Sự tích Tứ bất tử
Chử Đồng Tử là người xã Dạ Trạch, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, cha là Chử Trưng, mẹ họ Bành. Khi Đồng Tử biết nói thì mẹ mất. Sau không may nhà lại bị cháy,
của cải khánh kiệt.
Sự tích Tứ bất tử
Tiên Dung - Chử Đồng Tử
Chử Đồng Tử là người xã Dạ Trạch, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, cha là Chử
Trưng, mẹ họ Bành. Khi Đồng Tử biết nói thì mẹ mất. Sau không may nhà lại bị cháy,
của cải khánh kiệt. Hai cha con chỉ còn mảnh khố thay nhau che thân đi đánh cá kiếm
ăn qua ngày. Ít lâu sau, người cha mang bệnh rồi chết. Đồng Tử thương cha không
muốn cha chết mà phải chôn truồng liền lấy chiếc khố duy nhất mai táng cho cha. Từ
đó, Đồng Tử ở truồng. Anh thường xin ăn cạnh bến sông; ăn xin của nhà buôn hoặc
xách cần tre đi câu cá.
Thời đó, vua Hùng Vương thứ 18 có cô con gái tên là Tiên Dung hình dáng xinh đẹp,
thề không lấy chồng, thích đi du ngoạn.
Một ngày, thuyền của công chúa Tiên Dung ghé qua vùng này, cờ xí rợp trời, màu sắc
rực rỡ. Đang ngâm mình dưới nước, Chử Đồng Tử sợ quá vội chạy lên bãi sông. Ở
đó, anh thấy có một nơi lau lách mọc đầy, bốn bề kín đáo, cỏ dày đặc, ở giữa có một
bãi cát trống bèn tới đó vùi mình trong cát yên tâm không sợ ai nhìn thấy.
Một lát sau, thuyền của Tiên Dung tới. Nhân ngắm phong cảnh, thấy bên cạnh có lùm
lau sậy rậm rạp, công chúa muốn tắm. Các hầu gái bèn vây màn kín xung quanh, nấu
nước thơm, bắc giường cho công chúa ngồi. Không ngờ chỗ Tiên Dung tắm lại đúng
vào chỗ Đồng Tử vùi mình. Tiên Dung giội nước, cát cứ trôi dần, thân hình Đồng Tử
lộ dần ra. Đồng Tử thẹn quá nhưng không biết trốn vào đâu, hoảng sợ tái mặt. Tiên
Dung vốn không định lấy chồng, trước tình cảnh này cho đây là duyên kỳ ngộ do trời
sắp đặt bèn thuận theo thiên ý kết duyên cùng Đồng Tử.
Vua Hùng nghe tin hết sức giận dữ. Tiên Dung không dám quay trở về nhà đành ở lại
với dân địa phương buôn bán kiếm sống. Dần dần lập thành một khu chợ sầm uất nơi
đây, khách nước ngoài ra vào mua bấn tấp nập. Ít lâu sau, Đồng Tử trở thành chủ
buôn. Thời đó, có nhà buôn lớn đến chỉ cho anh cách làm giàu. Đồng Tử nghe theo
dùng thuyền buôn vượt biển. Bỗng thấy xa xa phía Nam có một nơi nhô lên cao. Đồng
Tử lấy làm lạ bèn lái thuyền vào đó. Đây là một quả núi nổi tiếng ở biển Nam Hải,
trên núi có động Quỳnh Viên, cạnh sườn núi có giếng nước ngọt và trong vắt. Ngày
thường các thuyền buôn hay qua đây lấy nước ngọt. Đồng Tử thích quá chạy ngay lên
núi, chỉ chốc lát đã lên cao sát đỉnh, thấy trong động có khoảng trống có thể dựng được
lâu đài, dinh thự, phảng phất như động Tiên ở.
Đồng Tử gặp một cụ già tóc bạc, tay xách gậy có dây buộc tiến lại gần. Nhìn phong
dạng ông có vẻ phi thường, Đồng Tử đoán ngay là một ẩn sĩ có đạo cao đức trọng bèn
bước tới kính cẩn cúi chào. Cụ già cho biết tên cụ là Phất Quang, tên chữ là Minh
Chương hiệu là Đằng Hải tiên sinh, chủ động Quỳnh Viên, một trong ba mươi sáu
cung tiên của nhà trời. Đồng Tử sau được ông cụ truyền dạy bí quyết. Trước khi ra
về, ông cụ tặng Đồng Tử cái gậy và chiếc nón rồi nói: Việc thiêng chính là đây, anh
hãy gắng giữ lấy.
Đồng Tử về thuyền nói rõ đầu đuôi với Tiên Dung, Tiên Dung tỉnh ngộ bèn thôi tất cả
chuyện buôn bán, chia tất cả tài sản cho dân nghèo, rồi trở lại đỉnh núi theo vị Tiên
ông. Trời tối, vợ chồng công chúa phải ở tạm lại ven bờ sông Cái, cắm gậy che nón
để tránh gió sương. Bỗng nhiên, đêm đó, tự nhiên thành quách, lâu đài mọc lên, có cả
lính hầu như ở cung vua. Chỉ vài tháng sau, tất cả quan lại dân chúng kéo đến chầu
chực.
Có kẻ trong triều biết chuyện đó tâu lên Hùng Vương. Vua Hùng nghe xong giận dữ
sai Lạc hầu đem quân đánh dẹp. Tiên Dung không dám phản cha. Khoảng nửa đêm
hôm đó, gió bão bỗng nổi lên, mây đen kịt, đá bay cát vùi, cây gậy nhà đổ, rồi cả một
vùng đất sụt lở biến thành một cái đầm lớn. Khi quan quân triều đình vượt sông sang
thì chẳng thấy gì nữa.
Về sau, dân địa phương cảm đức hậu Đồng Tử và Tiên Dung nên lập đền thờ, rồi gọi
đầm đó là đầm Nhất Dạ (đầm một đêm), gọi bến sông là bến Mãn Trù.
Thánh Gióng
Về đời Hùng Vương thứ sáu, thiên hạ thái bình, dân giàu có, vua không triều cống nhà
Ân bên Tàu. Vua Ân thấy vậy giả cớ đi tuần thú, muốn đem quân sang cướp nước
Nam.
Vua Hùng Vương lo sợ vời quần thần vào hỏi mẹo đánh giặc. Có người phương sĩ tâu
rằng: Bệ hạ nên kêu khấn với Long Quân, ngài sai thiên tướng xuống giúp mới xong.
Vua nghe lời lập đàn chay, cúng cấp ba ngày cầu khấn. Bỗng đâu, trời nổi cơn dông,
sấm sét ầm ầm, mưa như trút nước. Bỗng thấy một cụ già cao hơn chín thước, mặt
mũi to lớn, mày râu bạc trắng ngồi ở ngã ba đường cười nói múa hát. Ai nấy đều thấy
lạ cho rằng không phải người thường bèn vào tâu vua. Vua thân hành ra chào mời cụ
già tới đàn làm chay, cơm rượu thết đãi nghiêm chỉnh. Cụ già cũng không ăn uống và
cũng không nói nǎng gì.
Vua Hùng hỏi cụ: - Giặc Bắc sắp xâm phạm nước Nam, thua được ra sao xin cụ chỉ
bảo giùm cho.
Một hồi lâu, cụ già bốc thẻ rồi quay lại nói với vua Hùng: - Ba năm nữa tất có giặc.
Nhà vua nên tìm khắp thiên hạ mà tìm lấy người kỳ tài, phá được giặc.
Nói xong, cụ già bay vụt lên trời biến mất. Vua Hùng mới sực tỉnh chính là Long Quân
hiện hình.
Ba năm sau, ngoài biên giới cấp báo có giặc Ân đến. Vua Hùng nhớ lời Long Quân
dặn, sai sứ đi khắp nơi cầu hiền tài. Bấy giờ ở thôn Ngô Xá, xã Phù Đổng, huyện Tiên
Du có một người đàn bà sống trinh tiết không lấy chồng, làm nghề trồng rau. Một đêm
mưa to gió lớn, sáng hôm sau tỉnh dậy ra vườn tưới rau, bà thấy ruộng rau bị ai dẫm
nát, giữa vườn có một vệt chân rất lớn. Bà đưa chân mình vào ướm thử, rồi hái những
lá rau còn lại đem về nấu canh ǎn. Ǎn xong thấy động trong mình, từ đó mang thai.
Thấy bà bỗng dưng mang thai, dân làng cho là bất chính đuổi bà ra khỏi làng. Bà dời
sang Đông Xuyên, sau dời về xóm Ban thôn Phù Đổng hiện nay chờ mãn nguyệt.
Ngày mồng 7 tháng Giêng, bà sinh được một con trai. Đã ba năm, đứa trẻ vẫn không
biết nói biết cười, chỉ nằm ngửa không ngồi dậy được. Nghe tin sứ giả đi cầu tài tới
làng ấy, bà mẹ nói bỡn cùng con: - Đẻ được một chút con trai chỉ biết ăn uống, không
đứng không ngồi được, làm sao có thể đánh giặc lập công lĩnh thưởng của vua báo
đền công ơn cho mẹ.
Nghe vậy, người con bỗng nhiên biết nói, cậu bảo với mẹ: - Mẹ hãy gọi sứ giả tới
đây cho con.
Người mẹ lấy làm kinh ngạc chạy đi báo với láng giềng. Bà con thấy vậy xui người
mẹ cứ làm theo ý cậu bé xem sao, rồi tức tốc đi gọi sứ giả đến.
Sứ giả đến nơi trông thấy cậu bé bèn hỏi: - Đứa trẻ kia sao gọi ta đến đây làm gì ?
Đứa bé ngồi dậy bảo với sứ giả rằng: - Sứ giả hãy về tâu với vua đúc cho ta một con
ngựa sắt cao 18 thước, một thanh kiếm dài 7 thước và một cái nón sắt, đem lại đây
cho ta. Ta ra trận đánh giặc, vua còn phải lo gì nữa.
Sứ giả vội quay về tâu với vua. Vua nghe xong mừng rỡ thấy đúng như lời Long
Vương nǎm trước. Vua lập tức sai thợ rèn đúc ngựa sắt, rèn kiếm sắt, rồi sai người
đưa đến cho đứa bé.
Sứ giả tới làng Phù Đổng, bà mẹ sợ hãi rằng tai họa sắp tới, lo lắng đứa trẻ nói xằng
giờ không biết làm sao. Đứa bé thấy vậy cười rồi nói với mẹ: - Mẹ mau đưa nhiều
cơm rượu cho con ăn uống. Việc đánh giặc xin mẹ đừng lo.
Từ đó, đứa bé mỗi ngày một lớn, cơm gạo trong nhà không đủ nuôi. Người mẹ phải
cậy nhờ hàng xóm cùng góp gạo nuôi cậu vẫn không đủ. Vải vóc cả làng dồn lại may
quần áo cho cậu vẫn thiếu, nhà cửa không vừa phải lấy cỏ lau dựng tạm một cái nhà
to cho cậu ở.
Khi giặc Ân kéo đến chân núi Châu Sơn, cũng vừa lúc sứ giả đem ngựa sắt, kiếm sắt
và nón sắt đến cho cậu bé. Cậu vươn vai đứng dậy, người cao hơn mười thước, ngửa
mặt lên trời, hắt hơi vài chục tiếng, vung kiếm thét vang: - Ta là Thiên tướng nhà trời
đây ? Nói rồi nhảy lên ngựa sắt, cầm kiếm xông ra trận. Ngựa thần chồm lên hí dài
một tiếng, phi như bay, nháy mắt đã đến trước quân vua. Thiên tướng xung kiếm đi
trước, quan quân đi sau tiến sát đồn giặc. Ngài xông vào trận, quân Ân bị chết dưới
lưỡi kiếm của ngài không biết bao nhiêu mà kể. Kiếm gãy, ngài nhổ bụi tre cạnh
đường thay kiếm đánh giặc. Tướng giặc Ân bị giết tại trận, quân giặc tan tác, số còn
sống sót quỳ lạy xin hàng.
Đánh giặc xong, ngài phi ngựa về đến núi Ninh Sóc thì cả người và ngựa cùng bay lên
trời.
Vua không biết lấy cách gì báo đáp công ơn bèn phong làm Phù Đổng Thiên Vương,
sai lập miếu thờ trên nền nhà cũ tại làng Phù Đổng. Đến đời Lý, gia phong làm Xung
Thiên Thần Vương
Liễu Hạnh
Nhân vật Liễu Hạnh là sự thể hiện của phụ nữ Việt Nam một thời. Bà có một cuộc
sống bình thường như bao người phụ nữ khác, bà là biểu trưng cho tài thơ văn của
phụ nữ Việt Nam, bà là sự thể hiện khát vọng muốn được giải phóng khỏi những luật
lệ hà khắc của chế độ phong kiến đối với người phụ nữ Việt Nam, bà là sự thể hiện
cho tinh thần đấu tranh chống lại những áp bức, bất công trong xã hội. Cuộc đời bà
với ba lần giáng trần là sự mô phỏng tâm hồn người Việt của cả một giai đoạn lịch
s ử.
Theo truyền thuyết, Liễu Hạnh vốn là công chúa Quỳnh Hoa, con gái Ngọc Hoàng
Thượng đế, vì trót đánh rơi chén ngọc giữa lúc thiết triều nên Ngọc Hoàng nổi giận
đày xuống tràn gian. Quỳnh Hoa được đầu thai vào một gia đình dân thường Lê Thái
Công vào năm Thiên Hựu đời vua Lê Anh Tông (1557). Vì là Tiên giáng trần, sự thác
sinh của Quỳnh Hoa có nhiều yếu tố khác thường. Bà vợ Lê Thái Công mang thai quá
ngày sinh đã lâu mà vẫn chưa sinh. Suốt thời kỳ mang thai, bà không ăn thịt cá, chỉ ăn
hoa quả. Lo sợ, Lê Thái Công mời đạo sĩ tới chữa bệnh cho bà. Đạo sĩ cho Lê Thái
Công nằm mộng biết chuyện Quỳnh Hoa đánh rơi chén ngọc bị đày xuống hạ giới. Lê
Thái Công tỉnh mộng vừa lúc vợ ông sinh hạ một đứa con gái. Tương truyền, khi đó,
hương thơm ngào ngạt khắp nhà. Nhớ tới giấc mộng, ông đặt tên con là Giáng Tiên.
Như bao cô gái khác, Giáng Tiên lớn lên trong vòng tay âu yếm của cha mẹ, được học
hành tử tế, giỏi văn thơ.
Đến tuổi lấy chồng, Giáng Tiên được gả cho Đào Lang, con nuôi một người bạn của
Lê Thái Công. Đào Lang nghĩa là chàng trai dưới gốc đào. Tương truyền khi Quỳnh
Hoa công chúa đột ngột bị giáng xuống trần đầu thai vào nhà họ Lê, thiên đình đã có ý
sắp đặt sẵn một cuộc hôn nhân môn đǎng hộ đối cho công chúa sau này. Đào Lang
vốn là một chòm sao trên thượng giới được cử xuống trần dưới dạng một đứa trẻ sơ
sinh bị bỏ rơi bên gốc cây bích đào nhà họ Trần. Cậu bé được Trần Công nuôi cho đến
ngày lớn khôn gả cho Giáng Tiên.
Lấy chồng, Giáng Tiên làm tròn bổn phận của người vợ hiền, dâu thảo. Nàng đã có
một gia đình hạnh phúc với hai đứa con xinh xắn. Cuộc sống đang yên vui thì nàng hết
hạn đi đày phải về thượng giới. Nàng đột ngột ra đi vào nǎm 21 tuổi bỏ lại chồng và
con thơ.
Về thượng giới, vì còn nặng duyên trần, công chúa Quỳnh Hoa luôn sầu não. Ngọc
Hoàng dùng đủ mọi cách cũng không làm Quỳnh Hoa nguôi nỗi nhớ trần gian. Trước
sự khẩn nài của nàng, Ngọc Hoàng đành phải cho nàng giáng trần lần nữa, tái hợp gia
đình.
Lần giáng trần này, công chúa Quỳnh Hoa mang tên Liễu Hạnh. Liễu Hạnh thường đi
ngao du khắp thiên hạ. Nàng đã hai lần có cuộc hội ngộ đàm đạo thơ văn cùng Phùng
Khắc Khoan.
Trên đường ngao du, Liễu Hạnh gặp gỡ và kết duyên cùng một thư sinh người làng
Sóc, Nghệ An, vốn là hậu duệ của Đào Lang. Khác với lần trước, đây là cuộc hôn
nhân không cưới xin mai mối. Sống với chàng thư sinh không được bao lâu, Liễu
Hạnh lại đến hẹn phải về trời.
Ở thiên cung, Liễu Hạnh vẫn khao khát cuộc đời trần thế. Nàng lại xin giáng trần lần
nữa. Được Ngọc Hoàng cho phép Liễu Hạnh mang theo hai cô Quế, Thị nhằm đất Phố
Cát, Thanh Hóa, nơi sơn thủy hữu tình giáng trần. Từ đó, Liễu Hạnh thường hiển linh,
người lành được phúc, kẻ ác mang vạ. Thấy thế, dân trong vùng sợ hãi, cùng nhau lập
đền thờ phụng, triều đình nghe tin đồn tưởng là yêu quái cho quân tới phá tan đền thờ
Liễu Hạnh. Tức giận, Liễu Hạnh ra tay trừng phạt làm bệnh dịch lan tràn, vua Lê kêu
gọi người hiền tài giúp nước trừ yêu. Vua còn ra lệnh tổ chức thi phù thủy tuyển
người tài. Thuật sĩ bốn phương tụ tập đông đảo ở Kinh sư. Vua sai đi trừ chúa Liễu,
nửa đường đều chết cả. Vua lấy làm lạ, không biết làm thế nào đành gác lại. Từ đó,
chúa Liễu càng ngông. Dân địa phương là những nạn nhân thường xuyên, thậm chí,
chúa Liễu đột nhập làng xóm của dân bắt cả xã lệnh ném xuống giếng, bắt hào mục,
xã trưởng treo lên cành cây khiến cho chết đói. Hoặc đêm đêm mắc võng trên cây nằm
ca hát lảnh lót...
Bấy giờ trong quân có người hiến kế chỉ có Nội Đạo tràng Thượng sư Phật tái sinh
mới trừ được Liễu Hạnh. Nguyên phái Nội Đạo tràng bấy giờ có ba người: Nhật
Quang, Nguyệt Quang và Ngọc Quang là con của Thượng sư. Vua Lê cho mời Tiền
Quan ra giúp nước. Tiền Quan hẹn hôm sau sẽ tới. Hôm sau, Tiền Quan cùng hai thánh
tới kinh biểu diễn phép thuật cho nhà vua xem. Thấy pháp thuật huyền ảo của tam
thánh, vua Lê mừng rỡ phong ba ông làm thống lĩnh thượng tướng, giao cho ba vạn
quân lính, 300 quan lại theo đánh Liễu Hạnh.
Tiền Quan giả làm thường dân mang theo kiếm, cưỡi bạch mã một mình đi thẳng vào
điện chúa Liễu ở Sùng Sơn để khiêu khích. Tiền Quan xuống ngựa giả mài kiếm ở
thềm cung, cho ngựa uống nước suối. Liễu Hạnh bèn ra nghênh tiếp. Tiền Quan nói:
Ta từ chỗ vua đến nghe triều đình tuyển mộ phương sĩ trừ nàng biết có biến muốn
đến cứu. Sau một hồi trò chuyện, Liễu Hạnh mang hết 3000 mật pháp trình diễn cho
Tiền Quan xem, mong chỉ bảo những chỗ sơ hở.
Biết rõ pháp thuật của Liễu Hạnh, Tiền Quan cáo từ ra đi, cùng nhị thánh bày binh bố
trận. Bát bộ kim cương được cử đi tiên phong, cánh tả có Hắc Hổ thần tướng, cánh
hữu có Bạch Xà thần tướng, trung quân có Lục đinh, Lục giáp thần tướng, hậu quân
có Thập nhị nguyên soái thần tướng. Tất cả cùng nhất loạt tiến đến điện Sùng Sơn.
Giao chiến đã ba ngày, tiền binh của chúa Liễu đại bại. Chúa Liễu cùng Quỳnh Hoa,
Quế Hoa, Đào Hoa, Hạnh Hoa rút vào cung cố thủ. Sau bị Tiền Quan dùng phép thuật
bắt được giải về cung. Thế Tôn Phật thấy chúa Liễu lâm vào thế cùng bèn cưỡi mây
đến cứu. Chúa Liễu xin quy y theo Phật cải ác tu thiền.
Sơn Tinh
Sơn Tinh người động Lăng Sơn, huyện Thanh Xuyên, phủ Gia Hưng, đạo Hưng Hóa,
xứ Sơn Tây. Bố là ông Nguyễn Cao Hạnh, mẹ là Đinh Thị Điên. Khi ông Hạnh 70
tuổi, bà Điên cũng đã hơn 50 mới sinh được con trai tướng mạo phi phàm, hình dung
tuấn tú, dáng người hiên ngang khôi ngô gấp vạn người thường, đặt tên là Nguyễn
Tuấn.
Lên sáu tuổi, bố mất, Nguyễn Tuấn đổi tên là Nguyễn Huệ. Năm lên bảy tuổi. mẹ con
dắt nhau lên núi Ngọc Tản ngụ cư. Nguyễn Huệ được Ma Thị chủ núi Ngọc Tản
nhận làm con nuôi, sau đổi tên thành Nguyễn Chiêu Dung. Một năm sau, mẹ mất
Nguyên Chiêu Dung ở lại Ngọc Tản cùng Ma Thị. Một hôm Chiêu Dung vào rừng chặt
phải cây thần gặp Sơn Tinh đại thần tên gọi Tinh Thần Tử Huy thiên tướng, được
trao cây gậy đầu sinh đầu tú để cứu giúp đời. Từ đó, Nguyễn Chiêu Dung tự xưng
thần sư, thường đi ngao du thiên hạ. Một hôm trên đường đến châu Trung Độ (còn gọi
là châu Trường Sa), xã Ma Xá, ông bỗng thấy trẻ con chǎn trâu xúm đánh một con rắn
bèn bỏ ra ba mươi đồng mua lại con rắn rồi dùng gậy thần cứu rắn. Rắn đen vốn là
Thủy Tinh con trai Long Vương. Cảm tạ công ơn cứu Thủy Tinh, Long Vương ban
cho Sơn Tinh sách ước.
Lúc bấy giờ, vua Hùng Vương thứ 18 (Hùng Duệ Vương) đóng đô ở Việt Trì sông
Bạch Hạc, lấy hiệu nước Văn Lang, thủ đô là Phong Châu. Vua Hùng mở cuộc thi tài
kén rể cho công chúa Mỵ Nương Ngọc Hoa. Nghe tin, Sơn Tinh và Thủy Tinh cùng xin
được diện kiến.
Vua cả mừng bèn ngự giá sông Bạch Hạc xem tỷ thí. Lúc bấy giờ, Sơn Tinh đến đầu
sông. Thuỷ Tinh trở về đáy sông. Khoảnh khắc bỗng thấy dòng sông mây mưa nổi lên.
sóng cồn cuồn cuộn, ào ào gió cuốn, cá rùa lớp lớp, kình ngư vạn dặm, trời đất mịt
mù, thiên hình vạn trạng xuất quỷ nhập thần. Người ngoài nhìn vào kinh hồn lạc
phách. Sơn Tinh bèn tay trái cầm sách, tay phải cầm gậy, miệng niệm thần chú, tay chỉ
một cái, bỗng thật kỳ quái, hốt nhiên ngũ nhạc bay đến giữa sông, núi cao vạn trượng,
thú rừng chạy đến tấn công Thủy Tinh. Một tiếng trống nổi lên giữa sông, quân thủy
tan tành, tiêu biến một cách huyền diệu.
Vua không biết gả công chúa cho ai bèn xa giá về cung rồi triệu hai vị Sơn Tinh và
Thủy Tinh triệu kiến bảo rằng: Trẫm chỉ có một viên ngọc Lam Điều (một con gái)
trước chưa kén được rể, nay cả hai khanh đều là anh hùng, không biết gả cho ai. Vậy
ai có thể đem sính lễ đến trước thì trẫm gả con gái cho.
Sơn Tinh nhờ có sách ước chuẩn bị xong lễ vật đến đón công chúa trước. Thủy Tinh
đến sau, nổi giận dâng nước tiến đánh Sơn Tinh. Do có sách ước lại có phép thuật bí
mật của thần tiên cho nên Thủy Tinh không sao hại được. Đất nước được thanh bình.