Tác gỉa;Vũ mạnh cường
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LỜI MỞ ĐẦU
Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ, đặc trưng của bộ môn Lịch sử và yêu cầu đổi mới giáo
dục, cũng như thực tiễn dạy học bộ môn, việc biên soạn sách giáo khoa lịch sử trung học cơ sở
có nhiều đổi mới về nội dung và phương pháp. Sách giáo khoa lịch sử hiện nay được biên soạn
không chỉ là tài liệu giảng dạy của giáo viên mà còn là tài liệu học tập ở lớp và ở nhà của học
sinh theo định hướng mới. Đó là, học sinh không phải học thuộc lòng sách giáo khoa mà cần phải
tìm tòi, nghiên cứu những sự kiện có trong sách giáo khoa dưới sự tổ chức, hướng dẫn, giúp đỡ
của giáo viên. Từ đó, các em tự hình thành cho mình những hiểu biết mới về Lịch sử. Do đó,
những thông tin trong sách giáo khoa một mặt được trình bày dưới dạng nêu vấn đề để học sinh
suy nghĩ. Mặt khác, kèm theo những thông tin là những câu hỏi, bài tập yêu cầu học sinh thực
hiện các hoạt động học tập khác nhau, trong đó đặc biệt là sự giảm tải 25% số học sinh kênh
chữ, tăng đáng kể số lượng kênh hình. Kênh hình trong sách giáo khoa không chỉ minh họa, làm
cơ sở cho việc tạo biểu tượng Lịch sử mà còn là một nguồn cung cấp kiến thức cho học sinh.
Bên cạnh đó, một số bài viết trong sách giáo khoa còn có nhiều nội dung để ngỏ, chưa viết hết,
yêu cầu học sinh thông qua làm việc với tranh ảnh, sơ đồ, bản đồ, sẽ tìm tòi, khám phá những
kiến thức cần thiết liên quan đến nội dung bài học mà tác giả sách giáo khoa muốn truyền tải
đến học sinh .
Kênh hình trong sách giáo khoa Lịch sử gồm nhiều loại: bản đồ, sơ đồ, hình vẽ, tranh ảnh
Lịch sử. Mỗi loại có một phương pháp lịch sử riêng. Song tựu chung lại có thể sử dụng trong
trình bày kiến thức mới, cũng cố kiến thức đã học, ra bài tập về nhà và trong kiểm tra, đánh giá
kết quả học tập của học sinh. Riêng đối với hình ảnh, tranh ảnh Lịch sử có hai dạng dùng để
minh họa cho kênh chữ hoặc với tư cách là nguồn cung cấp thông tin, kiến thức cho người học.
Với việc đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp biên soạn sách giáo khoa Lịch
sử như vậy, đòi hỏi giáo viên và học sinh phải đổi mới phương pháp dạy học. Trong đó, giáo
viên với tư cách là người tổ chức, hướng dẫn, phát huy tính tích cực, độc lập của học sinh trong
quá trình học tập, cần nắm được những điểm mới của sách giáo khoa nói chung, hệ thống kênh
hình – một nguồn kiến thức quan trọng trong sách giáo khoa nói riêng. Qua những năm trực tiếp
giảng dạy môn lịch sử trung học cơ sở, và hai năm thực hiện sách giáo khoa Lịch sử lớp 9 theo
tinh thần đổi mới, bằng những kinh nghiệm ít ỏi tích lũy được tôi mạnh dạn đưa ra sáng kiến:
1
“Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan tạo hình trong dạy học Lịch sử 9’’. Do thời gian,
khuôn khổ của sáng kiến vì vậy tác giả không trình bày hết được nội dung và phương pháp khai
thác, sử dụng hết 65 tranh ảnh trong sách giáo khoa lịch sử 9. Đề tài này chỉ đưa ra những định
hướng chung về phương pháp và và giới thiệu phương pháp sử dụng một số tranh ảnh mới được
đưa vào ở một số bài bên cạnh những tranh ảnh đã có từ trước. Nếu có điều kiện tôi xin được
trình bày tiếp. Tôi hy vọng những sáng kiến nhỏ này sẽ giúp ít được phần nào cho giáo viên
giảng dạy môn Lịch sử ở trường trung học cơ sở, phần nào giảm bớt khó khăn khi khai thác, sử
dụng hệ thống kênh hình trong sách giáo khoa.
Tác giả: Chu Văn Việt
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.
1. Thực trạng
Để đáp ứng yêu cầu về nhận thức lý luận nắm vững nội dung khoa học các loại tài liệu
trực quan, phương pháp sử dụng kênh hình trong dạy học lịch sử, cần thiết phải có một chuyên
khảo ngắn gọn, có chất lượng – vừa nâng trình độ về lịch sử và nghiệp vụ cho giáo viên mà lại
thiết thực, cụ thể. Đã có một số bài viết, một số tài liệu cung cấp cho giáo viên và học sinh
những hiểu biết cần thiết như vậy, song còn ít và chưa đủ, chưa có hệ thống.
Đã có nhiều cách giải đáp khác nhau trong việc sử dụng sách giáo khoa trong dạy học
Lịch sử ở trường trung học cơ sở nhằm nâng cao hiệu hiệu quả giờ học. Hầu hết chúng ta đều
thống nhất rằng; chỉ có thể sử dụng sách giáo khoa khi cả giáo viên và học sinh hiểu sâu sắc bài
viết (kênh chữ) cũng như tranh, ảnh, biểu đồ, sơ đồ của sách giáo khoa. Tuy nhiên, việc khai thác
nội dung kênh hình trong sách giáo khoa là biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng dạy học
lại chưa được quan tâm một cách đầy đủ. Trong giờ dạy Lịch sử THCS vẫn còn có giáo viên coi
việc sử dụng kênh hình là nhằm minh họa cho giờ dạy thêm sinh động, hoặc nếu có sử dụng
khai thác thì phương pháp và nội dung khai thác chưa phù hợp. Vì vậy việc khai thác kiến thức
trong kênh hình chưa được chú trọng phát huy. Qua các lần dự giờ tại một số trường tôi thấy
nguyên nhân của tình trạng đó có nhiều, song chủ yếu là:
Một là: Chúng ta mới chỉ chú ý đến kênh chữ của sách giáo khoa, coi đây là nguồn cung
cấp kiến thức Lịch sử duy nhất trong dạy học mà không thấy rằng kênh hình không chỉ là nguồn
kiến thức quan trọng, cung cấp một lượng thông tin đáng kể, mà còn là phương tiện trực quan có
giá trị giúp bài học Lịch sử trở nên sinh động hơn, hấp dẫn hơn, gây hứng thú học tập hơn cho
học sinh.
2
Hai là: Không ít giáo viên chưa hiểu rõ xuất xứ, nội dung ý nghĩa của kênh hình trong sách
giáo khoa. Trong khi đó lần đổi mới sách giáo khoa lần này số lượng kênh hình đã được tăng lên
đáng kể so với trước. Riêng tranh ảnh đã có 65 tranh ảnh, ngoài ra còn sơ đồ, lược đồ...
Ba là: Có những giáo viên nhận thức đầy đủ giá trị, nội dung kênh hình nhưng lại ngại sử
dụng, sợ mất thời gian, hoặc sử dụng mang tính hình thức, minh họa cho bài giảng.
2. Kết quả, hiệu quả thực trạng trên.
Từ việc nhận thức và xác định về vị trí, ý nghĩa của việc sử dụng đồ dùng trực quan trong
dạy học lịch sử chưa đúng đã dẫn đến tình trạng tranh ảnh, bản đồ được cấp nhiều nhưng có
nơi tranh ảnh vẫn còn nằm im lìm trong thư viện của nhà trường từ nguyên nhân trên, hoặc nếu
tranh ảnh có được sử dụng thì đó là các tiết thao giảng có người dự giờ, khi sử dụng thì còn
mang tính chất minh họa. Vì thế trong giờ giảng, giáo viên không khai thác hết nội dung kiến
thức lịch sử mà bức tranh, ảnh chứa đựng, trong khi đó kênh chữ không đề cập đến. Từ đó dẫn
đến không tạo được biểu tượng cho học sinh, không cụ thể hóa các sự kiện, không khắc phục
được tình trạng “hiện đại hóa” Lịch sử của học sinh. Học sinh học song một
Tác giả: Chu Văn Việt
sự kiện lịch sử chỉ là thuộc lòng kiểu học gạo, không hiểu bản chất sâu sắc sự kiện lịch sử,
không nắm vững các quy luật của sự phát triển xã hội. Kết quả của những giờ học trên dẫn đến
không giúp học sinh nhớ kỹ, hiểu sâu những hình ảnh, những kiến thức lịch sử, đồng thời không
hình thành được khái niệm lịch sử, không giúp các em phát triển khả năng quan sát, trí tưởng
tượng, tư duy về ngôn ngữ của học sinh. Những giờ học như vậy cũng là một trong những
nguyên nhân dẫn đến học sinh không thích học Lịch sử, chất lượng điểm thi môn lịch sử những
năm gần đây thấp.
Qua điều tra một số học sinh ở một số trường, khi tôi hỏi các em hãy mô tả hay em hiểu
biết gì về các bức tranh, ảnh ở những bài các em đã học thì hầu hết nhận được câu trả lời đó là:
Các em đọc lại phần ghi chú ở dưới bức tranh chứ chưa nêu được nội dung bức tranh phản ánh
nội dung gì về Lịch sử. Qua đó thấy rằng đã đến lúc chúng ta cần phải nghiêm túc xem xét lại
việc xác định vị trí, ý kiến, phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử ở
trường THCS hiện nay.
3
Từ thực trạng trên, để công việc sử dụng đồ dùng trực quan tạo hình trong dạy học lịch
sử 9 THCS đạt hiệu quả tốt hơn, tôi mạnh dạn cải tiến nội dung đưa ra " Phương pháp sử
dụng đồ dùng trực quan tạo hình trong dạy học lịch sử 9"như sau.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
I. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN.
Trước hết, giáo viên phải xác định vị trí, ý nghĩa của đồ dùng trực quan nói chung và đồ
dùng trực quan tạo hình nói riêng trong dạy học lịch sử. Bởi vì nguyên tắc trực quan là một trong
những nguyên tắc cơ bản của lý luận dạy học, nhằm tạo cho học sinh những biểu tượng và hình
thành khái niệm. Sử dụng đồ dùng trực quan là góp phần quan trọng tạo biểu tượng cho học
sinh, là chỗ dựa để học sinh hiểu biết sâu sắc bản chất của sách giáo khoa lịch sử, là phương
tiện có hiệu lực để hình thành khái niệm lịch sử.
Giáo viên phải phân loại được các nhóm đồ dùng trực quan. Đâu là đồ dùng trực quan
hiện vật, đồ dùng trực quan tạo hình, đồ dùng trực quan quy ước. Bởi có phân loại được các
nhóm đồ dùng trực quan này thì giáo viên mới lựa chọn được các phương pháp phù hợp để khai
thác và khi sử dụng mới linh hoạt và sáng tạo. Đồng thời để sử dụng tốt, giáo viên phải xác định
rõ nội dung lịch sử được phản ánh qua đồ dùng trực quan. Phải dự kiến và xác định sử dụng
chúng trong từng bài cụ thể.
Giáo viên phải tổ chức, hướng dẫn, phát huy tính tích cực, độc lập của học sinh trong quá
trình quan sát, tìm hiểu nội dung lịch sử được phản ánh qua tranh, ảnh lịch sử. Muốn vậy trong
kế hoạch bài giảng của giáo viên phải có sự chuẩn bị chu đáo các thao tác, hệ thống câu hỏi để
nhằm phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh. Làm sao để học sinh hiểu đồ dùng
trực quan nhằm nâng cao chất lượng dạy học lịch sử, gây hứng thú học tập cho học sinh. Nó là
chiếc “cầu nối” giữa quá khứ với hiện tại.
Tác giả: Chu Văn Việt
II . CÁC BIỆN PHÁP ĐỂ TỔ CHỨC THỰC HIỆN.
1. Các nguyên tắc khi sử dụng.
Đồ dùng trực quan tạo hình trong dạy học lịch sử 9 có nhiều loại: đồ phục chế, mô hình,
sa bàn, tranh ảnh lịch sử, mỗi loại có một phương pháp sử dụng riêng. Song tựu chung lại có thể
sử dụng trong trình bày kiến thức mới, cũng cố kiến thức đã học, ra bài tập về nhà và trong kiểm
4
tra, riêng đối với hình vẽ, tranh ảnh lịch sử lại có hai dạng: dùng để minh họa cho kênh chữ hoặc
với tư cách là nguồn cung cấp thông tin, kiến thức cho người đọc.
Khi sử dụng những kênh hình được trình bày với tư cách để minh họa cho kênh chữ thì
việc sử dụng chúng chỉ dừng lại ở việc nhằm minh họa làm cho nội dung bài giảng sinh động,
phong phú, hấp dẫn hơn. Giáo viên không sử dụng chúng trong cũng cố bài hay trong kiểm tra,
đánh giá kết quả học tập của học sinh. Khi sử dụng những kênh hình loại này, giáo viên không
đặt vấn đề bằng các câu hỏi gợi mở để học sinh giải quyết vấn đề. Giáo viên cũng không nên
cho học sinh đứng lên thuyết trình về nội dung của kênh hình đó, vì nó vượt quá sức của các em.
Giáo viên có thể giao nhiệm vụ cho học sinh về nhà tìm hiểu trước nội dung của chúng để các
em có biểu tượng ban đầu về các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử, thể hiện trong kênh
hình. Tuy nhiên, đây là một việc làm khó khăn đối với học sinh vùng nông thôn, miền núi. Do vậy
khi giao nhiệm vụ cho học sinh, giáo viên phải tùy vào từng điều kiện, hoàn cảnh học tập của
học sinh để vận dụng cho phù hợp.
Trong giờ giảng bài mới, vì điều kiện thời gian không cho phép nên giáo viên chỉ tập
chung giới thiệu, thuyết minh một số hình ảnh, tranh ảnh, tranh vẽ, còn những hình ảnh khác,
giáo viên chỉ nên dừng lại ở việc giới thiệu cho học sinh quan sát sơ lược vài nét chính để học
sinh nắm được biểu tượng ban đầu về chúng mà thôi. Tránh tình trạng ôm đồm, hình vẽ nào,
tranh ảnh nào cũng giới thiệu mô tả thì không đủ thời gian. Ví như bài 33: Việt Nam trên đường
đổi mời đi lên chủ nghĩa xã hội (từ năm 1986 đến năm 2000). Đây là bài có rất nhiều tranh, ảnh.
Nếu tranh ảnh nào cũng khai thác kỹ sẽ không đủ thời gian. Đây chỉ là một bài trong số rất nhiều
bài tương tự như vậy.
Nội dung thuyết minh kênh hình phải phong phú, sinh động hấp dẫn, kết hợp với lời nói
truyền cảm sẽ có sức thuyết phục cao đối với học sinh, tạo nên ở các em cảm xúc thực sự, nội
dung bài giảng vì thế cũng sinh động, hấp dẫn hơn, học sinh sẽ trở nên yêu thích học tập môn
Lịch sử hơn.
Thông thường, kênh hình nói chung và hình vẽ, tranh ảnh nói riêng được trình bày với tư
cách là nguồn cung cấp thông tin, kiến thức được in kèm theo câu hỏi để học sinh tự “làm việc”
với sách giáo khoa dưới sự hướng dẫn của giáo viên, nhằm rút ra những kiến thức Lịch sử nhất
định. Để sử dụng tốt trước hết giáo viên phải xác định rõ được nội dung Lịch sử được phản ánh
qua tranh ảnh .Tiếp theo giáo viên phải dự kiến và xác định phương pháp sẽ sử dụng chúng trong
từng bài cụ thể. Phương pháp sử dụng trong dạy học loại kênh hình này là giáo viên hướng dẫn
học sinh quan sát. Đầu tiên là quan sát tổng thể rồi mới quan sát chi tiết kết hợp với miêu tả,
phân tích, đàm thoại thông qua hệ thống câu hỏi gợi mở của giáo
5
Tác giả: Chu Văn Việt
viên để học sinh rút ra được những kết luận. Khi tìm hiểu nội dung kênh hình qua các câu hỏi gợi
mở giáo viên có thể tổ chức cho các em làm việc cá nhân hoặc theo nhóm hoặc toàn lớp.
2. Cách khai thác, tiếp cận Lịch sử qua tranh ảnh.
Trước hết giáo viên phải xác định nguồn gốc và thời điểm xuất hiện tài liệu. Có nghĩa là
nội dung xuất sứ của bức ảnh, bức ảnh phản ánh toàn diện hay một mặt, một khía cạnh nào đó
của Lịch sử. Nội dung của tranh ảnh phản ánh sự kiện, hiện tượng, tiến trình lịch sử nào, ở khía
cạnh nào, trung thành đến đâu. Tranh hay ảnh gốc bao giờ cũng là loại tài liệu có giá trị bậc nhất.
Sau khi xác định nguồn gốc, thời điểm như trên, ta có thể gợi ý cho học sinh nội dung và
cách thể hiện những nội dung đó của tác giả trên tranh ảnh.
- Những nhân vật chính trong tranh ảnh họ là ai? Họ đại diện cho ai? ...
- Tiếp theo nhằm giáo dục học sinh đi sâu vào nội dung tranh ảnh.
3. Những kỹ năng khi khai thác tranh ảnh.
Hình thành kỹ năng quan sát, nhận xét
Hình thành kỹ năng mô tả tường thuật.
Hình thành kỹ năng phân tích, nhận định, đánh giá.
4. Các bước làm việc với đồ dùng trực quan tạo hình.
Bước 1. Cho học sinh quan sát tranh, ảnh để học sinh xác định một cách khái quát nội dung
tranh ảnh cần khai thác.
Bước 2. Giáo viên nêu câu hỏi gợi mở, nêu vấn đề, tổ chức cho học sinh tìm hiểu nội dung
của tranh ảnh.
Bước 3. Học sinh trình bày những kết quả tìm hiểu của mình về tranh ảnh, học sinh khác bổ
sung hoàn thiện.
Bước 4. Giáo viên nhận xét, bổ sung, học sinh trả lời và hoàn thiện nội dung khai thác
tranh ảnh cung cấp cho học sinh về kiến thức Lịch sử.
6
5 . Hướng dẫn khai thác một số tranh ảnh cụ thể:
Bài 1: LIÊN XÔ VÀ CÁC NƯỚC ĐÔNG ÂU TỪ NĂM 1945 ĐẾN GIỮA NHỮNG NĂM 70
CỦA THẾ KỶ XX.
Hình 1: Vệ tinh nhân tạo đầu tiên của Liên Xô.
* Phương pháp sử dụng:
Đây là bức ảnh chụp vệ tinh nhân tạo đầu tiên của loài người do Liên Xô phóng lên vũ trụ
thành công năm 1957. Giáo viên sử dụng kênh hình này để dạy mục: I. Ý 2 – Tiếp tục xây dựng
cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội (1950 đến nữa đầu những năm70 của thế
kỷ XX).
Hoạt động 1: Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát toàn bộ bức tranh gợi ý bằng một
số câu hỏi như sau:
Tác giả: Chu Văn Việt
Em biết gì về vệ tinh nhân tạo do Liên Xô phóng lên vũ trụ?
Việc Liên Xô là nước đầu tên phóng thành công vệ tinh nhân tạo lên vũ trụ cho chúng ta
biết điều gì ?
Hoạt động 2: Giáo viên tổ chức cho học sinh quan sát và trả lời những câu hỏi trên bằng
khả năng hiểu biết của các em.
Hoạt động 3: Giáo viên tập chung sự chú ý của các em vào bức ảnh, giáo viên tiến hành
miêu tả:
“ Trong kế hoạch 5 năm và 7 năm về xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội. Liên Xô đã thu được những thắng lợi to lớn, đạt được những thành tựu về kinh tế , khoa học
– kỹ thuật và vũ trụ".
Trong lĩnh vực khoa học - kỹ thuật, vào dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Xiômcốpxki
(ông tổ của ngành khoa học vũ trụ). Ngày 4/10/1957, Liên Xô đã phóng thành công vệ tinh nhân
tạo đầu tiên của trái đất mang tên "Xpútnic - 1" mở ra kỷ nguyên con người chinh phục vũ trụ.
7
Vệ tinh được phóng lên bởi một tên lửa do Colô- lép chế tạo, bay quanh trái đất theo một
quỹ đạo hình bầu dục, điểm thấp nhất cánh mặt đất 227km, điểm cao nhất cách mặt đất 94km,
thời gian vệ tinh được phóng lên bay quanh trái đất hết 1giờ 36 phút. Trải qua 92 ngày đêm ,
"Xpútnic-1"( nặng 83,6kg) đã quay 1400 vòng quanh trái đất, bay được 60 triệu km và tự bốc
cháy trong khí quyển ngày 1/4/1958. Những số liệu thu được khi vệ tinh bay quanh trái đất là
những tài liệu khoa học có giá trị về những lớp khí quyển trên cao , về cấu tạo của tầng điện ly
và những hiện tượng vật lý địa cầu khác.
Hoạt động 4: Cuối cùng giáo viên đặt câu hỏi cho cả lớp: các em có nhận xét gì về
những thành tựu khoa học kỹ thuật (vũ trụ) mà nhân dân Liên Xô đạt được trong công cuộc
XDCNXH?
Bài 2: LIÊN XÔ VÀ CÁC NƯỚC ĐÔNG ÂU TỪ NHỮNG NĂM 70 ĐẾN ĐẦU NHỮNG
NĂM 90 CỦA THẾ KỶ XX.
Hình 3: Cuộc biểu tình đòi li khai và độc lập ở Lít va.
* Phương pháp sử dụng:
Đây là bức ảnh chụp về một cuộc biểu tình đòi độc lập của nhân dân Lít va muốn tách ra
khỏi Liên bang Xô Viết năm 1991. Giáo viên sử dụng bức ảnh này để dạy mục: I - Sự khủng
hoảng và tan rã của Liên bang Xô Viết (từ nửa sau những năm 70 đến những năm 90 của
thế kyXX).
Hoạt động 1: Giáo viên cho học sinh quan sát bức ảnh và đặt một số câu hỏi gợi mở:
- Những người dân Lít va trong bức ảnh đang làm gì ?
- Nét mặt của họ như thế nào ?
- Bức ảnh cho ta biết thông tin gì về đát nước Liên Xô trong những năm 90 của thế kỷ
XX.
Tác giả: Chu Văn Việt
- Tại sao lại có cuộc biểu tình này ?
8
Hoạt động 2: Giáo viên tổ chức cho các em tìm hiểu bức ảnh và trả lời những câu hỏi
trên bằng hiểu biết của các em .
Hoạt động 3: Giáo viên tập trung sự chú ý của các em vào bức ảnh, giáo viên tiến hành
miêu tả. Bức ảnh chụp đoàn người tham gia cuộc biểu tình của người dân Lít-va, có cả người
lớn, trẻ em, đàn ông, đàn bà. Họ mang theo biểu ngữ, cờ và bản đồ, họ đòi tách khỏi Liên Xô để
trở thành một nước độc lập. Ước muốn đòi độc lập của họ được thể hiện trong bức tranh mà họ
mang theo khi đi biểu tình. Cụm từ viết tắt "CCCP " nghĩa là Liên Xô, hình chiếc kéo cắt đôi làm
hai phần : một phần có chữ "CCCP" Biểu thị cho việc tách khỏi Liên bang Xô Viết để thành
lập một nhà nước riêng. Đó là Lít-va. Bức ảnh cũng diễn tả lại không khí tham gia biểu tình của
người Lít-va đòi độc lập trong bối cảnh chung lúc bấy giờ của Liên Xô, góp phần thúc đẩy nhanh
chóng sự tan rã của đất nước gần 70 năm tồn tại của Liên bang cộng hoà XHCN Xô Viết. Ngày
11/3/1990 Lít va tuyên bố độc lập. Quốc hội Lít va vừa được bầu đã quyết định tạm thời áp dụng
Hiền pháp 1938. Vitautat Lanxbơgit, người đứng đầu phong trào Mặt trân Nhân dân Saiudit được
bầu làm Chủ tịch Quốc hội. Lít va là nước đầu tiên trong số 15 nước cộng hòa tuyên bố thành
lập. Tuy nhiên, kỳ họp bất thường của Đại hội đại biểu nhân dân Liên Xô ngày 15 - 3 - 1990 đã
ra tuyên bố không công nhận Tuyên ngôn của Quốc hội Lít va .
Hoạt động 4: Giáo viên kết luận: Bức ảnh đã phản ánh được phần nào sự khủng hoảng
chế độ xã hội ở Liên Xô và sự tan rã của Liên bang cộng hòa XHCN Xô Viết.
Bài 4: CÁC NƯỚC CHÂU Á.
Hình 7: Thành Phố Thượng Hải ngày nay.
* Phương pháp sử dụng:
Đây là bức ảnh chụp một góc thành phố Thượng Hải của Trung Quốc sau hơn 20 năm đất
nước này tiến hành công cuộc cải cách - mở cửa (1978 – 2001) Giáo viên sử dụng bức ảnh này
để dạy mục: II, Ý 4 - Công cuộc cải cách - mở cửa (1978 đến nay) trong bài.
Hoạt động 1: Giáo viên tổ chức cho học sinh quan sát toàn diện bức ảnh một cách khái
quát, rồi đặt câu hỏi gợi mở, kích thích sự suy nghĩ của học sinh.
Nhìn vào bức ảnh, em có nhận xét gì về thành phố Thượng Hải ?
Thành Phố này nằm ở đâu ?
9
Thượng Hải có ý nghĩa như thế nào đối với việc thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế của
Trung Quốc ?
Hoạt động 2: Giáo viên tập trung sự chú ý của các em vào bức ảnh và tiến hành miêu tả.
Trong ảnh là một góc nhỏ của thành phố Thượng Hải sau hơn 20 năm Trung Quốc tiến
hành công cuộc cải cách - mở cửa. Thành phố Thượng Hải nằm ở vĩ độ 31 014' Bắc và kinh độ
1210,290 Đông đúng điểm giữa tuyến bờ biển của Trung
Tác giả: Chu Văn Việt
Quốc, là nơi sông Trường Giang đổ ra biển. Phía đông Thượng Hải giáp với Đông Hải, phía bắc
giáp sông Trường Giang, phía nam giáp vịnh Hàng Châu, phía tây giáp tỉnh Giang Tô và Chiết
Giang. Diện tích toàn thành phố là 6341km2, dân số13,04 triệu người (số liệu thống kê năm
2001). Nhìn vào ảnh ta thấy những tòa nhà lớn, kéo dài suốt thành phố chính là những trung tâm
công nghiệp, thương mại, khu tiền tệ ,văn hóa mọc lên san sát. Đặc biệt, ở đây có hệ thống giao
thông dày đặc với nhiều làn đường dành cho các loại xe ôtô, xe máy, ... tất cả đều toát lên sự
sầm uất và nhộn nhịp của thành phố.
Hiện nay, với việc mở rộng thành phố ra ngoại vi, xây dựng kinh tế tổng hợp phố Đông,
chắc chắn không lâu nữa, Thượng Hải sẽ tạo thành một trung tâm kinh tế tài chính có tầm cỡ
bậc nhất của Trung Quốc và ven bờ biển Thái Bình Dương .
Bài 5. CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á
Hình11. - Hội nghị cấp cao ASEAN VI họp tại Hà Nội
*Phương pháp sử dụng.
Đây là bức ảnh chụp chín đại biểu đại diện cho chín nước tham gia Hội nghị cấp cao
ASEAN VI họp tại Hà Nội (Việt Nam). Giáo viên sử dụng bức ảnh này để dạy mục III - Từ
"ASEAN 6"phát triển thành "ASEAN 10".
Hoạt động 1: Trước khi tiến khai thác bức ảnh, giáo viên cho học sinh quan sát toàn cảnh
bức ảnh, tập trung sự chú ý của các em bằng một số câu hỏi:
- Có bao nhiêu đại biểu trong bức ảnh này?
- Họ đại diện cho những quốc gia nào?
10
- Bức ảnh này được chụp khi nào, tại đâu? Và nói lên điều gì?
Hoạt động2: Giáo viên tổ chức cho các em quan sát, tìm hiểu bức ảnh và trả lời câu hỏi
trên bằng sự hiểu biết của các em.
Hoạt động 3: Giáo viên tập trung sự chú ý của các em váo bức ảnh và tiến hành miêu tả.
Hội nghị cấp cao ASEAN VI được tổ chức tại Hà Nội (Việt Nam), từ ngày 15 đến
16/12/1998. Dưới sự chủ tọa của Thủ tướng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Phan
Văn Khải. Tham gia hội nghị gồm có nước chủ nhà Việt Nam, Bru- nây, Thái Lan, In-đô-nê-xi a,
Sin-ga-po, Ma-lai-xi- a, Mi-an-ma, Phi-líp - pin và Lào.
Hội nghị đã tổng kết 31 năm phát triển của ASEAN, đề ra các biện pháp để đối phó với
những thách thức trong khu vực khi bước vào thế kỷ XXI.
Chủ đề của Hội nghị cấp cao lần này là" Đoàn kết và hợp tác vì một ASEAN hòa bình,
ổn định và phát triển đồng đều". Hội nghị cũng đưa ra Tuyên bố Hà Nội cùng một số văn kiện
quan trọng, được các nguyên thủ quốc gia ASEAN thông qua "Chương trình Hà Nội - bước
triển khai cụ thể của tầm nhìn ASEAN năm 2020".
Tác giả: Chu Văn Việt
Ngày 15/12/1998, tại Hội nghị VI, các nhà lãnh đạo ASEAN đã nhất trí kết nạp Cam - pu -
chia trở thành thành viên thứ 10 của hiệp hội. Như vậy, quá trình phát triển từ ASEAN 6 đến
ASEAN 10 đã được lịch sử ghi nhận. Trong ảnh là chín thành viên đại diện cho chín nước tham
dự Hội nghị, (Thủ tướng Phan Văn Khải - người đứng thứ năm từ trái sang), cùng nắm tay nhau
giơ lên cao thể hiện một tinh thần hợp tác, hòa bình và cùng phát triển, vì một ASEAN " Hòa
bình, ổn định và phát triển đồng đều". Những thành viên của Hội nghị cấp cao lần thứ VI một
lần nữa đã khẳng định vai trò, vị trí của nước Việt Nam Trong khu vực Đông Nam Á. Điều đáng
lưu ý ở đây là trong Hội nghị này, Việt Nam đã bước đầu cho thấy khả năng tập hợp và dàn xếp
những vấn đề nội bộ của Hiệp hội các nước Đông Nam Á.
Bài 6: CÁC NƯỚC CHÂU PHI
11
Hình 13: Nen-xơn Man-đê-la.
* Phương pháp sử dụng.
Đây là bức ảnh chụp ông Nen - xơn Man - đê - la, Tổng thống người da đen đầu tiên trong
lịch sử Cộng hòa Nam Phi. Bức ảnh này được sử dụng dạy mục: II - Cộng hòa Nam Phi.
Hoạt động 1: Giáo viên cho học sinh quan sát bức ảnh để thấy được gương mặt Nen -
xơn Man - đê - la, một người đấu tranh không mệt mỏi để chống lại chế độ phân biệt chủng tộc
A-pác-thai ở Nam Phi.
Hoạt động 2: Giáo viên tổ chức cho các em tìm hiểu bức ảnh và trả lời các câu hỏi sau
bằng hiểu biết của mình.
- Nhìn vào bức ảnh, em thấy Nen-xơn Man-đê-la là người như thế nào ?
- Các em biết gì về Nen-xơn Man-đê-la?
Hoạt động 3: Sau khi học sinh trả lời những nội dung trên, giáo viên tập trung sự chú ý
vào hình ảnh và mô tả.
Nen-xơn Man-đê-la là nhà hoạt động chính trị ở Nam Phi. Ông sinh năm 1918 ở Tơ-ran-
xcây - Khu tự trị dành riêng cho người Phi (một tổ chức chính trị được thành lập 8/1/1912, viết
tắt là ANC), sau đó ông giữ chức Tổng thư ký ANC. Mục tiêu chủ yếu của đại hội là đấu tranh
đòi thủ tiêu chế độ phân biệt chủng tộc A-pác-thai, xây dựng một xã hội dân chủ và bình đẳng.
Dưới sự lãnh của ANC, phong trào đấu tranh chống chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi diễn
ra ngày càng mạnh mẽ, vì vậy nhà cầm quyền Prê-tô-ri-a đã bắt giam Nen-xơn Man-đê-la và kết
án ông tù chung thân.
Sau hơn 27 năm bị giam giữ, trước áp lực đấu tranh của nhân dân tiến bộ trong và ngoài
nước, ngày 11/2/1990 chính quyền Nam Phi buộc phải trả tự do cho ông. Sau khi ra tù, ông được
tổ chức ANC bầu làm Phó chủ tịch và ngày 7/5/1991 Hội nghị toàn quốc ANC đã nhất trí bầu
Nen-xơn Man-đê-la làm Chủ tịch.
Tác giả: Chu Văn Việt
12
Sau cuộc bầu cử toàn quốc đa sắc tộc năm 1994, ngày 10/5/1994 Chủ tịch ANC Nen-xơn
Man-đê-la tuyên bố nhận chức Tổng thống nước Cộng hòa Nam Phi, trở thành Tổng thống da đen
đầu tiên trong lịch sử đấu tranh chống chế độ phân biệt chủng tộc A-pác-thai ở Nam Phi, Nen-
xơn Man-đê-la là người đấu tranh không mệt mỏi, góp phần vào thắng lợi của cuộc đấu tranh
này. Với những cống hiến của ông vào sự nghiệp giải phóng con người khỏi sự kì thị, phân biệt
chủng tộc Nen-xơn Man-đê-la đã được nhận giải thưởng thế giới "Nô ben" về "Hũa bỡnh"
(1993).
Bài 8. NƯỚC MĨ
Hỡnh 16. Tàu con thoi của Mĩ đang được phóng lên.
* Phương pháp sử dụng.
Đây là bức ảnh chụp tàu con thoi của Mĩ đang được phóng lên vũ trụ. Giáo viên sử dụng
bức ảnh này để minh họa khi giảng dạy mục: II - Sự phỏt triển về khoa học kỹ thuật Mĩ sau
chiến tranh.
Hoạt động 1: Giáo viên cho học sinh quan sát bức ảnh, gợi mở câu hỏi để phát triển tư
duy, suy nghĩ của các em.
- Nhỡn vào bức ảnh tàu con thoi của Mĩ đang được phóng lên, các em biết gỡ về lĩnh vực
khoa học kỹ thuật của nước Mĩ sau triến tranh thế giới thứ hai ?
- Tàu con thoi được phóng lên vũ trụ vào thời gian nào và trọng lượng của nó là bao
nhiêu?.
Hoạt động 2: Giỏo viờn tổ chức cho học sinh trả lời những cõu hỏi trờn bằng sự hiểu
biết của mỡnh.
Hoạt động 3: Giỏo viờn tập chung sự chỳ ý của học sinh vào bức ảnh và miờu tả .
Trong ảnh tàu con thoi của Mĩ được phóng lên vũ trụ năm 1981, khẳng định sự phát triển
trong lĩnh vực khoa học - kỹ thuật của nước Mĩ. Ngày12/4/1981 đúng 20 năm sau chuyến bay đầu
tiên vào vũ trụ, cơ quan nghiên cứu hàng không và vũ trụ của Mĩ (NASA), đó phúng thành cụng
Tàu con thoi mang tờn Cụ-lum-pi- a cựng vời hai nhà du hành vũ trụ.
13
Tàu con thoi là tàu vũ trụ đầu tiên có thể thu hồi và sử dụng lại thiết bị cho các chuyến
bay sau. Đó là tàu hàng không vũ trụ thực sự, nặng hơn 2000 tấn, cất cánh như một tên lửa
(thẳng đứng) và phần chính của nó (O-rơ-bít-ta) là một loại máy bay có cánh tam giác nặng
khoảng 100 tấn được đặt lên qũy đạo ở một độ cao ( từ 160 tới 1100km) quanh trái đất. O - rơ -
bít - ta sau đó lượn trở về khí quyển để rồi hạ cánh xuống đường băng như một chiếc máy bay.
Tàu con thoi này có thể trở được 30 tấn và một đội bay từ 4 đến 7 phi công vũ trụ, trong đó có hai
người lái.
Điều này cho thấy, cùng với Liên Xô, Mĩ là một trong những nước đi đầu trên thế giới về
vĩnh vực khoa học - kỹ thuật vũ trụ.
Tác giả: Chu Văn Việt
Bài 9. NHẬT BẢN
Hỡnh 18. Tàu chạy trên đệm từ của Nhật Bản đó đạt tốc độ 400km/giờ.
* Phương pháp sử dụng.
Đây là bức ảnh giáo viên sử dụng để dạy mục: II - Nhật Bản khụi phục và phỏt triển
kinh tế sau chiến tranh.
Hoạt động 1: Giỏo viên tổ chức cho học sinh quan sỏt bức ảnh về con tàu, gợi mở bằng
cỏc cõu hỏi sau:
- Nhỡn bức ảnh cỏc em nhỡn thấy hỡnh dỏng của con tàu này như thế nào và nó chạy
trên đường bay gỡ ?
- Nó có thể chạy trên đường bay như các con tàu bỡnh thường khác không ?
- Vỡ sao người ta gọi con tàu này là " đoàn tàu biết bay".
Hoạt động 3: Giỏo viờn tập trung sự chỳ ý của học sinh vào bức ảnh và tiến hành miờu
tả.
14
Đây là hỡnh ảnh tàu chạy trờn đệm từ của Nhật bản có tốc độ 400km/giờ, nó thể hiện
thành tựu kỡ diệu về lĩnh vực khoa học - kỹ thuật mà Nhật Bản đó đạt được trong những năm
cuối thế kỷ XX.
Cỏc em hóy tưởng tượng, nếu chúng ta ngồi trên đoàn tàu này, chỉ cần 1 giờ có thể đi du
lịch ở một thành phố cách điểm xuất phát 400km, nhanh hơn cả máy bay. Vỡ vậy người ta gọi
đây là " đoàn tàu biết bay".
Tàu chạy bằng đệm từ lợi dụng từ lực làm cho thân tàu lướt trên đường bay, không
những tốc độ nhanh hơn, mà do thân tàu nổi, nên độ lắc và tiếng ồn giảm đến mức thấp nhất,
không " ồn ào" và "náo động" như các con tàu khác mà chúng ta đó nhỡn thấy. Loại tàu này chạy
bằng điện từ IR, do các chuyên gia Nhật Bản nghiên cứu năm 1960. Đến nay, các chuyên gia đó
hoàn thành việc thí nghiệm vận chuyển siêu cao tốc một cách thành công trên tuyến đường thực
nghiệm và đang tiến tới sử dụng để chạy tàu trong thế kỷ XXI.
Nhỡn vào bức ảnh cỏc em thấy, tạo hỡnh của con tàu chạy bằng điện từ MLUOO X2
xinh đẹp như máy bay phản lực trở khỏch. Trong toa tàu, hành khỏch ngồi thoải mỏi rộng rói.
Ngoài ra tàu cũn cú ti vi, điện thoại hành khách có thể sử dụng điện thoại di động, máy tính cá
nhân, soạn thảo văn bản như đang ngồi trong phũng làm việc của mỡnh.... Núi chung, khi ngồi
trờn con tàu này, hành khỏch thấy rất thoải mỏi và thuận tiện.
Hỡnh 20: Cầu-Sờ-tụ-ễ-ha-si nối liền các đảo chính Hôn-xiu và Xi-cô-cư.
* Phương pháp sử dụng.
Đây là bức ảnh chụp toàn cảnh tàu Cầu-sê-tô-Ô-ha-si của Nhật Bản. Giáo viên sử dụng
bức ảnh này để dạy mục: II. Nhật Bản khụi phục và phỏt triển kinh tế sau chiến tranh.
Tác giả: Chu Văn Việt
Hoạt động 1: Giáo viên tổ chức cho học sinh quan sát bức ảnh và đưa ra một số câu hỏi
gợi mở.
- Bức ảnh chụp cõy cầu nào ? Ở đâu ?
- Chiếc cầu này nói lên điều gỡ về sự phỏt triển khoa học - kỹ thuật của Nhật Bản sau
chiến tranh thế giới thứ hai?
15
Hoạt động 2: Giỏo viờn tổ chức cho học sinh tỡm hiểu và khai thác bức ảnh để thấy
được sự phát triển thần kỳ của Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ hai.
Hoạt động 3: Giỏo viờn tập chung sự chỳ ý của cỏc em vào bức ảnh và miờu tả.
Nhật Bản là một quốc gia không được thiên nhiên ưu đói như các nước khác trên thế giới.
Tuy nhiên với sự nỗ lực của bản thân, người dân Nhật Bản đó vươn lên và trở thành một trong
ba trung tâm kinh tế lớn của thế giới ( Mĩ - Tây Âu - Nhật Bản).
Nhật Bản rất chú trọng trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng trong tất cả các lĩnh vực và
cầu Sờ-tụ-ễ-ha-si là một trong lĩnh vực về sự phát triển trong giao thông vận tải của nước này.
Cầu Sê-tô-Ô-ha-si là một cây cầu lớn của Nhật Bản vượt biển Sê tô dài 9,4km. Lũng cầu
đôi, dành cho đường ô tô cao tốc và xe lửa. Tuyến đường này có bốn làn đường cho ô tô và một
đường ray cho xe lửa.
Cầu Sờ-tụ-ễ-ha-si được biết đến với sự thán phục hâm mộ với nhân dân thế giới. Một
loạt tuyến đường cao tốc và đường ray được kết nối với nhau và chạy qua cây cầu nổi tiếng nối
hai đảo chính Sê-tô và Ô-ha-si. Cây cầu có một tầng cao dành cho tuyến đường cao tốc và tầng
thấp hơn dành cho đường ray xe lửa. Được thiết kế dành cho tương lai. Cấu trúc xây dựng cây
cầu này có đủ khả năng hợp nhất mọi tuyến đường.
Bài 11. TRẬT TỰ THẾ GIỚI MỚI SAU CHIẾN TRANH
THẾ GIỚI THỨ HAI
Hình 22: Sớc sin, Ru- dơ- ven và Xta-lin tại Hội nghị I - an - ta.
Đây là bức ảnh chụp ba nguyên thủ quốc gia của các cường quốc: Liên xô, Mĩ và Anh tại
Hội nghị I- an- ta diễn ra từ ngày 4 đến 12/2/1945 tại lâu đài Li va di a, gần thành phố I an ta trên
bán đảo Crưm ( Liên Xụ - nay thuộc Ucraina). Sử dụng bức ảnh này để dạy mục: I - Sự hỡnh
thành trật tự thế giới mới.
Hoạt động 1: Giáo viên giới thiệu bức ảnh và cho học sinh quan sát ,đặt câu hỏi gợi mở,
định hướng để học sinh trả lời.
- Những nhõn vật trong bức ảnh này là ai?
16
- Họ đến hội nghị I - an - ta để làm gỡ?
- Những ai được tham gia và quyết định các vấn đề của hội nghị?
- Không khí của hội nghị thể hiện như thế nào? Kết quả ra sao?
Hoạt động 2: Giỏo viờn tổ chức cho học sinh tỡm hiểu khai thỏc bức ảnh và trả lời
những cõu hỏi trờn bằng sự hiểu biết của cỏc em.
Hoạt động 3: Giỏo viờn tập trung sự chỳ ý của học sinh vào bức ảnh và tiến hành miờu
tả.
Bức ảnh chụp nguyên thủ của ba cường quốc Liên Xô, Mĩ, Anh tại hội nghị quốc tế quan
trọng nhất trong chiến tranh thế giới thứ hai. Hội nghị được tổ chức trên bán đảo Crưm trong
lâu đài Li va di a gần thành phố I-an-ta, từ ngày 4 đến
12/2/1945.Tham gia hội nghị có Chủ tịch hội đồng bộ trưởng Liên Xô - X ta lin, Tổng thống Mĩ
Ru - dơ - ven và thủ tướng Anh - Síc - sin.
Hội nghị I an ta được triệu tập khi chiến sự ở chõu Âu sắp kết thỳc. Lỳc này cụng việc
trọng tõm mà ba nguyờn thủ quốc gia chỳ ý là tỡnh hỡnh thế giới sẽ được sắp xếp như thế nào
sau chiến tranh.Vỡ vậy khụng khớ của hội nghị hết sức căng thẳng thể hiện trên gương mặt của
ba nguyên thủ ,tổng thống Mĩ Ru - dơ - ven và thủ tướng Anh - Sớc - sin vẽ mặt tươi cười quay
lại với nhau. Còn Xta- lin vẽ mặt nghiêm nghị. Nhưng cuối cùng sau 9 ngày tranh luận, hội nghị
cũng đó nhất trớ phõn chia phạm vi ảnh hưởng của các nước và khu vực sau chiến tranh (GV
nờu phần chữ nhỏ trong SGK về sự phân chia khu vực ảnh hưởng).
Như vậy, hội nghị I an ta nhằm giải quyết các vấn đề có liên quan đến quyền lợi của ba
nước Liên Xô, Mĩ, Anh. Hội nghị đó đóng góp một vai trũ tớch cực trong việc giải quyết vấn đề
nước Đức, Nhật Bản và thành lập một tổ chức quốc tế sau chiến tranh (Liên hợp quốc). Đồng
thời, hội nghị cũng dẫn đến sự hỡnh thành trật tự hai cực sau chiến tranh:" Trật tự hai cực I - an -
ta " do Mĩ và Liờn Xụ đứng đầu, sau đó tiến hành cuộc "Chiến tranh lạnh"( kéo dài từ 1947 đến
1989).
Bài 12. NHỮNG THANH TỰU CHỦ YẾU VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA CÁH MẠNG
KHOA HỌC- KỸ THUẬT SAU CHIẾN TRANH
17
Hình 24. Cừu Đô li, động vật đầu tiên ra đời bằng phương pháp sinh sản vô tính
* Phương pháp sử dụng.
Đây là bức ảnh chụp con cừu Đô li, động vật đầu tiên được ra đời bằng phương pháp
sinh sản vô tính, một thành tựu mới của cách mạng khoa học - kĩ thuật ngày nay. Giáo viên sử
dụng bức ảnh này để minh họa mục: I - Những thành tựu chủ yếu của Cỏch mạng khoa học
- kĩ thuật.
Hoạt động 1: Giáo viên treo bức ảnh cho học sinh quan sát và đặt câu hỏi để hướng sự
tập trung và tũ mũ muốn hiểu biết của cỏc em:
- Cừu " Đô li" được ra đời vào thời gian nào ?
- Sự ra đời của động vật đầu tiên bằng phương pháp sinh sản vô tính có ý nghĩa gỡ ?
Hoạt động 2: Giỏo viờn tổ chức cho học sinh tỡm hiểu và trả lời những nội dung trờn
bằng sự hiểu biết của cỏc em.
Tác giả: Chu Văn Việt
Hoạt động 3: Sau khi học sinh trả lời, giỏo viờn tường thuật ngắn gọn về quỏ trỡnh
thực hiện sinh sản vụ tớnh cừu Đô li.
Cừu Đô li ra đời tháng 3 năm 1997 thông qua phương pháp sinh sản vô tính. Đầu tiên, các
nhà khoa học lấy ra một tế bào từ tuyến sữa của một con cừu mẹ đang mang thai, đây là một tế
bào bỡnh thường và không có khả năng sinh sản. Nuôi dưỡng tế bào ngoài cơ thể mẹ trong
khoảng thời gian 6 tháng, người ta tách nhân tế bào của nó ra dự phũng.
Tiếp theo, các nhà khoa học lấy ra một tế bào trứng chưa thụ tinh của một con cừu mẹ
khác loại bỏ đi nhân tế bào ở bên trong, đồng thời đổi nhân tế bào của tế bào tuyến sữa ở " con
cừu mẹ thứ nhất".
Cuối cùng, thông qua điện kích hoạt, người ta cho hình thành một phôi thai nhỏ bé, sau đó
cấy ghép phôi thai này vào trong tử cung của con cừu mẹ thứ ba. Quá trình này hoàn toàn giống
với giai đoạn sau của quá trình mang thai thông thường. Về góc độ khoa học, Cừu Đô li chỉ là con
đẻ của con cừu cung cấp gen nhân tế bào tuyến sữa. Sau khi Đô li trưởng thành, nó có hình dáng
giống hệt mẹ " Hai người mẹ" kia chỉ là người mẹ đẻ thay thế mà thôi. Ngày13/4/1998, chính
Đô li cũng đã làm mẹ, nó giống như tất cả con cừu mẹ thông thường.
18
Như vậy, việc nghiên cứu và thực hiện thành công động vật ra đời bằng phương pháp
sinh sản vô tính đã khẳng định sự phát triển của khoa học – kỹ thuật ngày nay trên nhiều lĩnh vực
trong đó có sinh học.
Hình 25: Năng lượng xanh (điện mặt trời) ở Nhật Bản.
* Phương pháp sử dụng.
Đây là hình ảnh năng lượng xanh (điện mặt trời) ở Nhật bản - một thành quả của cách
mạng khoa học – kỹ thuật. Giáo viên sử dụng kênh hình này để dạy mục: I- những thành tựu
chủ yếu và ý nghĩa lịch sử của cuộc Cách mạng khoa học - kỹ thuật.
Hoạt động 1: Trước khi khai thác, giáo viên tổ chức cho học sinh quan sát bức ảnh chụp
đồng thời tập trung sự chú ý của các em bằng một số câu hỏi:
- Vì sao người ta sử dụng năng lượng mặt trời để thay thế năng lượng trước đây?
- Việc sử dụng năng lượng mặt trời có từ khi nào ?
- Người ta sử dụng năng lượng mặt trời như thế nào? Nó có đặc điểm gì khác so với các
nguồn năng lượng trước đây?
Hoạt động 2: Giáo viên tổ chức cho học sinh quan sát và trình bày những hiểu biết của
các em thông qua những câu hỏi trên?
Hoạt động3: Giáo viên tiến hành miêu tả cho học sinh.
Người ta dùng một cái hộp, bên trên đậy một tấm kính, dưới đáy có một tấm tôn sơn đen.
Khi ánh nắng mặt trời chiếu sáng, bức xạ mặt trời sẽ chiếu qua kính, ánh sáng có thể nhìn thấy
được và tấm tôn sẽ hấp thụ một phần năng lượng, còn một phần bị phản xạ lai dưới dạng bức
xạ hồng ngoại. Bức xạ hồng ngoại bị “cầm
Tác giả: Chu Văn Việt
tù” qua tấm kính và tấm tôn đen. Hiện tượng này gọi là “Hiệu ứng lồng kính” và nó sẽ tự cho
phát điện.
Điều đặc biệt hơn nữa là nguồn điện năng này liên tục được “tích luỹ” cho phép người ta
sử dụng điện trong nhiều ngày, ngay cả khi thời tiết thay đổi, không có ánh nắng mặt trời. Việc
19
sử dụng nguồn năng lượng xanh này không hề gây độc hại, ô nhiễm cho môi trường, ngược lại
nó rất tiện dụng.
C. KẾT LUẬN
I. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THỬ NGHIỆM ĐỀ TÀI.
Để khảo sát chất lương và hiệu quả của đề tài “Phương pháp sử dụng đồ dùng trực
quan tạo hình dạy lịch sử 9” tôi tiến hành thử nghiệm ở 2 lớp 9C, 9D do tôi trực tiếp giảng
dạy.
* Kết quả khảo sát như sau:
Kết quả Học sinh vận dụng Học sinh khắc sâu sự Học sinh rèn kỹ năng
kiến thức kiện thực hành
Lớp
Tỉ lệ% Tỉ lệ% Tỉ lệ%
9C 80% 87% 87%
9D 85% 80% 77%
Đối với 3 lớp 9 còn lại là 9A, 9B, 9E không áp dụng phương pháp trên thì kết quả cho
thấy.
* Kết quả:
Kết quả Học sinh vận dụng Học sinh khắc sâu sự Học sinh rèn kỹ năng
kiến thức kiện thực hành
Lớp
Tỉ lệ% Tỉ lệ% Tỉ lệ%
9A 20% 22% 18%
20