cho các đối tượng cây trồng cụ thể trên thế
giới nhưng trong khuôn khổ bài viết này chúng tôi không thể liệt kê ra hết được,
tuy nhiên đa số các mô hình này đều phản ánh khi cây trồng được tưới theo
phương pháp tưới nhỏ giọt thì sinh trưởng phát triển đồng đều hơn, năng suất ổn
định hơn và phẩm chất nông sản được nâng cao vì chủ động (kiểm soát) được
lượng nước, phân bón, hoá chất bảo vệ thực vật đưa vào. Vì vậy, phương pháp
này được đánh giá rất cao trong việc nâng cao năng suất và phẩm chất cây trồng.
2.2. Phương pháp tưới phun mưa
Tưới phun mưa xuất hiện từ đầu thế kỷ 20 ở Ý, Đức và phát triển rất
nhanh. Năm 1939 nó mới được sử dụng để tưới cho 100 000 ha, năm 1960 đã
tăng 2,5 triệu hecta. Mỹ có diện tích tưới phun lớn nhất thế giới, năm 1963 đã
đạt 1,8 triệu hecta. Các nước Châu Âu đã dần thay thế các phương pháp tưới
khác bằng tưới phun mưa. Đặc biệt ở Israel, diện tích tưới phun đến nay đã đạt
gần 95% vì ở đây đất tơi vụn và nguồn nước cực hiếm, nên phải hạn chế thất
thoát nước. Nhờ phương pháp tưới này, nhiều vùng đất thiếu nước nghiêm trọng
đã trở thành những vùng nông nghiệp trù phú, màu mỡ với nhiều loại cây trái.
Tưới phun mưa là kỹ thuật sử dụng thiết bị thích hợp tạo và phân phối
nước tưới cây trồng, mặt đất dưới dạng những hạt mưa. Phương pháp tưới phun
mưa đã được kết luận là hoàn thiện, hiện đại và được áp dụng phổ biến tưới cho
cây trồng cạn.
Phương pháp này có những ưu điểm như:
- Tiết kiệm nước do chỉ hơi trong quá trình tưới, tổn thất nước trong quá
trình vận chuyển là không đáng kể. Hệ số sử dụng nước cao, đạt 80 - 85% trong
khi tưới rãnh chỉ đạt 60 - 70%, điều này có ý nghĩa to lớn đối với khu vực khan
hiếm nước.
- Có thể thực hiện được trong mọi địa hình, không cần thực hiện sâu bộ
nào đối với mặt đất tưới. Sử dụng trên đất có tính thấm lớn mà các phương pháp
khác không thực hiện được.
- Bảo đảm mức tưới chính xác, phân phối khá đồng đều. Ngoài ra tưới
phun mưa còn làm mát cây, chống sương muối cho cây trồng vào thời gian lạnh
giá, cải tạo tốt tiểu khí hậu trang trại. Có thể cung cấp các loại dinh dưỡng hoà
tan, thuốc trừ sâu một cách đồng đều, chính xác cho cây trồng, tạo điều kiện cho
tự động hoá hệ thống tưới.
Với những ưu điểm nêu trên năm 1994, phương pháp tưới này bắt đầu
được lắp đặt và thử nghiệm tại Việt Nam. Hiện nay, phương pháp này đã được
nhân rộng và áp dụng ở nhiều địa phương, đặc biệt là ở các tỉnh miền núi phía
Bắc. Từ đó, đã có nhiều nghiên cứu, sáng chế ra các loại đầu phun phù hợp với
điều kiện tự nhiên cũng như kinh tế của nước ta.
Câu lạc bộ rau an toàn ở ấp Tân Tiến, xã Xuân Hiệp – huyện Xuân Lộc –
Đồng Nai có diện tích gần 30 hécta với 35 hộ thành viên. Hội viên CLB nhận
được nhiều sự giúp đỡ trong ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất,
như mô hình bón phân vi sinh, mô hình tưới nước phun mưa, quy trình chăm sóc
rau sạch. Nhờ vậy, năng suất rau tăng, đã nâng mức thu nhập bình quân 1 hécta
đạt trên 300 triệu đồng/năm, nhiều hộ trong CLB rau an toàn đã trở nên khá giả.
(http://www.dongnai.gov.vn/cong-dan/tin_nongnghiep-nongthon)
Tưới phun mưa cho rau trong nhà lưới
Tuy nhiên, công nghệ này có giá thành rất cao, nên chưa được ứng dụng
phổ biến vào sản xuất. TS. Vũ Thế Hải cho biết: "Trung bình để đầu tư cho một
hệ thống tưới như phun mưa, sẽ tốn hết khoảng 60-70 triệu đồng/ha, nên công
nghệ này chỉ phù hợp cho các trang trại trồng hoa cây cảnh và cây công nghiệp".
Ngoài ra, nó mang nhiều nhược điểm hơn phương pháp tưới nhỏ giọt, cụ thể
như:
- Các hệ thống phun mưa lưu lượng lớn, áp lực lớn thường gây nên sự nén
chặt đất khi hạt mưa rơi xuống và toàn bộ mặt đất được làm ẩm nên cỏ dại dễ
dàng phát triển. Mức độ lệ thuộc vào điều kiện gió (tốc độ và hướng gió) lớn,
khi tốc độ gió lớn hơn 6m/s thì phải tạm ngừng tưới
- Cần sự cung ứng thuận lợi linh kiện, chi tiết thay thế để duy trì hoạt
động liên tục và tuổi thọ của hệ thống, do đó cần có sự hỗ trợ của các ngành
công nghiệp như cơ khí, hoá chất dẻo.
Và thường phương pháp được áp dụng nhiều trong các nhà lưới sản xuất
rau an toàn
Tóm lại, trước tình hình khan hiếm nước như hiện nay thì các giải pháp
tiết kiệm nước nêu trên thật sự cần thiết cho ngành nông nghiệp. Đặc biệt trong
xu hướng xây dựng một nền nông nghiệp bền vững, có sản phẩm nông sản chất
lượng cao, tăng giá trị hàng hoá của nông sản thì việc áp dụng các biện pháp
tưới tiết kiệm nước vào trong sản xuất nông nghiệp là một thực tế không thể
không thực hiện.
PHẦN 3. KẾT LUẬN
1. Cùng với các yếu tố giống, phân bón, đất đai thì nước là một yếu tố
không thể thiếu đối với đời sống mỗi chủng loại cây trồng, cây trồng hút nước
để sinh trưởng phát triển và tạo sinh khối. Nếu thiếu nước cây trồng phát triển
kém, dễ bị sâu bệnh, cho năng suất và chất lượng sản phẩm thấp.
2. Phương pháp tưới truyền thống đã dần bộc lộ những mặt hạn chế của
chúng trong điều kiện hiện nay như gây tổn thất một lượng nước rất lớn, gây xói
mòn cục bộ, rửa trôi dinh dưỡng và làm nhiễm bẩn nguồn nước ngầm, trong một
chừng mực nào đó còn làm giảm năng suất và chất lượng nông sản. Vì vậy,
phương pháp tưới này cần phải được cải tiến hoặc thay thế bằng các phương
pháp tưới hiện đại tiết kiệm nước nhưng vẫn đảm bảo được mục tiêu năng suất
đặt ra.
3. Các phương pháp tưới hiện đại tiết kiệm nước lần lượt được nghiên cứu
và đưa vào áp dụng trong sản xuất nông nghiệp. Trong đó có phương pháp tưới
nhỏ giọt và phương pháp tưới phun mưa được sử dụng nhiều trong sản xuất rau
mà đã được khẳng định qua lượng nước tiết kiệm cũng như năng suất cây trồng.