Tiểu luận: "Hiện trạng kỹ thuật, tiềm năng và định hướng phát triển nuôi tôm sú (Penaeus monodon) thương phẩm ở Sóc Trăng"
Vấn đề thách thức được đặt ra giữa gia tăng diện tích, sản lượng và phát triển bền vững nghề nuôi tôm sú thương phẩm. Để đảm bảo gia tăng cả về sản lượng và giá trị cho ngành tôm sú thì công tác nghiên cứu hiện trạng nuôi, tiềm năng phát triển là thật sự cần thiết, điều này không chỉ bảo tồn và phát triển bền vững nghề nuôi mà còn cải thiện đời sống người dân trong vùng được tốt hơn. Từ thực tế trên, chuyên đề “Hiện trạng kỹ thuật, tiềm năng và định hướng phát...
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
TIỂU LUẬN
HIỆN TRẠNG KỸ THUẬT, TIỀM NĂNG VÀ
ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NUÔI THƯƠNG PHẨM
TÔM SÚ (Penaeus monodon) Ở SÓC TRĂNG
Môn học: KỸ THUẬT NUÔI THỦY SẢN NƯỚC MẶN LỢ NÂNG CAO
Lớp: CAO HỌC NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
Cán bộ giảng dạy Học viên thực hiện
TS. NGÔ ANH TUẤN NGUYỄN TẤN DUY PHONG
ThS. LỤC MINH DIỆP (trợ giảng)
ThS. NGUYỄN ĐỊCH THANH (trợ giảng)
Nha Trang, 09/2009
MỤC LỤC
Trang
Chương I: Giới thiệu ........................................................................................... 2
Chương II: Phương pháp nghiên cứu .................................................................. 3
2.1. Vật liệu nghiên cứu ............................................................................ 3
2.2. Phương pháp nghiên cứu .................................................................... 3
2.3. Phương pháp xử lý số liệu .................................................................. 3
Chương III: Nội dung .......................................................................................... 4
3.1. Đặc tính kỹ thuật của các mô hình nuôi tôm sú ở Việt Nam và thế giới .... 4
3.2. Hiện trạng kỹ thuật nuôi tôm sú ở Sóc Trăng ....................................... 5
3.2.1. Công trình nuôi thương phẩm tôm sú .......................................... 5
3.2.2. Vấn đề con giống, mật độ nuôi và kích cở thả ............................. 6
3.2.3. Vấn đề quản lý chất lượng nước ........................................................ 8
3.2.4. Vấn đề quản lý thức ăn................................................................ 9
3.2.5. Vấn đề dịch bệnh ...................................................................... 11
3.2.6. Vấn đề sử dụng thuốc hóa chất .................................................. 12
3.3. Tiềm năng của nghề nuôi thương phẩm tôm sú ở Sóc Trăng.............. 13
3.3.1. Tình hình nuôi tôm sú thương phẩm .......................................... 13
3.3.2. Thị trường tiêu thụ .................................................................... 14
3.3.3. Chính sách phát triển................................................................. 16
3.3.4. Điều kiện tự nhiên và các nhân tố khác ..................................... 17
3.4. Định hướng phát triển nghề nuôi tôm sú thương phẩm ở Sóc Trăng .. 18
3.4.1. Làm tốt công tác quy hoạch và quản lý ..................................... 18
3.4.2. Nuôi thương phẩm tôm sú bền vững ......................................... 19
3.4.2.1. Lựa chọn địa điểm ......................................................... 19
3.4.2.2. Tổ chức và quản lý sản xuất .......................................... 19
3.4.2.3. Quản lý dịch bệnh ......................................................... 20
3.4.2.4. Thị trường tiêu thụ ........................................................ 20
3.4.3. Những giải pháp quản lý nhằm tăng tính bền vững của nghề
nuôi tôm sú thương phẩm ......................................................... 20
Chương IV: Kết luận và đề xuất ......................................................................... 22
4.1 Kết luận ......................................................................................... 22
4.2 Kiến nghị ....................................................................................... 22
Tài liệu tham khảo ............................................................................................. 23
Nguyễn Tấn Duy Phong – Nha Trang University | 1
CHƢƠNG I
GIỚI THIỆU
Ở Việt Nam nuôi tôm biển đã trở thành hoạt động quan trọng nhất và
được xem là mục tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển nuôi trồng thủy sản giai
đoạn 1999-2010 (224/1999/QĐ-TTg). Theo báo cáo của Bộ Thuỷ sản (2006)
thì đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng nuôi tôm nước lợ quan trọng
nhất so với cả nước. Năm 2005, diện tích nuôi tôm nước lợ của ĐBSCL đạt
535.145 ha chiếm 88,5%, với sản lượng tôm nuôi 263.560 tấn chiếm 81,2% so
với cả nước (Bộ Thủy Sản, 2006).
Nuôi tôm nước lợ là một trong những ngành kinh tế chủ lực của tỉnh Sóc
Trăng. Năm 2006, diện tích nuôi tôm nước lợ đạt 52.421 ha với sản lượng
52.566 tấn (Sở Thủy Sản Sóc Trăng, 2007). Với nhiều thuận lợi về điều kiện tự
nhiên cũng như tiềm năng về diện tích, nghề nuôi tôm của Sóc Trăng không
ngừng phát triển với nhiều hình thức nuôi như chuyên tôm quảng canh cải tiến,
bán thâm canh - thâm canh; mô hình nuôi kết hợp với rừng ngập mặn; và hình
thức nuôi tôm luân canh với lúa hoặc luân canh với cá (mới phát triển gần đây).
Các mô hình nuôi tôm này góp phần mang lại nguồn thu nhập đáng kể và cải
thiện cuộc sống cho người dân trong vùng. Tuy nhiên, nghề nuôi tôm lại đang
phải đối mặt với rất nhiều thách thức không chỉ từ kỹ thuật thuần túy như dịch
bệnh hay con giống mà còn là các mối quan ngại về các tác động kinh tế, xã
hội, môi trường và gần đây là các vấn đề tranh chấp thương mại và rào cản chất
lượng sản phẩm.
Vấn đề thách thức được đặt ra giữa gia tăng diện tích, sản lượng và phát
triển bền vững nghề nuôi tôm sú thương phẩm. Để đảm bảo gia tăng cả về sản
lượng và giá trị cho ngành tôm sú thì công tác nghiên cứu hiện trạng nuôi, tiềm
năng phát triển là thật sự cần thiết, điều này không chỉ bảo tồn và phát triển bền
vững nghề nuôi mà còn cải thiện đời sống người dân trong vùng được tốt hơn.
Từ thực tế trên, chuyên đề “Hiện trạng kỹ thuật, tiềm năng và định hƣớng
phát triển nuôi tôm sú (Penaeus monodon) thƣơng phẩm ở Sóc Trăng”
được thực hiện nhằm phân tích hiện trạng nuôi tôm, tổng hợp các ảnh hưởng
kinh tế, xã hội và môi trường của ngành nuôi tôm sú thương phẩm đến tiềm
năng phát triển, cũng như các thách thức ngành nuôi tôm đang gặp phải dựa trên
việc tổng quan tài liệu có sẵn để từ đó đưa ra một số kiến nghị chính sách nhằm
định hướng phát triển bền vững nghề nuôi thương phẩm tôm sú ở Sóc Trăng.
Nguyễn Tấn Duy Phong – Nha Trang University | 2
CHƢƠNG II
VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Vật liệu nghiên cứu
+ Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu: được thực hiện trong thời gian từ tháng 07/2009 đến tháng
10/2009. Địa điểm nghiên cứu: nghề nuôi tôm sú thương phẩm ở Sóc Trăng.
+ Đối tƣợng nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu hiện trạng kỹ thuật nuôi nuôi
tôm sú thương phẩm, tiềm năng của nghề nuôi thương phẩm tôm sú ở Sóc Trăng.
2.2 Phƣơng pháp nghiên cứu
Số liệu được thu thập từ các báo cáo định kỳ hàng năm của sở, Chi cục Thủy
sản ở vùng nghiên cứu, các tạp chí chuyên ngành, báo cáo của Bộ Thủy sản,
báo cáo khoa học trong và ngoài nước có liên quan đến tình hình nuôi thương
phẩm tôm sú nói riêng và ngành nuôi tôm nói chung. Bên cạnh đó số liệu cũng
được thu thập số liệu từ các website chuyên ngành trong và ngoài nước cũng
như các quyết định, nghị định, chỉ thị của Bộ Thủy Sản và Chính phủ.
Thu thập các thông tin về tiềm năng nuôi, số liệu kỹ thuật cũng như định hướng
phát triển của địa phương thông qua Chi cục Thủy Sản Sóc Trăng.
2.3 Phƣơng pháp xử lý số liệu
Báo cáo tập trung phân tích hiện trạng về mặt kỹ thuật được coi là nội dung
trọng tâm. Tuy nhiên các vấn đề khác về hiện trạng nghề nuôi tôm sú thương
phẩm ở Sóc Trăng như hiện trạng kinh tế, xã hội,... vẫ được đề cập để phân tích
làm rõ hiện trạng kỹ thuật, tiềm năng và định hướng phát triển cho nghề nuôi
tôm sú thương phẩm ở Sóc Trăng.
Ma trận SWOT được sử dụng để phân tích những cơ hội, thuận lợi, thách thức
cũng như những rủi ro của nghề nuôi tôm sú ở địa phương này để từ đó đề xuất
kiến nghị giải pháp cho sự phát triển bền vững nghề nuôi tôm sú thâm canh ở
Sóc Trăng.
Nguyễn Tấn Duy Phong – Nha Trang University | 3
CHƢƠNG III
NỘI DUNG
3.1 Đặc tính kỹ thuật của các mô hình nuôi tôm sú ở Việt Nam và thế giới
Hiện nay trên thế giới và Việt Nam có rất nhiều mô hình nuôi tôm biển
được áp dụng, mỗi mô hình nuôi ngoài các đặc tính kỹ thuật chung thì còn có
tính đặc thù theo từng vùng sinh thái. Đặc tính kỹ thuật của hình thức nuôi tôm
biển được phân chia thành quảng canh, bán thâm canh, thâm canh và siêu thâm
canh. Tuy nhiên, theo Chanratchakool et al. (1997) thì hiện nay xu hướng phân
chia thành hình thức nuôi năng suất cao (hơn 3 tấn/ha/vụ) và năng suất thấp (1-
3 ha/ha/vụ) đã được sử dụng nhiều hơn. Trong năm 1994, tổng diện tích nuôi
tôm của Việt Nam là 204.950 ha thì nuôi tôm quảng canh chiếm tới 161.630 ha
(79%), quảng canh cải tiến là 37.202 ha (18%), bán thâm canh chỉ chiếm 6.117
ha (3%) và thâm canh chỉ có 26,3 ha (Nguyễn Văn Hảo, 2001).
Hiện nay, nuôi tôm quảng canh có vai trò quan trọng và đóng gớp không
nhỏ vào sản lượng chung của nghề nuôi tôm. Theo Nguyen Viet Thang (2001)
từ năm 1994, nuôi tôm quảng canh chiếm 78% trong các hình thức nuôi tôm.
Nhìn chung, diện tích nuôi quảng canh thường lớn để đạt sản lượng cao, trung
bình của hình thức này từ 5 – 7 ha/hộ, riêng ở Cà Mau có thể lên đến 20 ha/hộ.
Trong nuôi quảng canh, người nuôi dựa hoàn toàn vào thức ăn tự nhiên trong
ao nên mật độ nuôi thấp 0,5 – 1 con/m2 thường lệ thuộc vào nguồn giống tự
nhiên, do vậy sản lượng cũng không cao, 70 – 150 kg/ha/năm (Sở Thủy Sản
Sóc Trăng, 2006; Menasveta, 2001). Tuy có ưu điểm chi phí đầu tư thấp, kích
cở thu hoạch lớn nhưng lại có nhược điểm là năng suất và lợi nhuận thấp, quản
lý khó khăn do diện tích lớn (Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải, 2004;
Nguyen Viet Thang, 2001).
Hình thức nuôi bán thâm canh dựa vào nguồn thức ăn bên ngoài, có thể
là thức ăn viên hay thức ăn tươi sống cũng như dùng thuốc hóa chất (đặc biệt
hóa chất cải tạo ao, diệt tạp, xử lý nước,..) trong nuôi tôm. Mật độ thả dao động
từ 8 – 10 con/m2 (tiêu chuẩn Ngành thủy sản Việt Nam 2000), nhưng trong
thực tế là từ 15 – 24 con/2 (Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải, 2004).
Diện tích ao nhỏ từ 0,2 – 0,5 ha, được xây dựng hoàn chỉnh có đầy đủ trang
thiết bị như sục khí, máy bơm,... chủ động trong quản lý ao. Kích thước nhỏ
nên dễ vận hành và quản lý. Kích cở tôm thu khá lớn và gián bán cao (Nguyen
Nguyễn Tấn Duy Phong – Nha Trang University | 4
Viet Thang, 2001). Tuy nhiên lại có nhược điểm là năng suất không cao, theo
Menasveta (2001) sản lượng trung bình đạt 600 – 1800 kg/ha/năm.
Nuôi thâm canh là hình thức dựa hoàn toàn vào thức ăn bên ngoài chủ
yếu là thức ăn viên có chất lượng cao. Theo Nguyen Viet Thang (2001) cho
biết, mật độ trong mô hình nuôi thâm canh từ 30 – 40 tôm bột/m2. Diện tích
nuôi từ 0,5 – 1 ha, tối ưu là 1 ha. Ao xây dựng rất hoàn chỉnh, cấp và tiêu nước
hoàn toàn chủ động, có trang thiết bị đầy đủ các phương tiện máy móc, có điện
và giao thông thuận lợi,… nên dễ quản lý và vận hành. Vì thế theo kết quả điều
tra của Menasveta (2001) cho biết sản lượng đạt ở mức cao 6 – 10 tấn/ha/vụ.
Tuy nhiên, nhược điểm của mô hình này là kích cở tôm thu hoạch nhỏ (30 – 35
con/m2), chi phí vận hành cao, nhưng lợi nhuận trên một đơn vị sản phẩm
không cao (Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải, 2004). Hiện nay hình
thức nuôi thâm canh chỉ được đầu tư ở một số địa phương nhưng năng suất sản
xuất vẫn chưa mang tính ổn định (Nguyen Viet Thang, 2001).
Tóm lại, các hình thức nuôi tôm sú ở Sóc Trăng được phân chia thành
quảng canh, bán thâm canh, thâm canh. Trong đó hình thức nuôi quảng canh và
bán thâm canh là phổ biến nhất, có tính quyết định đến diện tích nuôi, cũng như
sản lượng tôm nuôi. Bên cạnh đó, hình thức nuôi bán thâm canh và thâm canh
hiện nay khá giống nhau từ hệ thống nuôi đến kỹ thuật vận hành và quản lý ao
nuôi. Vì vậy, ngay trên một đơn vị diện tích, vận hành cả hai hình thức (thâm
canh – vụ nuôi chính, bán thâm canh – vụ nuôi phụ) nên được xem xét thực
hiện để hạn chế rủi ro cũng như tăng hiệu quả của trại.
3.2. Hiện trạng kỹ thuật nuôi tôm sú ở Sóc Trăng
3.2.1 Công trình nuôi thƣơng phẩm tôm sú
Để hạn chế được tình hình dịch bệnh trên tôm nuôi và phục vụ cho mục
tiêu phát triển ổn định và bền vững nghề nuôi tôm thì vai trò của ao trữ, lắng là
yêu cầu không thể thiếu (Nguyễn Văn Hảo, 2001). Nguyễn Thị Phương Nga
(2004) cho biết trung bình 76% số hộ có dùng ao trữ lắng. Trong kết quả
nghiên cứu của Nguyễn Thanh Phương et al. (2008) có đến 92,75% số hộ có ao
lắng trong nuôi thâm canh tôm sú. Diện tích ao lắng chủ yếu là dùng để xử lý và
dự trữ nước dùng cho quá trình thêm hay thay nước cho ao nuôi mà ít sử dụng
nguồn nước của ao lắng để cấp cho ao nuôi tôm thịt vào thời điểm bắt đầu vụ
nuôi (Nguyễn Thanh Phương et al., 2008). Ngoài ra Nguyễn Văn Hảo (2001)
còn cho biết ao trữ lắng còn có ưu điểm nữa là giảm số lượng mầm bệnh trong
nước cấp và giảm tính độc hại của thuốc hóa chất sát trùng nước.
Nguyễn Tấn Duy Phong – Nha Trang University | 5
Ao nuôi tôm sú được xây dựng dựa theo đặc điểm sinh thái của từng
vùng. Tuy nhiên vấn đề quan trọng trong nuôi tôm là chất lượng nước và sự
phong phú của nguồn nước cấp. Theo Bộ Thủy Sản et al. (2004) ao nuôi có
diện tích từ 0,4 – 0,6 ha, độ sâu trung bình 1,3 – 1,6 m và có cống cấp và cống
thoát riêng biệt. Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải (2004) cho biết diện
tích nuôi được hầu hết cơ sở nuôi cho làm kích cở chuẩn là 0,5 ha. Trong một
báo cáo gần đây Nguyễn Thanh Phương et al. (2008) thì diện tích ao trung bình
ở Sóc Trăng là 4.546 m2/ao. Nhưng nhìn chung diện tích ao bình quân ở ĐBSCL
thấp hơn một số nước lân cận. Theo Anantanasuwong (1999) thì ở Thái Lan chọn
kích cở chuẩn là 1 ha cho ao nuôi tôm. Trong khi đó theo kết quả của Hanafi và
Ahmad (1999) cho biết ở Indonesia diện tích ao nuôi sản lượng 59 triệu tôm bột (PL) chiếm 1,3% tổng số lượng PL được bán trong
tỉnh, số còn lại 98,7% đuợc nhập từ các tỉnh khác (Sở Thủy sản Sóc Trăng,
2008). Trong khi đó, xu hướng phát triển các trại tôm giống ở địa phương đã làm
giảm nhu cầu nhập tôm từ các địa phương khác Trần Văn Việt (2006) cho biết có
tới 95% số hộ nuôi tôm mua giống ở các cơ sở ương giống của địa phương, số
tôm giống này có nguồn gốc từ miền Trung và được xem là có chất lượng cao và
giá đắt hơn giống ở các tỉnh ĐBSCL. Còn lại 5% số hộ là các cơ sở giống mua
giống ở các tỉnh ĐBSCL mà theo nông dân và các cơ sở ương giống thì nguồn
này rẻ hơn nhưng chất lượng kém hơn so với nguồn giống từ miền Trung (Trần
Văn Việt, 2006).
Trong những báo cáo gần đây về nghề nuôi tôm sú thâm canh – bán
thâm canh ở Sóc Trăng (Nguyễn Thanh Phương et al., 2008; Trần Văn Việt
2006; Nguyễn Anh Tuấn et al., 2004; Nguyễn Thị Phương Nga, 2004) cho thấy
tỷ lệ sống có xu hướng tăng khi mật độ thả giảm (Bảng 3.1). Nếu như năm
2004, tôm sú nuôi có tỷ lệ sống là 33% (Nguyễn Anh Tuấn et al., 2004). Năm
2006 trong một điều tra khác cho thấy tỷ lệ sống tăng lên 38,4%. Còn theo kết
quả nghiên cứu gần đây cho biết tỷ lệ sống của tôm sú đạt 59% khi thả với mật
độ 17 con/m2 (Nguyễn Thanh Phương et al., 2008). Theo đó cho thấy, bên cạnh
mật độ thả thì cũng còn nhiều yếu tố liên quan đến tỷ lệ sống như kích cở giống
thả - có thể là do thả con giống loại nhỏ. Nhưng cũng cũng cần xét đến nhiều yếu
tố liên quan khác cũng làm tăng hoặc giảm tỷ lệ sống như trình độ chăm sóc
quản lý, chất lượng con giống, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường nước,…
Bảng 3.1. Mật độ và tỷ lệ sống trong mô hình nuôi tôm sú thâm canh – bán
thâm canh ở Sóc Trăng
Mật độ Tỷ lệ sống
Năm nghiên cứu Tác giả
(con/m2) (%)
2008 ≤ 15 - Tóm lại, vấn đề con giống có ảnh hưởng rất quan trọng đến năng suất và
sản lượng của cả vụ nuôi. Vì vậy chất lượng con giống, mật độ, cũng như kích
cở thả nuôi cần được quan tâm nghiên cứu hơn nữa nhằm nâng cao hiệu quả
kinh tế trong nghề nuôi tôm sú thương phẩm.
3.2.3. Vấn đề quản lý chất lƣợng nƣớc
Trong quá trình nuôi tôm, môi trường nước có ảnh hưởng rất lớn đến
sản lượng và chất lượng tôm nuôi. Đối với nuôi tôm sú pH khoảng 7,5 – 8,5 là
tốt nhất (Chanratchakool et al., 2003). Trong báo cáo của Nguyen Thanh Hung
et al. (2003, Bảng 3.2) cho thấy pH dao động nằm trong khoảng 8.0 là tốt cho
nuôi tôm sú nuôi thâm canh. Theo Trần Ngọc Hải et al. (2006) cho biết trong
nuôi tôm sú ở ĐBSCL thì độ mặn và pH mùa nắng cao hơn mùa mưa. Trong
mùa mưa độ kiềm thường giảm đi do ảnh hưởng bởi lượng nước ngọt rất lớn từ
nước mưa. Trần Văn Hoà et al. (2002) cho biết độ kiềm thích hợp cho nuôi tôm
sú thường từ 80-120 mg/L. Vì vậy để giữ ổn định độ kiềm trong mùa mưa thì
bón vôi định kỳ cần được quan tâm.
Hàm lượng những ion như NH4+, PO43-,… trong nuôi tôm là vô cùng
cần thiết cho sinh vật mặc dù hàm lượng của chúng tương đối thấp (Boyd,
1991). Lượng trầm tích được tìm thấy trong ao nuôi tôm 31% N, 84% P, 63%
vật chất hữu cơ, 93% chất rắn lơ lửng và trong ao nuôi tôm sú thâm canh lượng
bùn đáy tích tụ khoảng 20 – 290 mt/ha/vụ DW (Primavera, 2006). Còn theo
Nguyễn Thanh Long và Võ Thành Toàn (2008) cho biết khi sản xuất ra 1 tấn tôm
sú sau thì ra môi trường khoảng 173 - 196 kg N và 30 – 33 kg P. Với lượng vật
chất khá lớn trong ao nuôi tôm vì vậy chất lượng nước ao nuôi có thể bị xấu đi
nếu như vượt quá sức tải của môi trường vì vậy nên cần xử lý nước thải trước
khi thả ra môi trường.
Bảng 3.2. Giá trị trung bình trong năm của các yếu tố thủy lý hóa ở trong nuôi
tôm sú ở ĐBSCL
Yếu tố ĐVT Trung bình Kênh Ao nuôi Mưa Khô Mưa Khô
2002 2003 2003 2004
pH 7,68±0,5 7,44 7,83 7,75 7,69 7,45 7,46
Salinity g.L-1 25,75±18,1 25,17 25,17 9,38 40,04 8,41 44,78
Cl- g.L-1 13,72±9,7 13,34 13,34 4,98 22,00 4,45 23,20
SO42- mg.L-1 1988±1380 1976,00 1996,20 753,10 3066,10 670,80 3455,60
DO mg.L-1 6,03±2,8 3,88 7,45 5,10 6,32 5,14 6,12
COD mg.L-1 215,20±165,4 222,60 210,20 43,90 273,20 127,20 421,40
NO3- mg.L-1 0,12±0,072 0,094 0,130 0,083 0,119 0,150 0,096
NH4+ mg.L-1 0,03±0,032 0,027 0,031 0,011 0,032 0,049 0,024
PO43- mg.L-1 0,11±0,127 0,145 0,082 0,115 0,095 0,209 0,036
Nguồn: Nguyen Thanh Hung et al., 2004
Nguyễn Tấn Duy Phong – Nha Trang University | 8
Gonzalez et al. (2007) báo cáo rằng thực vật phiêu sinh phát triển mạnh
hơn trong mùa mưa khi hàm lượng chất dinh dưỡng nhất là NO 3- tăng cao.
Hàm lượng NH4+ thích hợp cho ao nuôi tôm dao động trong khoảng 0,2 – 2,0
mg/L (Chanratchakool, 2003). Hàm lượng NH4+ trong ao lớn hơn 2,0 mg/L
được xem là giàu dinh dưỡng và tảo trong ao sẽ phát triển rất mạnh. Thông
thường, khi hàm lượng NH4+ vượt quá 1 mg/L là tín hiệu bón phân quá mức
(Lê Văn Cát et al., 2006). Trong báo cáo của Nguyen Thanh Hung et al. (2004)
cũng cho thấy hàm lượng NH4+ tương đối thấp 0,108 ± 0,127.
Việc suy giảm năng suất trong hệ thống ao nuôi tôm thâm canh có liên
quan đến sự suy giảm về chất lượng nước cung cấp, nước trong ao và bùn đáy.
Đây là một trong những bất cập hàng đầu trong nghề nuôi thủy sản là công tác
quy hoạch (Nguyễn Thanh Long và Võ Thành Toàn, 2008). Cũng vì thiếu quy
hoạch nên việc nuôi tôm thường phát triển một cách tự phát và ồ ạt, quy mô và
phương thức nuôi cũng rất đa dạng, chủ yếu chú trọng vào mở rộng diện tích
nên đã đẩy môi trường nuôi tôm vào tình trạng khắt nghiệt, tăng nguy cơ gây
bệnh cho tôm. Do thiếu hệ thống thủy lợi hợp lý hoặc hệ thống xử lý chất thải
làm cho chất lượng nước trong ao nuôi biến đổi theo chiều hướng xấu, dẫn đến
hiện tượng “thối ao”, “lão hóa ao nuôi” và sau một số năm sử dụng, năng suất
nuôi giảm đáng kể (Lê Mạnh Tân, 2005).
Hiện nay, theo điều tra của Nguyễn Thanh Phương et al. (2008) cho thấy
trong nghề nuôi tôm sú thâm canh ở Sóc Trăng số hộ nuôi không có ao lắng chỉ
chiếm 7,5%, diện tích ao lắng trung bình 3.178 m2/hộ và mỗi hộ có trung bình
1,3 ao. Trong số hộ có ao lắng thì tỉ lệ diện tích ao lắng so với diện tích ao nuôi
tôm thịt nhỏ hơn 20% cao nhất chiếm 51,4%, từ 20-30% chiếm 27,0% và lớn
hơn 30% chiếm 21,7%. Trong khi đó, tỷ lệ này ở một số nước trong khu vực là
25 -30%, thậm chí có thể lên đến 40% (Centema, 2004 trích bởi Lê Mạnh Tân,
2005). Vì vậy cần có quy hoạch tổng thể và cụ thể để có hệ thống cấp thoát nước
riêng phù hợp với nhu cầu. Bên cạnh đó theo Lê Mạnh Tân (2005) thì hiện nay
vấn đề xử lý chất thải trong ao nuôi tôm vẫn chưa được quan tâm đúng mức.
Bên cạnh quản lý chất lượng nước trong ao nuôi thì quản lý nguồn nước
cấp và thoát cũng rất quan trọng vì nó không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến bản
thân người nuôi mà còn gián tiếp ảnh hưởng đến môi trường nuôi xung quanh
(dịch bệnh, ô nhiễm nước,…). Duy trì chất lượng nước tốt vào ổn định trong ao
nuôi cũng như đảm bảo nguồn nước cấp được xem là một trong những yếu tố
then chốt để phát triển ổn định nghề nuôi tôm hiện nay. Hiện nay, để giảm chất
thải ra môi trường và cải tạo ao nuôi, có thể sử dụng các mô hình nuôi ghép,
nuôi tuần hoàn, nuôi luân canh với các loài thủy sản khác hay sử dụng thực vật
để hấp thu đạm và lân từ nguồn chất thải này.
Nguyễn Tấn Duy Phong – Nha Trang University | 9
3.2.4. Vấn đề quản lý thức ăn
Quản lý thức ăn rất quan trọng do liên quan trực tiếp đến hiệu quả kinh
tế, ảnh hưởng đến chất lượng môi trường ao nuôi vì lượng thức ăn thừa sẽ làm
môi trường ao nuôi nhanh chóng bị suy thoái, mặt khác sẽ làm nâng cao hệ số
chuyễn đổi thức ăn (FCR) từ đó làm giảm hiệu quả kinh tế (Lê Văn Hảo,
2001). Vì thế các vấn đề về thức ăn là khâu kỹ thuật quan trọng vì nó chiếm 40
– 50% tổng chi phí của vụ sản xuất đối với mô hình thâm canh – bán thâm canh
và cho ăn phù hợp không những giảm thiểu ô nhiễm môi trường mà còn giúp
tôm lớn nhanh (Chanratchakool et al., 1997).
Trong báo cáo của Nguyễn Thanh Phương et al. (2008) cho biết tôm
nuôi thâm canh ở Sóc Trăng được cho ăn thức ăn viên và có hệ số chuyển đổi
thức ăn (FCR) trung bình 1,59. Cũng trong nghiên cứu này tác giả cũng cho
biết nếu FCR từ 1,2 -1,5 thì người nuôi có lãi, cao hơn 1,5 thường ở những hộ
tôm chậm lớn, hoặc có cá tạp, tôm bị bệnh, tỉ lệ sống thấp hoặc kích cỡ thu
hoạch nhỏ. Hàm lượng đạm trong thức ăn là một trong những nhân tố ảnh
hưởng đến FCR. Theo Tiêu chuẩn ngành (2001) thì thức ăn viên được dùng
trong nuôi tôm sú thâm canh phải có hàm lượng đạm tổng số từ 30 – 40%. Hàm
lượng đạm trong thức ăn có ảnh hưởng quan trọng đến hiệu quả nuôi, FCR,…
Tuy nhiên trong nghề nuôi tôm sú thâm canh thì FCR cũng bị nhiều ảnh hưởng
bởi các yếu tố khác trong quá trình nuôi.
Bảng 3.3. Khối lượng tôm trung bình, lượng thức ăn sử dụng, lượng thức cho
vào sàn ăn và thời điểm kiểm tra sàn ăn sau khi cho tôm ăn
Khối lượng Khẩu phần ăn Thức ăn cho vào Thời điểm
tôm bình quân (% khối lượng cơ thể) sàng (% tổng kiểm tra sàng
(g) lượng thức ăn) ăn (giờ sau khi
Bán thâm canh Thâm canh cho ăn)
2 5,0 6,0 2,0 3,0
5 4,5 5,5 2,4 2,5
10 4,0 4,5 2,8 2,5
15 3,5 3,8 3,0 2,0
20 3,0 3,5 3,3 2,0
25 2,5 3,2 3,6 1,5
30 2,5 2,8 4,0 1,0
>35 2 – 2,5 2,5 4,2 1,0
(Nguồn: Chanratchakool et al., 1997)
Cho tôm ăn là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của vụ
nuôi vì khẩu phần ăn của tôm giảm dần trong quá trình nuôi, vì khẩu phần ăn
của tôm lớn thấp hơn tôm nhỏ. Trong tháng đầu sau khi thả giống để xác định
chính xác khối lượng thực tế còn hạn chế nên lượng thức ăn sử dụng được căn
cứ vào số tôm thả. Tuy nhiên, để cho ăn một lượng thích hợp còn dựa vào các
Nguyễn Tấn Duy Phong – Nha Trang University | 10
điều kiện thực tế của ao. Vì tôm có thể bị phân đàn trong giai đoạn đầu (1
tháng) sau khi thả nuôi và điều này cũng dễ dẫn đến tôm không điều cở khi thu
hoạch và khó khăn trong sử dụng thức ăn (Nguyễn Thanh Phương và Trần
Ngọc Hải, 2004; Bảng 3.3).
Nhìn chung, thức ăn trong nuôi tôm thâm canh được người nuôi đặc biệt
quan tâm vì không chỉ nó ảnh hưởng đến tình trạng sức khỏe, môi trường trong
nuôi tôm mà nó còn ảnh hưởng đến chi phí và hiệu quả kinh tế của cả vụ nuôi.
3.2.5. Vấn đề dịch bệnh
Dịch bệnh trên động vật thủy sản đang tăng lên ở mức độ toàn cầu
(Ghittino et al., 2003). Cũng giống với động vật trên cạn, bệnh ở động vật thủy
sản chia làm hai nhóm chính là bệnh truyền nhiễm và bệnh không truyền nhiễm.
Những tác nhân này gồm virut, vi khuẩn, metazoan và protozoan (Barnard,
2004). Bệnh gây ra do vi khuẩn là đáng kể nhất mà hầu hết các trang trại nuôi
tôm trên toàn thế giới gặp phải. Theo kết quả nghiên cứu của Bùi Quang Tề
(2006), bệnh thường xảy ra ở các ao nuôi có điều kiện môi trường xấu và những
vùng có mật độ trại cao. Vì thế nên bệnh có thể xuất hiện trong suốt vụ nuôi.
Bảng 3.4. Một số bệnh phổ biến trong nuôi thương phẩm tôm sú
Tên bệnh Tỷ lệ số hộ bắt gặp (%)
Đóng rong 65,00
Đen mang 26,70
Phân trắng 16,70
Mòn đuôi 13,30
Bệnh nhiễm độc 8,33
Đầu vàng 3,33
Mềm vỏ 11,70
Đốm trắng 25,00
Nấm 1,67
Phát sáng 10,00
Nguồn: Huỳnh Thị Tú et al., 2006
Theo các báo cáo của Huỳnh Thị Tú et al. (2006) và Nguyễn Thanh
Phương et al. (2008) cho biết một số bệnh bệnh xuất hiện trong suốt nuôi tôm
sú ở Sóc Trăng như bệnh do virus, bệnh do vi khuẩn nấm, ký sinh trùng hay
bệnh do dinh dưỡng trong đó một số bệnh như MBV (Monodon Baculovirus),
đốm trắng, đầu vàng,.. xuất hiện khá phổ biến (Bảng 3.4). Kết quả nghiên cứu
của Nguyễn Thanh Phương et al. (2008) ở Sóc Trăng cho chấy số hộ nuôi tôm
có ao nuôi tôm khỏe hoàn toàn chiếm 20,0%. Bệnh tôm thường xuất hiện sau
20 ngày thả nuôi. Bệnh đốm trắng và đầu vàng thường xuất hiện sau 20 ngày
thả đến tháng thứ 3. Các bệnh khác như mềm vỏ, sâu đuôi, đen mang và đóng
rong thường kéo dài trong suốt vụ, đặc biệt là ở những ao có chất lượng nước
Nguyễn Tấn Duy Phong – Nha Trang University | 11
không tốt hay nền đáy bị ô nhiễm. Bệnh MBV chỉ phát hiện bằng cảm quan sau
khoảng 25 ngày thả nuôi và khi đó tôm có dấu hiệu của tỉ lệ phân đàn cao và
màu sắc tôm đen sậm. Bùi Quang Tề (2006) cho biết thêm tác hại của một số
bệnh như, bệnh MBV không làm tôm chết hàng loạt, nhưng làm tôm chậm lớn
và chết rải rác. Khi thu hoạch tỷ lệ sống rất thấp đây là vấn đề nan giải của
nghề nuôi tôm biển ở Việt Nam.
Nhìn chung, đây là các bệnh phổ biến trên tôm sú nuôi (Chanratchakool
et al., 1997). Tuy nhiên cũng có một số bệnh mới xuất hiện ở Việt Nam nói
chung và ĐBSCL nói riêng trong thời gian gần đây như bệnh phân trắng.
Những bệnh này được người nuôi chuẩn đoán bệnh tôm thông thường dựa vào
sự thay đổi tập tính hoặc dấu hiệu bên ngoài của tôm.
3.2.6. Vấn đề sử dụng thuốc hóa chất
Với xu hướng thâm canh trong nghề nuôi tôm sú thì bệnh xảy ra là điều
khó có thể tránh khỏi. Bệnh là nguyên nhân gây thất thoát tôm nuôi. Nếu không
điều trị kịp thời, bệnh sẽ lây lan nhanh chóng và dẫn đến kết quả không mong
muốn. Bên cạnh đó do quy định sử dụng kháng sinh trên tôm rất khắt khe nên
người nuôi sử dụng phương pháp phòng bệnh là chính, hạn chế tối đa việc sử
dụng kháng sinh và đặc biệt là không sử dụng thuốc-hóa chất trong danh mục
cấm của Bộ Thủy Sản.
Theo các khảo sát của Mai Văn Tài et al. (2004), Nguyễn Thị Phương
Nga (2004) và Huỳnh Thị Tú et al. trong năm 2006 thì kiến thức của người
nuôi về thuốc-hóa chất, ảnh hưởng của chúng lên môi trường và sức khỏe còn
thấp. Hầu hết người NTTS đều đã tham gia tập huấn về nuôi NTTS nhưng ít
được tập huấn về lựa chọn, sử dụng và bảo quản thuốc - hóa chất. Nên người
nuôi chủ yếu theo kinh nghiệm mà tự pha trộn, không nhận thức được tính kết
hợp hay đối kháng của thuốc cũng như hậu quả và những vấn đề liên quan đến
sức khỏe con người, vật nuôi và an toàn thực phẩm. Lê Xuân Sinh và Phan Thị
Ngọc Khuyên (2006) cũng cho biết là phần lớn người nuôi sử dụng kháng sinh
theo hướng dẫn của người bán thuốc. Chỉ có những trang trại quy mô lớn được
quản lý tốt mới sử dụng theo hướng dẫn thú y. Vì vậy việc sử dụng kháng sinh
nhầm, kháng sinh bị cấm vẫn còn diễn ra.
Trên địa bàn nghiên cứu ở hai tỉnh Sóc Trăng và Bạc Liêu, Huỳnh Thị
Tú et al. (2006) đã ghi nhận được 74 loại thuốc hóa và hóa chất dùng cho nuôi
trong đó có 20 loại thuốc và hóa chất dùng diệt tạp và tẩy trùng; 19 loại kháng
sinh; 10 loại hóa chất dùng xử lý đất và nước; 10 loại men vi sinh; và một số
loại thuốc và hóa chất khác như phân bón, sản phẩm dùng tăng cường hệ miễn
dịch bổ sung vào thức ăn cho tôm.
Nguyễn Tấn Duy Phong – Nha Trang University | 12
Trong một báo cáo khác của Nguyễn Thị Phương Nga (2004) về thuốc
và hóa chất dùng nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh tại Sóc Trăng, Bạc
Liêu và Cà Mau cho thấy có đến 116 sản phẩm thuốc và hóa chất được sử dụng
trong nuôi trồng thủy sản thuộc các nhóm khác nhau với các mục đích sử dụng
khác nhau. Trong đó tác giả cũng đã tìm thấy 40 loại hóa chất được sử dụng
trong mô hình nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh. Hóa chất với hoạt chất
như saponin, trichlorofon được sử dụng phổ biến nhất trong diệt tạp và
postassium monopersulfate (Virkon®) được sử dụng nhiều trong cải tạo ao.
Sự phát triển nhanh chóng của nghề nuôi tôm dẫn đến tình hình sử dụng
thuốc và hóa chất cũng gia tăng. Nhưng nhìn chung người nuôi bắt đầu nhận
thức được mức độ sử dụng thuốc hóa chất vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí
sản xuất và dư lượng kháng sinh trong tôm khi thu hoạch. Vì vậy mà nhu cầu
sử dụng thuốc hóa chất được người nuôi quan tâm nhiều hơn. Tuy nhiên, khi
nhu cầu sử dụng tăng, nhiều loại kháng sinh với tên thương mại khác nhau,
phòng trị bệnh khác nhau đã xuất hiện trên thị trường làm cho công tác quản lý
thuốc và hóa chất trở nên khó khăn hơn.
3.3. Tiềm năng của nghề nuôi thƣơng phẩm tôm sú ở Sóc Trăng
3.3.1. Tình hình nuôi tôm sú thƣơng phẩm
Hiện nay thì những mô hình nuôi tôm được áp dụng phổ biến trên thế
giới như quảng canh, thâm canh, bán thâm canh, thâm canh và siêu thâm canh.
Những hình thức này được lựa chọn tùy theo đặc điểm của từng vùng như đất,
nguồn nước, thời tiết, khí hậu hay tình hình kinh tế xã hội,…(Bộ Thủy Sản,
1996; Xan, 1996; Menasveta, 2001). Tuy nhiên, trong thời gian gần đây nghề
nuôi tôm trên thế giới cũng như ở Việt Nam đang đối mặt với nhiều khó khăn
như ô nhiễm môi trường, dịch bệnh,.. kết quả là gây ra những tổn thất to lớn
cho nghề nuôi tôm, ảnh hướng đến sản lượng chung.
Ở Việt Nam, nghề nuôi tôm sú tại ĐBSCL phát triển với tính đa dạng
cao về mô hình nuôi, không chỉ có các mô hình nuôi chuyên tôm như quảng
canh cải tiến, bán thâm canh-thâm canh mà còn có các mô hình nuôi kết hợp
như rừng – tôm, rừng – tôm – cua; và mô hình tôm – lúa luân canh. Bên cạnh
đó, mô hình tôm – cá luân canh cũng đang được phát triển gần đây (Nguyễn
Thanh Phương et al., 2003). Theo Bộ Thuỷ Sản (2003), diện tích nuôi tôm ở
ĐBSCL tiếp tục phát triển mạnh, với tổng diện tích nuôi tôm là 476.582ha,
chiếm 87,2% tổng diện tích nuôi tôm nước lợ của cả nước, trong đó thì Cà Mau
(224.000ha), Bạc Liêu (109.258ha) và Sóc Trăng (51.044ha) là các tỉnh có diện
tích nuôi lớn nhất, chiếm tỷ lệ đáng kể nhất so với các tỉnh ven biển khác trong
vùng đồng bằng Nam Bộ.
Nguyễn Tấn Duy Phong – Nha Trang University | 13
Diện tích nuôi tôm tỉnh Sóc Trăng từ năm 2001 đến 2006 tăng không
đáng kể, từ 48.675 ha (2001) đến 52.421 ha (2006) (Sở Thủy Sản Sóc Trăng,
2007). Diện tích nuôi năm 2002 giảm khoảng 21,6% so với năm 2001 mà
nguyên nhân là do diện tích chuyển dịch từ ruộng sang tôm bị thiệt hại vì người
dân chưa có kinh nghiệm và thiếu vốn để tiếp tục nuôi cho năm sau. Năm 2006
tỉnh Sóc Trăng có 52.421 ha (gồm 24.767 ha nuôi QCCT, 17.217 ha nuôi BTC
và nuôi 5.310 ha TC) và 36.325 hộ nuôi tôm sú (gồm 2.634 hộ áp dụng mô hình
nuôi TC, 13.214 hộ nuôi BTC và 20.395 hộ nuôi QCCT)(Nguyễn Thanh Phương
et al., 2008). Diện tích nuôi tôm sú quảng canh cải tiến (QCCT) là 47,2%, bán
thâm canh (BTC) là 32,8% và thâm canh (TC) là 10,1%. Với lượng con giống
ước tính sử dụng cho nuôi TC là 1.306 triệu PL, BTC là 2.246 triệu PL và QCCT
là 1.470 triệu PL (Sở Thủy Sản Sóc Trăng, 2008).
Trong những năm gần đây nghề nuôi tôm sú trong các mô hình phát
triển nhanh chóng và cũng là nghề đem lại nguồn kinh tế chính cho người nuôi
tôm ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long và Sóc Trăng. Nghề nuôi tôm sú
không chỉ góp phần lớn làm tăng kim ngạch xuất khẩu thủy sản cho tỉnh mà
còn có tác động tích cực đến quá trình phát triển kinh tế xã hội, cải thiện đời
sống cho người nuôi thủy sản.
Tuy nhiên, giá thu mua không ổn định, cũng như các vấn đề dịch bệnh, ô
nhiễm môi trường cũng làm ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế của nghề nuôi tôm
sú (Bộ Thủy Sản, 2006). Nhưng một trong những bất cập hàng đầu trong nghề
nuôi thủy sản vẫn là công tác quy hoạch. Để giải quyết những hạn chế này Bộ
Thủy sản (2003) đã đề nghị triển khai quy hoạch các vùng nuôi tập trung, đặc
biệt là vùng nuôi tôm. Công tác qui hoạch vùng nuôi thủy sản ven biển sao cho
phát triển ổn định, ít dịch bệnh gây ra do ô nhiễm môi trường từ nước thải, từ các
mô hình nuôi thủy sản nhất là chất thải ra từ các mô hình nuôi tôm sú thâm canh.
3.3.2. Thị trƣờng tiêu thụ
Nghề nuôi tôm là ngành có giá trị cao trên thế giới, các sản phẩm từ tôm
có vai trò quan trọng trên thị trường thế giới. Hiện nay, 25% lượng tôm cung
ứng trên thị trường là từ nuôi trồng thủy sản (Primavera, 2006). Nhịp độ tăng
trưởng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam bình quân đạt 20%/năm (Nguyễn Công
Sách, 2003 trích bởi Bộ Thủy Sản, 2004). Giá trị xuất khẩu tôm thường chiếm
tỉ lệ cao trong tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam. Chẳng hạn, năm
2001 xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam đạt 1,76 tỉ đô la, riêng xuất khẩu tôm đã thu
về 780 triệu USD. Sang các năm 2002, 2003 giá trị xuất khẩu tôm tiếp tục tăng
(Bảng 3.5). Tôm Việt Nam chủ yếu được xuất khẩu dưới dạng tôm đông lạnh,
đóng hộp và chế biến (Bộ Thủy Sản, 2004).
Nguyễn Tấn Duy Phong – Nha Trang University | 14
Ngoài phục vụ mục đích xuất khẩu, tôm nuôi cũng được tiêu thụ ở các thị
trường nội địa, chủ yếu là ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí
Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Huế,… nhưng với khối lượng nhỏ. Sản phẩm chính
được tiêu thụ ở thị trường nội địa là tôm tươi và tôm nõn khô. Tuy nhiên tiêu thụ
trong nước vẫn còn là thị trường đầy tiềm năng chưa được khai thác hết.
Bảng 3.5. Giá trị xuất khẩu tôm Việt Nam
1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003
Giá trị xuất khẩu tôm (triệu USD) 406 457 482 662 780 940 1.059
Giá trị xuất khẩu thuỷ sản (triệu USD) 760 817 938 1.479 1.760 2.014 2.240
Giá trị xuất khẩu cả nước - - - 14.483 15.027 16.100 -
% XK tôm/XK thuỷ sản 53 56 51 45 44 47 47
Nguồn: Bộ Thuỷ sản, 2004
Các thị trường lớn như Nhật Bản, Mỹ và châu Âu là những nhà nhập
khẩu tôm lớn trên thế giới cũng như của Việt Nam. Trong khi đó, Thái Lan,
Trung Quốc và Việt Nam là những nước sản xuất tôm hàng đầu trên thế giới.
Năm 2002, Việt Nam chiếm khoảng 3% thị trường tôm xuất khẩu thế giới
(Louis Lebel et al., 2002). Trước năm 2001 Nhật Bản là thị trường số 1 của
xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam, nhưng sau đó phải nhường vị trí số 1 cho thị
trường Mỹ. Thị phần thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật có dấu hiệu
phục hồi sau năm 2002, Việt Nam đã vươn lên đứng vị trí thứ 2, sau Indonesia.
Xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Mỹ tăng mạnh sau khi 2 nước kí hiệp
định thương mại song phương Việt -Mỹ. Hiện nay Mỹ là thị trường xuất khẩu
tôm lớn nhất của Việt Nam. Năm 2002 thị trường Mỹ chiếm 36,25% giá trị
xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (tăng 30,42%). Xuất khẩu tôm đông lạnh của Việt
Nam sang Mỹ đứng ở vị trí thứ 2, sau Thái Lan. Trung Quốc và các nước công
nghiệp mới ở Đông Á cũng là các thị trường hứa hẹn cho xuất khẩu thuỷ sản
của Việt Nam. Năm 2003 thị trường Trung Quốc chiếm 7,27% giá trị. EU là thị
trường nhập khẩu thuỷ sản lớn, nhưng thị phần của thuỷ sản Việt Nam ở đây lại
còn nhỏ. Tuy nhiên giá trị xuất khẩu vào thị trường EU trong năm 2003 đã tăng
60% so với năm 2002 (Bộ Thuỷ Sản, 2004; Bảng 3.6).
Bảng 3.6. Thị phần xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam (phần trăm)
Thị trường 1997 2000 2001 2002 2003
Nhật 50 33 26 27 26
Mỹ 5 21 28 32 38
Châu Âu 10 7 6 4 6
Trung Quốc 14 20 18 15 7
Khác 21 19 22 22 23
Nguồn: Bộ Thuỷ Sản, 2004
Nhìn chung, bên cạnh tiêu thụ trong nước thì xuất khẩu vẫn là thị trường
chính. Một số thị trường chủ lực của Việt Nam như Nhật Bản, Mỹ, châu Âu có
Nguyễn Tấn Duy Phong – Nha Trang University | 15
sản lượng tôm sú xuất khẩu của Việt nam vẫn chưa cao. Thêm vào đó là những
khó khăn do rào cản thương mại cũng như chất lượng vệ sinh an toàn thực
phẩm đã là sản lượng tôm sú của Việt Nam xuất khẩu ra thế giới gặp không ít
khó khăn. Nhưng trong thời gian gần đây được sự quan tâm của các bộ, ngành
liên quan trực tiếp đến nuôi trồng thủy sản đã làm cho nghề nuôi, xuất khẩu
tôm sú từng bước ổn định và tăng trưởng trở lại.
3.3.3. Chính sách phát triển
Sự phát triển của nghề nuôi tôm thương phẩm ở Việt Nam được đánh
dấu từ đầu những năm 1990 và sau đó là sự bùng nổ từ đầu năm 2000, theo
Nghị quyết số 09/2000/NQ-CP của chính phủ về chuyển đổi cơ cấu kinh tế và
tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Diện tích nuôi tôm ở Việt Nam tăng từ 250,000
ha năm 2000 lên 478,000 ha và 540,000 ha tương ứng với các năm 2002 và
2003 (Trần Văn Nhường và Bùi Thị Thu Hà, 2005).
Trong những năm 1997-1998 do ảnh hưởng của thị trường thế giới, sản
phẩm nông nghiệp bị giảm, chi phí sản xuất tăng cao nên người trồng lúa không
có lãi và gặp nhiều khó khăn, trong khi đó hiệu quả của nuôi tôm cao gấp 30- 40
lần so với trồng lúa ở cùng thời điểm. Chính vì vậy nhiều nông dân đã tham gia
nuôi tôm và dần dần tự phát mở rộng trên đất ruộng lúa. Đây cũng chính là lý do
để nước mặn xâm nhập vào nội đồng và các hoạt động canh tác nông nghiệp ngày
càng trở nên kém hiệu quả. Ngược lại, nghề nuôi tôm ngày càng chứng tỏ được ưu
thế hơn so với trồng lúa trên khu vực ven biển này. Tuy nhiên nuôi tôm sú vẫn là
hoạt động sản xuất có mức rủi ro cao và cần có đầu tư lớn về kỹ thuật, vốn và các
vấn đề hạ tầng có liên quan (Nguyễn Văn Hảo, 2001; Trần Văn Việt, 2006).
Nghị quyết 03/NQ-CP (2000), chính sách lâu dài của Chính phủ Việt
Nam là khuyến khích phát triển và bảo hộ và kinh tế trang trại. Về chính sách
tổ chức sản xuất nuôi trồng thuỷ sản, định hướng của Chính phủ là “lấy kinh tế
hộ, kinh tế trang trại là hình thức sản xuất chủ yếu”. Vì thế, nhà nước cho phép
hộ gia đình, các thành phần kinh tế chuyển đổi ruộng nhiễm mặn, ruộng trũng,
đất làm muối, đất ngập úng sản xuất lúa bấp bênh kém hiệu quả sang nuôi
trồng thuỷ sản theo nghị quyết 09/2000/NQ-CP. Ngành nuôi tôm thực sự đã có
bước phát triển mạnh kể từ sau khi nghị quyết 09/2000/NQ-CP được ban hành.
Nuôi tôm sú là nghề mới phát triển mạnh ở Sóc Trăng từ cuối thập kỹ
trước, kể từ khi có quyết định số 224/1999 QĐ-TTg của chính phủ phê duyệt
chương trình nuôi trồng thủy sản thời kỳ 1999-2010. Sóc Trăng là vùng đất có
nghề truyền thống nông nghiệp trồng lúa (Trần Văn Việt, 2006). Nhưng với
kim ngạch xuất khẩu thủy sản năm 1992 là 25,3 triệu USD, năm 2004 tăng lên
297 triệu USD và năm 2005 đạt 306 triệu USD, Sóc Trăng được xem là tỉnh
Nguyễn Tấn Duy Phong – Nha Trang University | 16
thứ hai của ĐBSCL sau Cà Mau về chế biến xuất khẩu thủy sản (Quang Hải,
2005) cũng như có nguồn thu ngoại tệ lớn về xuất khẩu tôm cho đất nước. Tuy
nhiên do xuất phát là một tỉnh nghèo nên gặp nhiều khó khăn về vốn, nguồn
nhân lực lao động kỹ thuật, mặt bằng dân trí chưa cao đó là nguyên nhân nghề
nuôi tôm sú thương phẩm ở Sóc Trăng còn gặp phải khi chuyển đổi sản xuất
theo mô hình mới (Sở Thủy Sản Sóc Trăng, 2006).
Nhìn chung, các chủ trương, chính sách vĩ mô của Chính phủ dành cho
ngành nuôi trồng thuỷ sản đã tính đến việc hài hoà các mục tiêu phát triển kinh
tế, xã hội và môi trường nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng cao và bền vững. Tuy
nhiên trong quá trình thực hiện tại địa phương còn gặp một số bất cập như quy
hoạch, giống, vốn, quản lý môi trường, quản lý dịch bệnh chưa đáp ứng đủ cho
một ngành phát triển với tốc độ quá nhanh. Vì vậy, các vấn đề này vẫn phải
được các bộ ngành liên quan xem xét để phát triển ổn định và bền vững nghề
nuôi tôm sú ở Việt Nam nói chung và Sóc Trăng nói riêng.
3.3.4. Điều kiện tự nhiên và các nhân tố khác
Sóc Trăng với diện tích tự nhiên 322.000 ha, có tiềm năng phát triển
kinh tế đa dạng, sau ngày giải phóng, Sóc Trăng tiến hành nhiều cuộc chinh
phục, cải tạo thiên nhiên, hình thành các hệ thống thủy lợi ngăn mặn, cải tạo
chua phèn, mở ra triển vọng lớn khai thác tài nguyên đất, nước và các nguồn
lực khác để phát triển nền kinh tế nông nghiệp toàn diện. Các dự án thủy lợi
của Sóc Trăng đã đem lại hiệu quả to lớn không chỉ cho nông nghiệp mà còn
cho nuôi trồng thủy sản (Bộ Thủy Sản, 2005).
Bên cạnh đó công tác quản lý thuỷ sản trên địa bàn nhất là công tác quản
lý giống, thức ăn, thuốc thú y,… đồng thời cũng cố mạng lưới dịch vụ giống của
tư nhân. Đến năm 2005 đã có 253 cơ sở dịch vụ, kinh doanh giống, 02 trại sản
xuất tôm giống, hàng năm cung ứng từ 4 đến 5 tỷ con giống cho phong trào nuôi,
các nguồn giống đều được qua kiểm tra kiểm dịch chặt chẽ, bảo đảm theo tiêu
chuẩn ngành quy định. Ngoài ra công tác bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, bảo vệ môi
trường được phối hợp chặt chẽ với các địa phương, tăng cường kiểm tra, kiểm soát
hạn chế các hoạt động nghề cấm, bơm bùn ra sông rạch, sử dụng các thuốc trừ sâu
để cải tạo ao... bảo đảm sản phẩm làm ra đạt tiêu chuẩn sạch, an toàn vệ sinh thực
phẩm phục vụ tốt cho chế biến xuất khẩu (Huỳnh Thành Hiệp, 2005).
Bên cạnh điều kiện tự nhiên, hệ thống thủy lợi thuận lợi, nghề nuôi tôm
sú ở Sóc Trăng còn có nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển ngành như hệ
thống cung cấp con giống, ngày càng đáp đứng đủ nhu cầu, kỹ thuật nuôi được
nâng cao, thức ăn, thuốc hóa chất được quan tâm đúng mức trong quá trình
Nguyễn Tấn Duy Phong – Nha Trang University | 17
nuôi, nguồn nhân lực ngày càng cao,… là điều kiện cần thiết cho phát triển bền
vững nghề nuôi tôm sú ở Sóc Trăng.
3.4. Định hƣớng phát triển nghề nuôi tôm sú thƣơng phẩm ở Sóc Trăng
Như đã trình bày ở trên, nhờ có thuận lợi về điều kiện thời tiết, tiềm năng
lớn về diện tích và chính sách mở cửa của Chính phủ cũng như nhu cầu rất lớn
về tôm trên thị trường thế giới đã tạo cho nghề nuôi tôm của Việt Nam có những
bước phát triển khá ngoạn mục. Xét về diện tích, việc làm và ngoại hối thì nuôi
tôm hiện là một trong những hoạt động phát triển mạnh nhất ở Việt Nam (Bộ
Thủy Sản, 2004). Tuy nhiên do ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác như ô nhiễm
môi trường, dịch bệnh đã làm cho nghề nuôi tôm đứng trước nhiều thách thức
mới đòi hỏi chính sách, định hướng để phù hợp với tình hình mới.
Mặc khác, để tiếp tục thực hiện kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp và phát triển nông thôn theo nghị quyết 09 của Chính phủ theo
hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá, nhằm khai thác tiềm năng lợi thế của
tỉnh, phát triển sản xuất có hiệu quả, đúng qui hoạch, tăng cường chuyển giao
khoa học kỹ thuật, xây dựng mô hình có hiệu quả để nhân rộng, tiếp tục thử
nghiệm sản xuất giống tôm sú tại chổ, đồng thời thực hiện xã hội hóa con giống
để đáp ứng nhu cầu nuôi. Theo Huỳnh Thành Hiệp (2005) dự kiến đến năm
2010 diện tích nuôi trồng thuỷ sản ở Sóc Trăng đạt 80.000 ha, trong đó diện
tích nuôi tôm 60.000 ha, sản luợng thuỷ sản nuôi 175.000 tấn, trong đó sản
lượng tôm là 90.000 tấn. Để đạt mục tiêu, chỉ tiêu đề ra cần tập trung thực hiện
một số giải pháp dưới đây như:
3.4.1. Làm tốt công tác quy hoạch và quản lý
Trên cơ sở quy hoạch thủy sản, có bước đi phù hợp quy hoạch, gắn với
công tác bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, bảo vệ môi trường. Tiếp tục rà soát chuyển
đổi một số vùng sản xuất kém hiệu quả sang mô hình sản xuất kết hợp nuôi
thuỷ sản để tăng hiệu quả, khai thác được tiềm năng mặt nước. Đồng thời xây
dựng các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ cho vùng chuyển đổi như đầu tư
về thuỷ lợi, giao thông, điện,... phục vụ sản xuất và sinh hoạt.
Tăng cường chuyển giao khoa học kỹ thuật trong cộng đồng, xây dựng
các mô hình nuôi thí điểm, xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn vùng nuôi thuỷ sản
an toàn theo qui định để có sản phẩm sạch đáp ứng nhu cầu thị trường. Cũng
như tổ chức tuyên truyền công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản, bảo vệ môi
trường và quản lý chặt chẽ con giống, thức ăn thuốc thú y... phục vụ nuôi trồng
thuỷ sản.
Nguyễn Tấn Duy Phong – Nha Trang University | 18
3.4.2. Nuôi tôm sú bền vững
Trong thập kỹ tới, tôm sú tiếp tục sẽ là đối tượng chủ lực, thu hút sự chú ý
của người dân và chính quyền các cấp trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ven biển.
Để định hướng phát triển nghề nuôi tôm bền vững, điều cần thiết là phải nhận
thức một cách sâu sắc và có tính hệ thống về hiện trạng phát triển của ngành.
3.4.2.1. Lựa chọn địa điểm
Thiết lập hệ thống nuôi hợp lý là một trong những yêu cầu quan trọng
trong thành công của người nuôi (Vũ Thế Trụ, 2001). Để có hệ thống nuôi
thích hợp thì việc chọn điểm và thiết lập công trình đúng phương pháp là yêu
cầu bắt buộc. Vì vậy, chuẩn hóa các yếu tố như nguồn nước cung ứng, chế độ
thủy triều, quản lý đất và các yếu tố môi trường khác có thể ảnh hưởng là điều
cần thiết. Quan trọng hơn là mật độ trang trại ở vùng được quy hoạch để không
vượt quá sức tải của môi trường do mở rộng quy mô sản xuất của ở những trại
nuôi thành công trong những vụ trước đó (Primavera, 2006).
Bên cạnh đó thì phát triển hệ thống thủy lợi đầy đủ, phù hợp sẽ làm giảm
thiểu khả năng rủi ro cho các hộ nuôi. Bộ Thủy Sản (2004) cho biết hiện nay do
tốc độ tăng diện tích nuôi quá nhanh nên hệ thống thủy lợi đáp ứng cho nuôi
thủy sản vẫn còn hạn chế. Sở Thuỷ Sản Sóc Trăng (2005) cho biết các hộ nuôi ở
xa hệ thống cấp thoát nước chính, hoặc xa bờ biển thường có tỷ lệ tôm chết cao
hơn do khó khắc phục môi trường, nước thoát của hộ này là nước cấp của hộ kia
làm tôm chết thành dịch trên diện rộng. Vì vậy phát triển hệ thống thủy lợi hoàn
thiện có ý nghĩa sâu sắc và then chốt cho hiệu quả nuôi tôm sú nói chung.
3.4.2.2. Tổ chức và quản lý sản xuất
Đảm bảo chất lượng con giống tốt có tính quyết định đến thành công của
vụ nuôi. Tuy nhiên, khi đa phần các bải cư trú, ổ sinh thái của tôm con như
rừng ngập mặn, bãi triều và đầm phá đã bị khai thác tới hạn thì trữ lượng tôm
bố mẹ ở Việt Nam sẽ giảm. Do sự khan hiếm nguồn tôm bố mẹ, nhiều cơ sở
sản xuất giống đã mua cả những tôm bố mẹ không bảo đảm chất lượng để thả
nuôi, dẫn đến tình trạng tôm con giống kém chất lượng. Đây là yếu tố quan
trọng ảnh hưởng đến tính bền vững của nuôi tôm vì vậy quản lý con giống là
yêu cần bắt buộc không chỉ của người nuôi mà còn của các bộ ngành liên quan
trực tiếp đến thủy sản.
Ứng dụng khoa học công nghệ. Đổi mới và ứng dụng khoa học công
nghệ cũng tác động lớn đến tính bền vững của ngành nuôi tôm. Như trên đã
nêu, sản xuất tôm giống ở Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung vẫn
phải phụ thuộc vào tôm bố mẹ đánh bắt từ tự nhiên. Đa số người dân nuôi tôm
Nguyễn Tấn Duy Phong – Nha Trang University | 19