Tiểu luận: Cơ chế hoạt động và vai trò của mô hình công ty mẹ - công ty con trong nền kinh tế
- Nền kinh tế hiện nay đang trên đà phát triển, nhưng sự phát triển đó thể hiện
không đồng đều. Cụ thể là ở các nước phát triển thì nền kinh tế phát triển mạnh trong
khi đó các nước đang và kém phát triển thì nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, đặc
biệt là về nguồn vốn và khoa học công nghệ. Vì vậy muốn đưa các nước kém và đang
phát triển đi nên thì diều cần thiết cần có sự liên kết kinh tế giữa các nước kém và
đang phát triển với...
Tiểu luận
Cơ chế hoạt động và vai trò của mô
hình công ty mẹ - công ty con
trong nền kinh tế
MỤC LỤC:
A: LỜI NÓI ĐẦU………..…………………………………………………..3.
B: NỘI DUNG:
1. Tại sao cần đến mô hình công ty mẹ công ty con…………..…….…3-5.
2. Điều kiện hình thành , đặc điểm của mô hình công ty mẹ công ty
con……………………………………………………………….…5- 10.
3. Cơ chế hoạt động công ty mẹ công ty con…..……………………..10- 14.
4. Vai trò công ty mẹ công ty con trong nền kinh tế thế giới…………14- 22.
C: KẾT LUẬN.
D: DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
A.LỜI NÓI ĐẦU.
- Nền kinh tế hiện nay đang trên đà phát triển, nhưng sự phát triển đó thể hiện
không đồng đều. Cụ thể là ở các nước phát triển thì nền kinh tế phát triển mạnh trong
khi đó các nước đang và kém phát triển thì nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, đặc
biệt là về nguồn vốn và khoa học công nghệ. Vì vậy muốn đưa các nước kém và đang
phát triển đi nên thì diều cần thiết cần có sự liên kết kinh tế giữa các nước kém và
đang phát triển với các nước phát triển.
Những nguyên nhân trên đã nói nên sự cần thiết phải có một mô hình kinh tế phù hợp
mô hình công ty mẹ công ty con là một điển hình. Đây là một mô hình nhằm giúp đỡ
các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam.
- Một vấn đề đặt gia cơ bản hiện nay đó là giải pháp kinh tế để mở rộng mô
hình công ty mẹ công ty con ở Việt Nam. Một nước giầu tài nguyên và con người
chúng ta có trí sáng tạo cao, muốn hoà nhập với thế giới để tiếp thu với nền khoa học
hiện đại đồng thời phát huy tính sáng tạo. Chúng ta đã và đang thí điểm mô hình công
ty mẹ công ty con trên một số doanh nghiệp ở các lĩnh vực dầu khí, điện lực và trên
lĩnh vực thông tin.
để việc thực hiện tốt mô hình công ty mẹ công ty con thì cần hiểu rõ mô hình công ty
mẹ công ty con, đặc điểm điều kiện hình thành.
B. NỘI DUNG.
1.Tại sao cần đến mô hình công ty mẹ công ty con?
Để đưa nền kinh tế phát triển một cách nhanh chóng có hiệu quả.Thì việc đưa mô hình
công ty mẹ công ty con vào nước ta là một điều tất yếu. Nhưng muốn phát huy được
hiệu quả của mô hình thì chúng ta cần hiểu rõ mô hình này.
- Để thực hiện mô hình được tốt thì ta cần hiểu rõ công ty mẹ công ty con là gì: Công
ty mẹ công ty con là một tổ chức sản xuất kinh doanh được thực hiện bởi sự liên kết
của nhiều phương pháp kinh doanh nhằm hợp nhất các nguồn lực của một nhóm doanh
nghiệp đồng thời thực hiện sự phân công, hợp tác về chiến lược dài hạn cũng như ngắn
hạn trong sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp để tạo ra sức mạnh chung và
nâng cao hiệu quả hoạt động. Sự liên kết thực hịên các dự án lớn, thực hiện chức năng
là trung tâm xây dựng chiến lược nghiên cứu phát triển, huy động vốn đầu tư, đào tạo
nhân lực sản xuất, lắp giáp những sản phẩm độc đáo, nổi tiếng phát triển mối quan hệ
đối ngoại.
2
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
- Mô hình công ty mẹ công ty con đã tạo lên sức mạnh hợp nhất nguồn lực và cơ cấu
tài chính: Công ty mẹ công ty con giúp cho việc nghiên cứu khoa học nhằm tạo ra sự
hoà nhập giữu nghiên cứu khoa học với sản xuất kinh doanh lấy việc phát triển khoa
học công nghệ mới làm cơ sở liên kết. Các công ty con là đơn vị sản xuất kinh doanh
còn nhiệm vụ ứng dụng kết quả nghiên cứu các công nghệ mới của công ty mẹ để
biến thành lực lượng sản xuất, chuyển nhanh các sản phẩm đó ra thị trường. Từ đó
nâng cao năng lực cạnh tranh của các công ty con. Đồng thời thu hồi vốn để tiếp tục
đầu tư trở lại cho công tác nghiên cứu sản xuất để thử nghiệm. điển hình cho việc
thực hiện liên kết loại hình này là tập đoàn Trấn Quốc thành lập. Hơn thế nữa giữa
công ty mẹ và công ty con có sự gắn bó mật thiết với nhau sự chi phối giữa công ty
mẹ và công ty con được phân chia theo mô hình liên kết trên, nhưng đều là sự chi
phối bằng yếu tố tái sản trong đó bao gồm tài sản hữu hình và tài sản vô hình không
xác định bằng lượng như sở hữu công nghiệp, phát minh khoa học và trong quá trình
hoạt động việc sử dụng những tài sản này có tác dụng rất tích cực trong việc bổ xung
điều chỉnh mối liên kết, chi phối của công ty mẹ với công ty con. Cơ chế hoạt động
giữa công ty mẹ với công ty con có ảnh hưởng qua lại với nhau một cách chặt trẽ
được thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
+ Công ty mẹ là chủ sở hữu của phần vốn góp vào các công ty con, có người
đại diện cho phần vốn góp của mình tham gia vào hội đồng quản trị của các công ty
con.
+ Công ty con được công ty mẹ góp vốn vào nhiều hơn thì mối liên kết với
công ty mẹ chặt trẽ hơn. Các công ty con có mối liên kết chặt trẽ thường được công ty
mẹ đầu tư vốn 100%.Công ty con tuy độc lập nhưng công ty mẹ chi phối mạnh mẽ
như: quyết định cơ cấu tổ chức quản lý, bổ nhiệm bãi bỏ, khen thưởng, kỷ luật các
chức danh quản lý chủ yếu; Quyết định điều chỉnh vốn hợp lệ, phê duyệt dự án vốn
đầu tư theo quy định nhà nước, quyết định nội dung sửa đổi, bổ sung điều lệ công ty,
đánh giá, thông qua các báo cáo tài chính hàng năm, quyết định phương án sử dụng và
phân chialợi nhuận…Các công ty có liên kết chặt chẽ có thể tham gia góp vốn để hình
thành các công ty “cháu” nhưng phải được sự đồng ý của công ty mẹ.
+ Công ty con liên kết chặt chẽ hoặc không chặt chẽ có thể là công ty trách
nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần do thành lập với vốn kinh của nhà nước kết hợp
với vốn của tư nhân. Từ đó cho thấy trong cơ chế thị trường , Sự phát triển trong hoạt
động sản xuất kinh doanh của một số doanh nghiệp có một số đặc điểm riêng, đến một
mức nào đó sẽ nảy sinh nhu cầu liên kết giữa các donh nghiệp đa hợp nhất các nguồn
3
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
lực và cơ cấu tài chính, thực hiện phân công liên kết về sản xuất thị trường, công nghệ.
Một trong những mô hình tổ chức liên kết như thế khá phổ biến trên thế giới là công ty
mẹ công ty con.
2.Điều kiện hình thành và đặc điểm của mô hình công ty mẹ công ty con.
-Điều kiện hình thành:
+Sự phát triển mạnh mẽ của lền kinh tế thế giới đặc biệt là sự phát triển mạnh
mẽ cuả mạng lưới công ty xuyên quốc gia. Trong lền kinh tế thị trường có thể hiểu một
cách chung nhất về công ty này là những công ty cuả một quốc gia thực hiện kinh
doanh quốc tế. Để kinh doanh quốc tế các công ty này có thể thực hiện theo nhiều cách
khác nhau. Cũng có thể lập các “trạm trung gian” làm nhiệm vụ xuất khẩu nhập nước
ngoài. Hợp đồng có thể có thể thuộc lĩnh vực thương mại, dịch vụ, cũng có thể là hợp
đồng sản xuất hoặc cao hơn là thiết lập công ty chi nhánh của mình(công ty con). Các
công ty nhánh chịu sự chi phối của công ty mẹ. Do vậy người ta quan niệm các công ty
xuyên quốc gia là những công ty của một quốc gia thực hiện kinh doanh quốc tế bằng
cáng lập các công ty chi nhánh. Như vậy một công ty xuyên quốc gia có hai bộ phận
cấu thành cơ bản, đó là công mẹ và công ty chi nhánh. Một công ty mẹ có thể gồm
nhiều chi nhánh, ít nhất là một trung bình là tới 5- 10 thậm chí trên 100 chi nhánh. Các
công ty xuyên quốc gia này có xu hướng mở rộng số lượng chi nhánh. Do vậy người ta
ít dùng thuật ngữ công ty con, cháu … mà thường dùng số thứ tự để chỉ các chi nhánh
này( như các công công ty cấp 1, cấp2, cấp3 và sau cấp 3 là các mạng lưới).
Giữa công ty mẹ và công ty chi nhánh có mối liên hệ phụ thuộc, lằm trong một hệ
thống rất phức tạp. Cấu trúc hệ thống cũng như mô hình phỏng theo các cách khác
nhau có thể thực hiện sự liên kết với nhau tạo lên hệ thống chằng chịt và là một thể
thống nhất dầy mâu thuẫn bao gồm hai xu hướng “hướng tâm” và”li” tâm.Mối quan hệ
giữa công ty mẹ và công ty chi nhánh được thực hiện theo một cơ chế phức tạp. Song,
về cơ bản, các công ty chi nhánh là các công ty hạch toán độc lập. Còn công y mẹ có
quyền chi phối các công ty chi nhánh thông qua các địng hướng chiến lược cung cáap
và kiểm soát tài chính, kỹ thuật, đề bạt, cất nhắc các vị chí quan trọng về nhân sự(như
phó giám đốc, giám đốc, người phụ trách tài chính).
+Sự hình thành các công ty xuyên quốc gia:
Hiện tượng xuyên quốc gia hoá trong kinh doanh ngày càng trở thành hiện tượng phổ
biến là các xu hướng khách quan. Xu hướng này bắt nguồn từ sự phát triển cảu lực
lượng sản xuất và tính chất quốc tế hoá của nó. Chính do lực lượng sản xuất phát triển
cả về trình độ và tính chất, Khách quan đòi hỏi quan hệ sản xuất phải có sự phát triển
4
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
thích ứng, mà xuyên quốc gia chính là hình thức vận động thích ứng của quan hệ sản
xuất. Điều cần nhấn mạnh là khi phân tích quan hệ sản xuất không thể dừng lại dưới
hình thức trừu tượng: trái lại, phải phân tích các hình thái biểu hiện cụ thể của nó trong
những đơn vị tế bào của lền kinh tế, mà donh nghiệp là tế bào quan trọng nhất trong
kinh tế thị trường và xuyên quốc gia chính là hình thức tổ chức xí nghiệp quốc tế thích
ứng với tính chất quốc tế hoá của lực lượng sản xuất.
Khi phân tích về sự ra đời của các tổ chức độc quyền tư bản chủ nghĩa(mà tổ chức này
chính là hình thức vận động mới của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong điều kiện
lực lượng sản xuất phát triển),Lê Nin đã tổng kết thực tiẽn và đưa ra kết luận rằng, tích
tụ và tập trung sản xuất tới một giới hạn nhất định tất yếu dẫn đến việc ra đời các tổ
chức độc quyền. Đó là một quy luật cơ bản và phổ biến. Đồng thời Lê Nin cũng đưa ra
các dẫn chững cụ thể về sự hình thành các Các Ten,Xanh đi ca, Tờ rớt quốc tế. Đó
chính là cơ sở phương pháp luận để phân tích sự ra đời của các độc quyền quốc tế nói
chung và các công ty quốc gia nói giêng.
Trên cơ sở phương pháp luận đó, có thể khẳng định rằng, Sự ra đời của các công ty
độc quyền quốc tế là do kết quả của quá trình tích tụ và tập trung sản xuất được đẩy
mạnh hơn nữa, đã làm cho các tổ chức độc quyền quốc gia vươn gia thị trường quốc tế
dưới dạng xuyên quốc gia. Ngày nay với quá trình quốc tế hoá lực lượng sản xuất
được thúc đẩy mạnh mẽ biểu hiện trước hết ở quá trình tích tụ và tập chung sản xuất
đã làm cho hiên tượng xuyên quốc gia trở lên phổ biến. Do vậy một quốc gia dù còn ở
trình độ phát triển thấp song do hiệu ứng của quá trình tích tụ và tập chung này nen
vẫn có khả năng hiện thực để các công ty của quốc gia dưới hình thức mới, đa dạng
phong phú thông qua các hình thức liên doanh, liên kết.
Do đó cần khẳng định rằng, nguồn gốc sâu xa của sự hình thành công ty xuyên quốc
gia chính là sự phát triển lực lượng sản xuất, trước hết là tính chất quốc tế hoá của nó
và biểu hiện thông qua quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, được đẩy mạnh trên
phạm vi trế giới. Ngoài ra việc xuyên quốc gia hoá và sự hình thành các công ty xuyên
quốc gia còn bị sự chi phối bởi nhiều nguyên nhân khác đó là: Sự hỗ chợ của nhà
nước, sự hỗ chợ này bao gồm nhiều mặt từ chiến lược kinh tế, trước hết là chiến lược
kinh tế đối ngoại đến môi trường pháp lý, chính sách đòn bẩy(ưu đãi về tín dụng thuế);
nguyên nhân thứ hai là lợi ích của việc kinh doanh quốc tế, việc thiết lập chi nhánh
nước ngoài thực hiện kinh doanh quốc tế đã mang lại lợi ích lớn cho doanh nghiệp. Cụ
thể là giảm chi phí sản xuất (do giảm chi phí vận chuyển, tranh thủ được lao động giá
rẻ cũng như trình độ tay nghề của công nhân nước ngoài), tranh thủ các lợi thế về giá
5
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
cả nguyên nhiên liệu thấp nói riêng và các yếu tố đầu vào nói chung; khai thác các lợi
thế của nước chủ nhà về thị trường nội địa cũng như thị trường lân cận, khắc phục một
số hạn chế hàng rào thuế quan, phi thuế quan….Tóm lại, việc kinh doanh xuyên quốc
gia sẽ khai thác được những lợi thế trong các yếu tố “đầu vào” cũng như “đầu ra” làm
cho khả năng lợi hơn. Khả năng hiện thực và mức độ sinh lợi nhiều hơn. Khả năng
hiện thực và mức độ sinh lợi còn phụ thuộc vào khả năng sinh lợi nhiều hơn. Khả năng
hiện thực và mức độ sinh lợi còn phụ thuộc vào khả năng khai thác của các công ty
cũng như mức độ ưu đãi của nước chủ nhà.Ngày nay với sự phát triển không đồng đều
trong nền kinh tế thế giới ngày càng tăng, hầu hết các nước đang phát triển đang ở vào
tình trạng “đói vốn” nghiêm trọng nên sự khuyến khích đối đãi các công ty xuyên quốc
gia ở các nước này có xu hướng tăng lên. do vậy càng thúc đẩy hơn quá trình kinh
doanh xuyên quốc gia, làm cho quá trình quốc gia hoá được tăng cường hết sức mạnh
mẽ.
Ngày nay với quá trình quốc tế hoá sản xuất và lưu thông được đẩy mạnh hơn bao giờ
hết xuyên quốc gia trở thành phổ biến và không chỉ có công ty xuyên quốc gia của các
nước tư bản chủ nghĩa mà cả của các nước đang phát triển nên người ta gọi chung các
công ty xuyên quốc gia ngày nay là các công ty quốc gia hiện đại.
-Đặc điểm của mô hình công ty mẹ công ty con:
Cắm nhánh - đặc trưng cơ bản của các công ty xuyên quốc gia.
Cắm nhánh là đặc trưng cơ bản nhất của công ty xuyên quốc gia. Chi nhánh là bộ phận
cấu thành cơ bản của các công ty xuyên gia và là bộ phận có vai trò quan trọng đối vơí
công ty và nước chủ nhà. Để thiết lập các chi nhánh nước ngoài, các công ty xuyên
quốc gia phải xây dựng cho mình một chiến lược cụ thể. Chiến lược này bao gồm
nhiều bộ phận cấu thành, trong đó tuỳ thuộc vào nhiều loại nhân tố bên trong cũng như
cũng như chính trị các mục tiêu hoạt động của các công ty xuyên quốc gia. Đẻ thực
hiện việc cắm nhánh, các công ty xuyên quốc gia đã sử dụng một số hình thức như: Xí
nghiệp chi nhánh 100% vốn công ty(công ty 100% vốn nước ngoài). Đây là hình thức
đã có từ lâu. Hầu hết các công ty xuyên quốc gia thường sử dụng mọt số phương thức
như mua lại xí nghiệp của nước chủ nhà. Để có được xí nghiệp có được 100% vốn của
mình, các công ty xuyên quốc gia thường sử dụng một hình thức như mua lại xí nghiệp
của nước chủ nhà hoạc đầu tư xây dựng mới theo các điều khoản quy định trong luật
đầu tư xây dựng trong các điều khoản quy định trong luật đầu tư. Việc xây dựng các xí
nghiệp chi nhánh 100% vốn của công ty xuyên quốc giađược sử dụng khá phổ bién,
nhất là các công ty xuyên quốc gia Nhật bản, Mỹ trong việc xâm nhập lẫn nhau. Thí dụ
6
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
môtỏola thực hiện xây dựng xí nghiệp 100% vốn của mình tại Nhật Bản đẻ sản xuất và
bán sản phẩm tại thị trường nước này. Các hãng daimler – Benz đã xây dựng xí nghiệp
100% vốn tại các nước châu âu và các nước đang phát triển để thực hiện việc sản xuất
và tiêu thụ sản phẩm…
Ngày nay, các nước đang phát triển vẫn quan tâm nhiều đến hình thức 100% vốn của
tư bản nước ngoài, nhất là những nước có trình độ và khả năng của các đối tác trong
nước còn nhiều hạn chế . Do vậy hình thức này vẫn còn có điều kiện để phát triển.
Hơn nữa hình thức xí nghiệp 100% vốn là hình thức có ưu điểm nhất định, Như chủ
đầu tư được tự chủ sản xuất – kinh doanh… lên nhiều công ty xuyên quốc gia ưu
chuộng hình thức này.
Hình thức liên doanh: mặc dù hình thức xí nghiệp 100% vốn nước ngoài có nhiều ưu
điểm, Song cũng tồn tại một số khó khăn trong việc xâm nhập thị trường như ít am
hiểu thị hiếu, phong tục tập quán, khó giải quyết mối quan hệ với các quan chức địa
phương, khó tuyển dụng lao động , nhất là lao động quản lý… ngoài ra trước đây còn
có nhiều hiện tượng một số nước chủ nhà thựch hiện quốc hữu hoá các công ty tư bản
nước ngoài. Đó là những nguyên nhân làm cho các công ty xuyên quốc gia hạn chế
thực hiện hình thức xí nghiệp 100% vốn, mà chủ yếu thực hiện hình thức liên doanh.
Hình thức liên donh hạn chế được nhiều khó khăn do hình thức xí nghiệp 100% vốn
tạo ra đồng thời tạo khả năng khai thác tiềm năng lao động, tài nguyên, thị trường
nước chủ nhà một cách thuận lợi. Có nhiều con đường để hình thành các xí nghiệp liên
doanh. Chẳng hạn tham gia cổ phần vào các công ty đang hoạt động hoạc cùng góp
vốn xây dựng mới ở các chủ nhà. Ngày nay mô hình này đang phát triển mạnh và hết
sức đa dạng phong phú, đặc biệt đối với ngành sản xuất đồ bán dẫn cũng như ngành
chế tạo ô tô, như liên doanh trong ngành ô tô giữa các hãng lớn của Mỹ, Nhật Bản; Sự
liên doanh này đã tìm cho các bên được lợi ích cho riêng mình. Thí dụ nhờ bán cổ
phần cho GMC của iuzu mà có thêm điều kiện củng cố vị chí của mình ở Nhật Bản,
hơn nữa có thêm sản phẩm xe tải và xe buýt loại nhỏ, bổ xung cho sản phẩm xe tải cỡ
lớn của họ . Nói cách khác bằng con đường liên doanh như vậy đã tạo thuận lợi mới
cho cả các bên. Hình thức liên doanh còn diễn ra dưới dạng cổ phần. Hình thức này
đang được Việt Nam sử dụng một cách rộng dãi. Việc liên doanh giữa các công ty
xuyên quốc gia và công ty nước chủ nhà thường được diễn ra ở các chi nhánh của
công ty xuyên quốc gia được mở rộng hoạt động thông qua việc liên doanh với các chi
nhánh thuộc công ty khác hoặc ở nước lân cận, tạo ra hệ thống liên kết, bao gồm hàng
loạt công ty cùng sản xuất một sản phẩm hoặc các sản phẩm khác nhau, làm cho sản
7
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
phẩm được đa dạng hoá, đồng thời làm tăng quá trình hội nhập giữa các nền kinh tế
trong một thế giới thống nhất đầy mâu thuẫn.
Để thực hiện cắm nhánh các cong ty xuyên quốc gia phải thực hiện đầu tư trực tiếp
vào nước chủ nhà được công ty xuyên quốc gia thực hiện theo chiến lược nhất định.
Chiến lược đó bao gồm các khía cạnh như đối với khu vực địa lý, chuyên ngành và sự
phối hợp chiến lược nhằm nâng cao hiệu suất của tư bản. Chính nhờ quá trình đầu trực
tiếp, chuyển giao vốn, công nghệ giữa công ty mẹ và các công ty chi nhánh cũng như
giữa những chi nhánh với nhauđã tạo ra khả năng mới để các nước chủ nhà có thể
tranh thủ được nguồn vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý phục vụ sự phát triển kinh tế
của mình. Đó cũng chính là mặt tích cực trong hoạt động cắm nhánh của công ty
xuyên quốc gia mà nước chủ nhà cần khai thác.
3. Cơ chế hoạt động công ty mẹ công ty con:
- Cơ chế hoạt động của công ty mẹ và công ty con:
+ Quan hệ giữa công ty mẹ và công ty con:
Quan hệ chi phối nắm giữ trên 50% quyền biểu quyết; hoặc nắm giữ quyền chỉ định đa
số thành viên hội đồng quản trị ; hoặc giữ quyền biểu quyết đa số trong hội đồng quản
trị .
Quan hệ “tình mẫu tử”: là quan hệ được xây dựng bằng tinh thần doanh nghiệp
Theo ghi nhận hiện nay tại nhiều quốc gia trên thế giới trung bình cứ 5 hoặc 7 dân thì
có 1 doanh nghiệp. Tỷ lệ này ở Việt Nam là hơn 1000.Từ đó ta hiểu được doanh
nghiệp là sản phẩm của con người vận mệnh tốt sấu mà doanh nghiệp có được phụ
thuộc vào con người. Việc sinh tử của nó cũng hoàn toàn do con người định đoạt, quá
trình tồn tại của nó rất trật vật, Yêu cầu phải cạnh tranh để sinh tồn nó được phát sinh
ngay từ khi doanh nghiệp mới được thành lập, càng gay gắt hơn. Cuộc cạnh tranh này
cần sự động não của các nhà quản lý doanh nghiệp, ở đây bắt đầu có sự chọn lọc quá
trình chọn lọc được xem như là không có điểm rừng vì luôn có nhân tố mới gia nhập
công ty như một “động cơ vĩnh cửu” không được nghỉ ngơi dừng lại, Không được già
đi năng lượng mà công ty nhận được trên đường chạy vượt thời gian đó là trí tuệ con
người. Các doanh nghiệp đã phát triển lớn mạnh muốn mở rộng quy mô và tầm hoạt
động thường được cấu trúc thành bối cảnh mẹ con. Theo đó công ty mẹ lắm quyền
kiểm soát một hay nhiều công ty khác bằng cách lập ra một hoặc cho thuê tài sản hay
mua lại cổ phần để sở huữu một công ty nào đó. Mối quan hệ công ty mẹ công ty con
rất có hiệu quả. Công ty mẹ cũng không phải là một loại hình gì khác mà chỉ là một
8
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
doanh nghiệp bình thường và cũng như công ty con vì quyền kiểm soát cũng theo một
mức quy định không có vai trò chủ khoản.
Sự chi phối trên còn được thể hiện trên lĩnh vực kinh tế. Quan hệ giữa công ty mẹ
công ty con không phải là một mô hình tổ hức. Nó được dùng đẻ thể hiện sự chi phối
(hoặc lệ thuộc) của một doanh nghiệp với doanh nghiệp khác. Vì không phải là một
mô hình tổ chứcnên nó không bị cân nhắc với các quyết định của bất cứ cấp hành
chính nào. Mối quan hệ giữa công ty mẹ và công ty con được xác định trong quy định
của luật pháp và điều lệ của công ty, nó tương đối ổn định. Song việc hình thành công
ty mẹ công ty con lại rất linh hoạt. Một công ty hôm nay còn là công ty con của một
công ty khác song ngày mai chỉ là công ty liên kết hợc hoàn toàn độc lập với công ty
mẹ, và có thể trở thành công ty mẹ của công ty khác. Tất cả những sự thay đổi đó
không cần bất cứ một quyết định nào của các cấp hành chính. Tất nhiên việc mua bán,
sát nhập, chia tách này nếu được quyết định của doanh nghiệp thì cần có ý kiến của
chủ sở hữu. Song nó không phải là quyết định mang tính chất tài chính. Việc hình
thành công ty mẹ công ty con đương nhiên hình thành các tập doàn kinh tế nó đơn
thuần chỉ là một tổ hợp gồm cong ty mẹ công ty con. Tập đoàn có thể là nhỏ hoặc lớn
tuỳ theo vị trí công ty mẹ vàcác công ty con trong nền kinh tế. Tập đoàn có thể chỉ
hoạt động trong một địa phương, song có thể hoạt động trong một vùng, trong cả nước.
Để có một tập đoàn kinh tế mạnh thì phải cần có một công ty mẹ thực sự mạnh trên tất
cả các mặt: vốn liếng, công nghệ, lĩnh vực hoạt động…đủ đẻ dữ một vị trí quan trọng
trong nền kinh tế. Không có công y mẹ mạnh thìkhông thể có tập đoàn kinh tế mạnh.
sự chuyển đổi và hoạt động của mô hình công ty mẹ công ty con tại Việt Nam:
+ Sự chuyển đổi tổng công ty nhà nước thành công ty mẹ công ty con.
Dùng từ “chuyển” ở đây có lẽ chưa chuẩn xác, bởi vì tổng công ty là một mô hình tổ
chức còn công ty mẹ công ty con không phải là một tổ chức, tổng cong ty muốn
chuyển sang hoạt động theo công ty mẹ công ty con trước hết phải lựa chọn một doanh
nghiệp đóng vai trò công ty mẹ và một công ty đóng vai trò công ty con. Đối với
doanh nghiệp tư nhân( đơn sở hữu ) việc trở thành công ty mẹ hoặc công ty con mang
tính chất tự phát. Một doanh nghiệp bằng phương thức nào đó mua đa số cổ phần hoặc
nắm về công nghệ, thị trường… mà chi phối một doanh nghiệp khác thì chở thành
công ty mẹ của doanh nghiệp đó. Ngựơc lại nếu để doanh nghiệp khác chi phối thì sẽ
trở thành công ty con. Việc trở thành công ty mẹ , hoặc công ty con không cần bất cứ
một quyết định mang tính chất hành chính nào. Đối với tổng công ty nhà nước thì
khác. Tổng công ty và các doanh nghiệp thành viên đều thuộc sở hữu nhà nước đều bị
9
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
điều chỉnh bởi luật doanh nghiệp nhà nước và các văn bản pháp luật liên quan. Quan
hệ giữa tổng công ty và doanh nghiệp thành viên được quy định trong điều lệ tổng
công ty , nhưng tổng công ty không hoàn toàn được các doanh nghiệp thành viên, nhất
là các thành viên có tính độc lập trong kinh doanh. Nếu cứ để doanh nghiệp thành viên
tổng công ty hoạt động theo luật doanh nghiệp nhà nước thì việc chuyển các doanh
nghiệp này thành công ty con sẽ khó thực hiện hoạc có thực hiện chỉ là hình thức để
chuyển các doanh nghiệp thành viên tổng công ty thành công ty con chỉ có hai giải
pháp hiệu quả nhất. Giải pháp thứ nhất là thực hiện đa dạng hoá hình thức sở hữu các
doanh nghiệp thành viên, trong đó nhà nước vẫn lắm cổ phần chi phối tại các doanh
nghiệp này. Hình thức đa dạng hoá sở hữu có thể là cổ phần hoá hoặc đem góp vốn
liên doanh. Vì nhà nước lắm cổ phần chi phối lên đương nhiên công ty cổ phần hoặc xí
nghiệp liên doanh đó sẽ bị tổng công ty chi phối và chở thành công ty con của tổng
công ty. Giải pháp thứ hai là chuyển các doanh nghiệp thành viên thành công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên do tổng công ty là chủ sở hữu do dó sẽ chi phối hoạt
độngcủa doanh nghiệp thành viên vad doanh nghiệp thành viên sẽ chở thành công ty
con của tổng công ty. Các công ty con( công ty chínhphủ, công ty liên doanh, công ty
trách nhiệm hữu hạn một thànhviên) là những pháp nhân độc lập chỉ chịu sự chi phối
của tổng công ty với tư cách là chủ sở hữu theo quy địng của luật pháp, không bị chi
phối, can thiệp vào quy trình hoạt động kinh doanh, quản lý tài chính bằng các quyết
định hành chính. Do đó quyền tự chủ của công ty con sẽ được phát huy đầy đủ. Việc
lựu chọn doanh nghiệp đóng vai trò công ty mẹ tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của
tổng công ty để quyết định. Có thể lựu chọn văn phòng tổng công ty gồm tất cả những
doanh nghiệp thành viên hạch toán phụ thuộc hoặc doanh nghiệp thành viên hặch toán
phụ thuộc hoặc một doanh nghiệp thành viên có vị trí quan trọng trong nền sản xuất,
kinh doanh của tổng công ty làm công ty mẹ. Toàn bộ số vốn nhà nước đã giao cho
tổng công ty được chuyển thành vốn nhà nước đầu tư cho công ty mẹ. Số vốn nhà
nước có tại các công ty con(đã chuyển thành công ty cổ phần, công ty liên doanh, công
ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên) trở thành vố của công ty mẹ đầu tư vào công
ty con. Việc xác định vốn của công ty mẹ đầu tư vào công ty con hoàn toàn khác với
việc nhà nước giao vốn cho tổng công ty và tổng công ty giao vốn cho các thành viên.
Khi hình thành các tổng công ty,phần lớn các doanh nghiệp đã được nhà nước đầu tư
vốn và nhà nước giao vốn cho các doanh nghiệp thành viên theo một cơ chế. Khi các
doanh nghiệp thành viên chuyển thành công ty con hoặc theo luật doanh nghiệp cho
quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu đã được quy định cụ thể, công ty mẹ có thể giữ
10
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
100% vốn của nhà nước hoạt động theo luật doanh nghiệp nhà nước hoặc thực
hiệnquyền sở hữu trong đó nhà nước lắm quyền chi phối đối với công ty qua đó lắm
quyền chi phối dù hoạt động ở hình thức nào, nhà nước vẫn lắm quyền chi phối đối với
công ty con mà hướng đến quyền tự chủ của công ty mẹ và công ty con. Để chuyển
các tổng công ty nhà nước sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ công ty con. Đây
là một quyết định đúng đắn trong nền kinh tế nước ta hiện nay. Nhưng qua dây ta cần
phân biệt sụ kgác nhau giữa mô hình tổng công ty với mô hình công ty mẹ công ty
con. Điểm khác biệt cơ bản của mô hình này với mô hình khác là sẽ phát huy được
tính tự chủ sản xuất kinh doanh của các đơn vị thành viên đồng thời vẫn đảm bảo được
lợi ích kinh tế trong kinh doanh , bảo đảm được lợi ích kinh tế trong kinh doanh, bảo
đảm được lợi ích kinh tế tài chính của các bên, phát triển công ty mạnh với bộ máy
quản lý điều hành gọn nhẹ. Mô hình công ty mẹ công ty con với đa sở hữu vốn theo
nguyên tắc quản lý tập chung dân chủ, bình dẳng và tôn trọng lợi ích của toàn công ty
và mỗi đơn vị thành viên, giảm bớt sự liên kết theo kiểu mệnh lệnh hành chính, thực
hiên tổ chức bộ máy gọn nhệ có hiệu lực, gắn kết với việc kinh doanh của mình.
4. Vai trò của mô hình công ty mẹ công ty con trong nền kinh tế thế giới:
- Thực hiện phân công lao động quốc tế:
nét điển hình của quốc tế hoá đời sống kinh tế ngày nay là sự phân công chuyên môn
hoá mà các công ty xuyên quốc gia là lực lượng cơ bản thực hiện. Đặc điểm của sự
phân công này là chuyên môn hoá sâu. Về hình thức bề ngoài thì giống như công trình
thủ công của cuối thế kỷ trước, nhưng nội dung, hình thức và quy mô thì hoàn toàn
mới. Điểm nổi bật là quy trình công nghệ được phân chia thành những công đoạn và
phân công cho xí nghiệp, chi nhánh đóng tại các nước chử nhà tuỳ theo điều kiện cụ
thể và trình độ lao động, nguyên liệu thị trường. Thông thường công ty mẹ và công ty
chi nhánh ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển đòi hỏi những khâu đòi hỏi trình độ
công nghẹ cao phức tạp của dây truyền sản xuất còn các chi nhánh ở các nước đang
phát triển tuỳ điều kiện cụ thể có thể đảm nhận các khâu ít phức tạp hơn, hoạc chỉ đòi
hỏi lao động giản đơn. Thí dụ trong việc sản xuất máy tính diện tử hiện nay của công
ty xuyên quốc gia nhật bản, Mỹ…Việc phân công chuyên môn hoásản xuất trên phạm
vi thế giới là một tiến bộ có tính lịch sử, nó khai thác được tiềm năng và thế mạnh của
từng nước, từng khu vực tạo ra mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau và phản ánh quá trình
tất yếu kinh tế kỹ thuật.
- Đẩy mạnh kinh tế thị trường tiền tệ trên phạm vi thếgiới:
11
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
với hàng trăm ngàn chi nhánh rải rộng khắp thế giới, mô hình công ty mẹ công ty con
trở thành một lực ,lượng đông đảo nắm giữ nguồn hàng hoá và thị trường thế giới.
Hiện các công ty xuyên quốc gia đã kiểm soát 60% buôn bán quốc tế. Trong nhiều
ngành hàng các công ty này đã kiểm soát toàn bộ thị trường. Chẳng hạn, với một số
nông sản phẩm như chè, cà phê, ca cao các công ty này dã kiểm soát 80% 90% thị
phần. Với mạng lưới chi nhánh dày đặc các công ty xuyên quốc gia đã khai thác được
mọi nguồn hàng tiền năng của thế giới và có thể nói mọi sản phẩm của thế giới được
lôi cuốn váo thị trường. Cùng với việc phân công chuyên môn hoá, các công y xuyên
quốc gia đã khai thác được thị trường tại chỗ, giảm chi phí vận chuyển, hạ giá thành
nâng cao sức cạnh tranh. Cùng với những sản phẩm hàng hoá thông thường mang tính
truyền thống thé giới hàng hoá được bổ xung hàng loạt các mặt hàng mới dưới sự tác
động của các công ty xuyên quốc gia thực hiện tạo ra sự chao đổi dưới hình thức hàng
hoá. Đồng thời, phương thức trao đổi trong phạm vi quốc tế. Song điều không thể
tránh khỏi là do quá trình chạy theo lợi nhuận, các công ty xuyên quốc gia đã biến
dạng mối quan hệ hàng hoá- tiền tệ, gây ra những hiện tượng tiêu cực trong thị trường
trên phạm vi thế giới. Chính vì vậy không những các nước đang phát triển mà ngay cả
cácnước tư bản phát triển đều hết suức quan tâm đến việc đưa ra những điều lệ ngăn
cấm sự lộng hành của các công ty xuyên quốc gia, trong đó lĩnh vực lưu thông hàng
hoá và tiền tệ dược nhấn mạnh nhất.
- Đối với khoa học kỹ thuật :
với việc cạnh tranh và tìm kiếm lợi nhuận, với tiềm lực khoa học kỹ thuật đã được
tích luỹ trong nhiều thập kỷ, các công ty xuyên quốc gia đã đi đầu trong việc nghiên
cứu, thử nghiệm những dây truyền công nghệ tiên tiến nhất, nhiều năng lượng công
nghệ, sản phẩm dạt tới trình độ tiên tiến nhất, nhiều dạng năng lượng mới được
nghiên cứu và áp dụng với từng mức độ, nhiều dây truyền công nghệ tiết kiệm năng
lượng, nguyên liệu mới gia đời, phương pháp tự động hoá, sử dụng rô bốt, phương
pháp điều khiển từ xa trong quản lý… đã được áp dụng ở công ty mẹ ở nhiều nước tư
bản chủ nghĩa và ở một số chi nhánh ở các nước đang phát triển với trình độ tiên tiến
hơn. Do vậy chúng trở thành người có vai trò càng lớn trong viẹc thúc đẩy cuộc cách
mạng khoa học công nghệ toàn thế giới, làm cho các nước tư bảnphát triển có ưu thế
trong cuộc cạnh tranh kinh tế; khoa họccông nghệ ngày nay của thời đại chúng ta và
thích nghi với điều kiện lịch sử mới. đồng thời chúng chiếm vị trí to lớn trong việc
thực hiện quá trình công nghiệp hoá của các nước đang phát triển. Điều đó đòi hỏi các
quốc gia này phải có chiến lược kinh tế đúng đắn để sử dụng những thành tựu khoa
12
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
học công nghệ cuă loài người, tránh nguy cơ tụt hậu, rút ngắn khoảng cách lịch sử
trong cuộc chạy đua kinh tế. Nắm trong tay lực lượng khoa học công nghệ của thế
giới các công ty xuyên quốc gia đang đóng vai trò “trợ thủ” quan trọng trong sự phát
triển khoa học – công nghệ đối với những nước lạc hậu, vai trò này được biẻu hiện
trên nhiều khía cạnh như: thực hiên chuyể giao công nghệ từ công ty mẹ sang công ty
chi nhánh cũng như từ nước mẹ sang các nước chủ nhà; thực hiện đào tạo cán bộ quản
lý và công nhân lành nghề. Tuy nhiên các công ty xuyên quốc gia thực hiện việc làm
của mình với mục đích và phương thức riêng nằm trong chiến lược chung của các
nước mẹ. Vì vậy quá trình chuyển giao kỹ thuật, công nghệ là một quá trình chứa
đựng nhiều mâu thuẫn và hậu quả các nước nhập khẩu kỹ thuật công nghệ phải gánh
chịu không phải là nhỏ.
- Đối với việc làm và tay nghề lao động:
việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn kỹ thuật nghiệp vụ( nói chung là tay
nghề) là vấn đề tất yếu dối với mọi doanh nghiệp, bởi vì người lao động là một yếu tố
quan trọng của quá trình sản xuất. Thiếu yếu tố đó hoặc có nhưng chất lượng kém thì
hoặc là không có quá trình sản xuất riễn ra hoặc là sản phẩm tạo ra không có sức cạnh
tranh. Do vậy các công ty xuyên quốc gia luôn quan tâm đến tay nghè người lao động
thông qua các hình thức đào tạo dài hạn, ngắn hạn, chính quy hoặc tại chức về mặt
cán bộ quản lýcũng vậy, đã được công y xuyên quốc gia đặt lên hàng đầu, nhất là các
cán bộ quản lý đặt lên số một. đối với cán bộ quản lý việc lựa chọn cũng được thực
hiện nghiêm ngặt, đặc biệt là những cán bộ chủ chốt thường không để người có quốc
tịch là nước chủ nhà đảm nhận và đào tạo, bồi dưỡng bao giờ cũng gắn liền với việc
quản lý, nhằm ngăn ngừa tình trạng những người được qua đào tạo chuyển sang xí
nghiệp nước chủ nhà. Cho đến nay, các công ty xuyên quốc gia đã tạo ra một khối
lượng việc làm tương đối lớn. Đây là điều đáng mừng cho nền kinh tế thế giới.
- Đối với đầu tư trực tiếp và chuyển dịc cơ cấu kinh tế:
các công ty xuyên quốc gia là lực lượng cơ bản trong việc thực hiện đầu tư trực tiếp
nước ngoài. Mặc dù tỷ lệ vốn đầu tư trực tiếp trong tổng số vốn đầu tư của từng nước
chủ nhà không cao, song đây là nguồn vốn quan trọng và khó có thể thay thế vì nó tạo
ra những kết quả phát sinh khác, như chuyển giao công nghệ tạo thêm việc làm, phát
triển dịch vụ và các nguồn thu phụ thêm cho nước chủ nhà. Tuy nhiên cũng phải thấy
tính chất hai mặt của đầu tư trực tiếp mà các công ty xuyên quốc gia thực hiện. Một
mặt tăng thêm nguòn vốn cho nước chủ nhà và các hệ quả lợi ích khác, song mặt khác
nếu không quản lý giỏi tì chính qua đó cũng để lại những hậu quả ngoài mong muốn.
13
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
Cùng với sự biến đổi cơ cấu ngành, cơ cấu lao động cơ cấu vùng cũng thay đổi theo
trong đó việc hình thành các công ty thương mại, công nghiệp kỹ thuật cao, đồng thời
cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ phù hợp với yêu cầu của cuộc cách mạng khoa học
công nghệ.
5.chuyển đổi các tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước theo mô hình công ty mẹ công
ty con và việc thí điểm chuyển đổi mô hình trên ở một số doanh nghiệp việt nam.
- Mô hình công ty mẹ công ty con ở nước ta và cánh thức chuyển đổi tổng công ty
90-91 sang mô hình công y mẹ công ty con:
Với các quyết định số 90-91/TTg ngày07-03-1994 của thue tướng chính phủ, tất cả
các liên hiệp xí nghiệp theo ngành toàn quốc hoặc ngành địa phương trước đây đã
chuyển nhanh chóng sang mô hình tổng công ty. Điều đó đã làm được bởi vì chỉ là sự
dổi tên cơ quan, có thay đổi một chút về chức năng của tổng công ty so với liên hiệp
xí nghiệp do thực hiện nguyên tắc phân biệt quản lý nhà nước về kinh tế với quản trị
kinh doanh của doanh của doanh nghiệp, có sắp sếp lại một chút về tổ chức và nhân
sự. Cơ chế quản lý về cơ bản không thay đổi. Nay việc chuyển tổng công ty sang mô
hình công ty mẹ công ty con không thể thoe con đường cũ được bởi vì nó là hai hệ
thống khác nhau về căn bản. Do đó con đường khả thi cho việc chuyển tổng công ty
90-91 sang mô hình công ty mẹ công ty con cần thực hiện theo các bước sau:
+ Nhà nước ban hành luật mới cho loại hình doanh nghiệp này. Công ty mẹ là
một loại hình doanh nghiệp đặc biệt nó không thuần tuý là một doanh nghiệp nhà
nước để được điều chỉnh theo luật doanh nghiệp nhà nước hiện hành bởi nó có những
tình tiết đặc thù. Thứ nhất là công ty mẹ hoạt động tài chính là chủ yếu về mặt này
chúng có điểm giống với công ty tài chính, các ngân hàng đầu tư. Thứ hai là công ty
mẹ phải thực hiện nhiệm vụ chính trị khi can thiệp vào các công ty con chứ không
thuần tuý theo đuổi mục tiêu lợi nhuận. Có nghĩa là một công ty tài chính hay một
ngân hàng đâu tư, khi bỏ tiền ra mua cổ phần tại một công ty tài chính hay một ngân
hàng đầu tư, khi bỏ tiền ra mua cổ phiếu cua một công ty nào, họ quan tâm chủ yếu
đến cổ tức mọi sáng kiến chỉ làm cho lợi nhuận công ty tăng lên nhưng công ty mẹ
khi đóng vai trò một cổ đông trong các công ty con diễn ra theo định hướng nhà nước
đó chính la vai trò chủ đạo của công ty mẹ với tư cách một công ty nhà nước. Vì lẽ
trên công ty mẹ cần được điều chỉnh bằng một luật riêng, luật này có thể gọi là luật
công ty nhà nước. Nội dung luật bao gồm toàn bộ các chế định về hình thức tổ chức
và phương thức hoạt động, quản lý của loại hình công ty mẹ dối với công ty con.
14
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
+ vai trò chức năng của công ty mẹ: công ty mẹ điều tiết công ty con về các
hoạt động sản xuất kinh doanh sao cho phù hợp với đường nối chủ trương của đảng,
pháp luật, kế hoạch và chủ trương của nhà nước, không chỉ dừng lại ở chức năng
người chủ sở hữu vốn thuần tuý. Chuyển đổi phương thức quản lý hành chính của
tổng công ty 90-91 sang phương thức điều tiết qua địa vị pháp lý của một cổ đông. Sự
điều tiết của công ty mẹ đối với công ty con có hiệu lực cao hay thấp phụ thuộc vào
số vốn cuả công ty mẹ tại công ty con và sự xuất sắc của người đại diện. Đương nhiên
công ty mẹ phải tìm cách dành ưu thé tại công ty con bằng con đường tăng cổ phần và
qua sự tập chung cố vấn để người đại diện của mình tại công ty con hoàn thành xuất
sắc sứ mạng đại diện. Về địa vị pháp lý trước nhà nước công y mẹ là một đơn vị hặch
toán kinh tế dùng vốn nhà nước để ddầu tư lấy lợi nhuận cổ phần dể trng trải chi phí
quản lý và nộp ngân sách theo định mức. Với số vốn do nhà nước giao quản bộ máy
quản lý công ty mẹ chọn nơi đầu tư để chở thành cổ đông cử đại diện cho công ty mẹ
tại công y con. Đó la nội dung quản lý của công ty mẹ.
+ phương thức chuyển đổi:
sau khi có luậtcác tổng công ty 90-91 hiện hành sẽ được tổ chức chuyển đổi sang mô
hình công ty mẹ công ty con theo từng phương án cụ thể giống như phương án cổ phần
hoá từng doanh nghiệp nhà nước. Trong số 17 tổng công ty 91 và 77 tổng công ty 90
có thể có một số tổng công ty không chuyển đươcj hoạc không chuyển được ngay sang
mô hình công ty mẹ công ty con. Chúng tạm thời tồn tại dưới hình thức cũ khi nào có
diều kiện thì chuyển các doanh nghiệp nhà nước ( thành viên của tổng công ty) sẽ
được chuyển thành các công ty trắch nhiệm hữu hạn công ty cổ phần bằng con đường
cổ phần hoá. Những doanh nghiệp nhà nước không cổ phần hoá sẽ được chuyển công
ty trắch nhiệm hữu hạn một thanhf viên các tổng công ty 90 91 sẽ chuyển thành cổ
đông của các công ty cổ phần trong quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước
thành viên các công ty trắch nhiệm hữu hạn va chủ thể cua công ty trách nhiệm hữu
hạn một thành viên về mặt tài chính sẽ diễn ra các động tác sau chuyển dao vốn của
các doanh nghiệp nhà nước vào tài khoản vốn của công ty mẹ vốn này cùng với vốn
nhà nước trong các công ty cổ phần làm thành vốn điều lệ của công ty mẹk công ty mẹ
chính thức nhận và chịu trách nhiệm tước nhà nước số vốn này về hai mặt bảo toàn giá
trị và sinh lợi các công ty mẹ làm thủ tục thành lập công y trách nhiệm hữu hạn một
thành viên đối với các doanh nghiệp nhà nước chưa có kế hoạch cổ phần hoá cần duy
trì hình thức doanh nghiệp nhà nước trong một thời gian nào đó và lập phương án chủ
quản công ty trách nhiêmj hữu hạn một thành viên này theo luật doanh nghiệp hiện
15
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
hành các công ty mẹ tiến hành cổ phần hoá các donhnghiệp nước bién chúng thành
công ty con và thiết lập quan hệ quản lý theo luật các công ty nhà nước các ty mẹ sắp
xếp các doanh nghiệp nhà nước còn lại bằng các biện pháp cần thiết khi có điều kiện
thích hợp riêng các doanh nghiệp nhà nước thuộc các tổng công ty 90 91 chưa chuyển
sang mô hình công ty mẹ công ty con vẫn hoạt động theo luật doanh nghiệp nhà nước
đó là giai đoạn quá độ cần có nhưng không kéo dài quản lý nhà nước đối với các
doanh nghiệp nói riêng mọi hình thức doanh nghiệp nói chung hiện đang là đề tài có
tính thời sự cao lời giải cho các vấn đề này còn phải công phu tìm kiếm trên đây chỉ là
một vài suy nghĩ xin được đóng góp cùng dư luận.
- áp dụng mô hình công ty mẹ công ty con:
Mô hình trên rất cần thiết với các nước trên thế giới đặc biệt là với Việt Nam. Ở Việt
Nam đã áp dụng mô hình công ty mẹ và công ty con ở một số công ty như: tổng công
ty bưu chính viễn thông. Công ty đầu tư xuất khẩu, công ty điện lực, công ty dầu khí.
Tiêu biểu trong số các công ty trên là công ty bưu chính viễn thông.
Sau những năm hoạt động theo mô hình tổng công ty 90 91, tổng công ty bưu chính
viễn thông việt nam đã đạt được những thành tựu đáng kể. Chính phủ đã cho thí điểm
hình thành ttập đoàn bưu chính viễn thông Việt Nam hoạt động theo mô hình công ty
mẹ công ty con trong lĩnh vực viễn thông liên kết với bưu chính. Để việc thực hiện
mô hình mới có hiệu quả cần có sự chỉ đạo của chính phủ và sự chuẩn bị chu đáo,
tránh hình thức tổng cục bưu điện cũ đã tổ chức hội thảo để thông suốt chủ trương
trong cán bộ coong nhân viên toàn tổng công ty. Mô hình công ty mẹ công ty con đã
được các nước công nghiệp phát triển sử dụng, Trung quốc là nước có chế độ chính trị
tương tự như nước ta cũng áp dụng phổ biến, có diều kiện khác biệt là các tập đoàn đó
đã cổ phần hoá mạnh mẽ,tiềm lực tài chính kỹ thuật , công nghệ tưong đối mạnh.
Hiện nay mô hình công ty mẹ công ty con của tập đoàn kinh tế thế giới thương có hai
loại cơ bản: Loại chủ thể, loại này do một đơn vị có tiềm lực vốn, công nghệ mạnh
nhất là công ty mẹ, tập hợp nhiều công ty , đơn vị nhỏ hơn dưới sự điều tiết của công
ty mẹ thành một tập đoàn. loại hình chủ thể do đơn vị lớn nhất lắm quyền chỉ huy
tuyệt đối, các thành viên có 3 khối chính, khối trung tâm gồm có công ty mẹ, bộ phận
sự nghiệp, các đơn vị sản xuất, tất nhiên là tập đoàn sẽ có nhiều bộ phận sự nghiệp và
đợn vị nhưng nhất thể hoá về lợi nhuận, cùng một pháp nhân, các bộ phận sự nghiệp
là trung tâm làm ra lợi nhuận là trung tâm làm ra lưọi nhuận được uỷ quyền kinh
doanh, đơn vị chỉ lo sản xuất tập đoàn lo vốn và đầu tư. Nhật Bản và hàn quốc sử
dụng hình thức này khá phổ biến. Khối thứ hai gồm một hay nhiều đơn vị, công ty
16
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
vốn đầu tư tỷ lệ cao của tập đoàn, họ có quyền pháp nhân. Khối thứ ba gồm những
đơn vị công ty có quyền pháp nhân riêng nhưng có một phần cổ phần cổ phần của
công ty mẹ. Khối thứ hai và ba có mức khống chế của tập đoàn lỏng dần nhưng phải
phụ thuộc vào nhau dể tồn tại và phát triển phụ thuộc vào sức mạnh vào khối trung
tâm. Các tập đoàn khi áp dụng hình thức này có những đặc điểm sau: Khối hai và ba
thường có mấy chục đơn vị ngoài nhiệm vụ cung cấp cho khối của tập đoàn, họ còn
kinh doanh các mặt hàng khác với khách hàng đa dạng hơn; Công ty mẹ thường sản
xuất kinh doanh đa dạng sản phẩm dịch vụ, chuyên môn hoá cao, thường chiếm tỷ lệ
doanh thu khoảng 70%-80% của tập đoàn; khối trung tâm của tập đoàn chung một
tổng hành trình, doanh thu, giá cả các số liệu do công ty mẹ cung cấp thống nhất.
Laọi quản lý: đơn vị lắm cổ phần lớn nhất của công ty mẹ lắm quyền chỉ huy điều
phối, các thành viên là các đơn vị có quyên pháp nhân riêng, tập hợp trong tập đoàn.
Trong loại hình quản lý cũng có ba khối chính. Khối trung tâm gồm công ty mẹ và
tổng hànhchính có pháp nhân dộc lập với nhiệm vụ chính là quản lý và khống chế, các
thành viên trong khối trung tâm có quyền pháp nhân nhưng do công ty mẹ chi phối
quản lý; khối thứ hai là các đơn vị độc lập nhưng có cổ phần chi phối của trung tâm;
khối thứ ba la khối có một cổ phần của khối trung tâm, loại hình này không phổ biến
ở một số tập đoàn lớn. Các tập đoàn khi áp dụng hình thức này có đặc điểm sau: chức
năng tổ chức và quản lý sản xuất tách biệt, các đơn vị sản xuất có quỳen pháp nhân
riêng thường số lượng đơn vị không nhiều, công ty mẹ lo quản lý, đầu tư kinh doanh
tài chính. Do bộ phận quản lý không trực tiếp làm ra lợi nhuận, cán bộ ít lên vạch ra
chiến lược và chỉ đạo thực hiện. Khi xuất hiện đối ngoại các số liệu là số liệu của tập
đoàn không phải là của công ty mẹ. Với tình hình thực tế, tổng công ty bưu chính viễn
thông Việt Nam, trước hết phải nhìn rõ hạn chế của tổng công ty thật chính xác ở chỗ
nào từ đó mới có phương án phù hợp thực tiễn, đổi mới và nhất la đạt được mục đích
xã hội háo quyền sở hữu tai sản trong doanh nghiệp giữa các bên. Để thí điểm thành
công trên mức độ nào đó việc trước tiên phải có sự chỉ đạo tập chung, có quyền lực để
tiến hành cổ phần hoá mạnh hơn, đánh giá vốn tìa sản chính xác nợ lần được ưu tiên
sử lý giải quyết, bổ nhiệm cán bộ hay thêu giám đốc. Ngoài ra cũng cần chú ý là một
doanh nghiệp có quy mô lớn không phải bao giờ cũng đồng nghĩa với doanh nghiệp
mạnh. Vì vậy cần loại bỏ cách tư duy một chiều cứ có công ty mẹ công ty con là
mạnh sẽ chỉ có công y mẹ công ty con mạnh nếu toạ ra được các điều kiện cần thiết
về khả năng quản trị nhân cách của đội ngũ các nhà quản trị. Tóm lại đây là một công
17
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
ty đi đầu trong việc thực hiện mô hình trên nó góp phần cung cấp kinh nghiệm và các
bài học cho các công ty khác trong vệc tiến lên mô hình công ty mẹ công ty con.
18
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
C. KẾT LUẬN.
Tóm lại qua việc phân tích mô hình công ty mẹ công ty con chúng ta thấy được tầm
quan trọng của mô hình. Đây là một mô hình kinh tế đầy sáng tạo nó giúp các công ty
đẩy mạnh được sự sáng tạo trong sản xuất và việc chiếm lĩnh thị trường. Nó có một số
ưu điểm: xoá bỏ dần chế độ chủ quan, cấp hành chính chủ khoản và phân công , đẩy
mạnh nền kinh tế phát triển, tạo mối liên hệ chặt chẽ giữa các công ty. Nhưng bên
cạnh đó mô hình vẫn còn một số nhược điểm đó là không nên vội vã áp dụng mô hình
vào các công ty. Với viẹt Nam chúng ta đã và đang đưa mô hình công ty mẹ và công
ty con vào một số doanh nghiệp và đã thành công trên một số lĩnh vực như: điện lực,
dầu khí và bưu chính viễn thông…. vì thế nước ta cần chú ý đến mô hình này nhằm
giúp Việt Nam sánh vai với các cường quốc kinh tế.
Qua việc nghiên cứu mô hình đã mang lại cho em nhiều điều hiểu biết về lền kinh tế
thế giới và việt nam đây là những bài học bổ ích cho các sinh viên đặc biệt là sinh viên
các khối kinh tế.
Em xin chân thành cảm ơn thầy Lê Thục đã giúp đỡ em trong việc hoàn thành đề án
kinh tế chính trị này./.
19