ÔN TẬP ĐƯỜNG LỐI
I. CHƯƠNG 1 SỰ RA ĐỜI CỦA ĐCS VN.
1. QUY LUẬT THÀNH LẬP ĐCS VN.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
Bước ngoặc lịch sử quan trọng của cách mạng nước ta
Sau khi xâm lược và thôn tính toàn bộ nước ta, thực dân Pháp áp đặt chế
độ cai trị chuyên chế, hà khắc và tàn bạo. Chế độ phong kiến suy tàn đã
công khai câu kết và làm tay sai cho thực dân Pháp. Mâu thuẫn gi ữa dân
tộc Việt Nam với thực dân Pháp và bè lũ tay sai ngày càng gay gắt, khát
vọng đấu tranh giành độc lập dân tộc ngày càng trở nên bức thiết.
Thắng lợi của cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đ ại
(năm 1917) đã tạo ra bước ngoặt lịch sử của nhân loại trên con đường
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, đó cũng là ngọn cờ cổ vũ cách
mạng nước ta.
Cũng những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, một mặt, thực dân Pháp ra
sức tiến hành các chương trình khai thác thuộc địa với quy mô l ớn, v ơ vét
tài nguyên và bóc lột nặng nề, làm cho nhân dân lao đ ộng, trước h ết là
nông dân bị phá sản, bần cùng, đồng thời cũng ra đời một số ngành công
nghiệp như khai khoáng, công nghiệp nhẹ, giao thông vận tải để ph ục vụ
sự thống trị và khai thác thuộc địa của chúng. Và cũng từ đây hình thành
một số giai cấp mới như giai cấp công nhân, giai cấp tư sản Việt Nam,
lực lượng trí thức, tiểu tư sản... của xã hội Việt Nam hiện đại.
Các cuộc khởi nghĩa, các phong trào yêu nước của nhân dân ta ch ống th ực
dân Pháp liên tiếp diễn ra nhưng cuối cùng đều thất bại mà nguyên nhân
chủ yếu là do thiếu một đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức chặt chẽ và
thiếu lực lượng cần thiết. Cách mạng Việt Nam đã chìm trong cu ộc
khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
Giữa lúc đó, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (tức Nguyễn
Ái Quốc, Hồ Chí Minh) ngày 5/6/1911 đã ra đi tìm đường cứu nước theo
phương hướng mới. Người đã đi qua nhiều nước ở Châu Âu, Châu Phi,
Châu Mỹ và đã rút ra kết luận là chủ nghĩa đế quốc, thực dân là cội nguồn
của mọi đau khổ cho giai cấp công nhân và nhân dân ở các nước chính
quốc cũng như thuộc địa. Cũng từ đấy Người đã tìm đến chủ nghĩa Mác-
Lênin, tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp cuối năm 1920, và xác
định con đường cứu nước, con đường giải phóng dân tộc đúng đắn: “Chỉ
có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân t ộc
bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
Từ năm 1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc ra sức truy ền bá ch ủ nghĩa
Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam,
chuẩn bị về lý luận cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Người
nhấn mạnh, cách mạng muốn thành công phải có đảng cách mạng chân
chính lãnh đạo. Đảng phải có hệ tư tưởng tiên tiến, cách mạng và khoa
học dẫn đường, đó là hệ tư tưởng Mác-Lênin. Với tác phẩm “Bản án ch ế
độ tựhc dân Pháp” và “Đường cách mệnh”, đặc biệt là việc xuất bản tờ
báo Thanh niên, số đầu tiên ra ngày 21/6/1925, Người đã chuẩn bị về
đường lối chính trị để tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong thời gian này, Nguyễn Ái Quốc cũng tập trung cho việc chuẩn bị về
tổ chức và cán bộ với việc lập ra Hội Việt Nam cách mạng thanh niên t ổ
chức nhiều lớp đào tạo cán bộ và gửi đi học ở Liên Xô.
Khi điều kiện thành lập Đảng đã chín muồi, ngày 3/2/1930, dưới sự chủ
trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, tại Hương Cảng (Trung Quốc), H ội
nghị hợp nhất 3 tổ chức cộng sản (An Nam cộng sản Đảng, Đông D ương
cộng sản Đảng, Đông Dương cộng sản Liên đoàn) đã nhất trí thành lập
một đảng cộng sản duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội
nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản có ý nghĩa như là một Đại hội thành
lập Đảng. Sự ra đời của Đảng là sản phẩm của sự kết h ợp ch ủ nghĩa
Mác-Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam gồm Chánh c ương
vấn tắt và Sách lược vắn tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn th ảo,
được Hội nghị hợp nhất thông qua là sự vận dụng sáng tạo ch ủ nghĩa
Mac-Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Hội nghị cũng
thông qua Lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản
và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến đồng bào, đồng chí trong cả nước
nhân dịp Đảng Cộng sản việt Nam ra đời.
Tháng 10 năm 1930, Hội nghị Trung ương lần thứ nhất Đảng Cộng sản
Việt Nam đã thông qua Luận cương Chính trị do đồng chí Trần Phú kh ởi
thảo. Kế thừa Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, Luận cương Chính trị đã
nêu ra cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: Cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân nhằm đánh đổ chế độ thực dân phong ki ến, gi ải
phóng dân tộc và tiến lên giai đoạn xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa
(cách mạng xã hội chủ nghĩa).
Trong giai đoạn đầu phải chống đế quốc và chống phong ki ến, th ực hi ện
mục tiêu “Độc lập dân tộc”, “Người cày có ruộng”, trong đó đặt m ục tiêu
chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Ph ải xây dựng l ực
lượng cách mạng rộng rãi của toàn dân, trong đó công nhân gi ữ vai trò
lãnh đạo, công nông là hai động lực chính của cách mạng. Phương pháp
cách mạng là bạo lực cách mạng. Cách mạng Việt Nam phải có sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam mới gìanh được thắng lợi.
Luận cương cũng xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận c ủa cách
mạng thế giới, cần tăng cường đoàn kết với giai cấp vô sản và các dân
tộc bị áp bức trên thế giới, kể cả nhân dân Pháp.
Như vậy, ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã đề ra C ương lĩnh đúng đ ắn,
vạch ra con đường cứu nước khác về chất so với những con đường cứu
nước do những nhà yêu nước đương thời vạch ra và đã bị bế tắc, thất bại.
Chính cương lĩnh này đã đặt nền tảng cho một sự nghiệp cách mạng vĩ
đại, chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta: giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng con người.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng c ủa
cách mạng Việt Nam, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối chính trị,
về con đường cứu nước, cứu dân, thống nhất đất nước, thoát kh ỏi ách áp
bức của thực dân, phong kiến, thoát khỏi bần cùng, lạc h ậu. Chính đ ường
lối này là cơ sở đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự đoàn k ết, th ống
nhất của toàn dân tộc có chung tư tưởng và hành động đ ể ti ến hành cu ộc
cách mạng vĩ đại giành những thắng lợi to lớn sau này. Đây cũng là điều
kiện cơ bản quyết định phương hướng phát triển, bước đi của cách mạng
Việt Nam trong suốt 75 năm qua.
Gắn mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội là con đường duy
nhất đúng để có độc lập dân tộc và tự do, hạnh phúc thật sự cho nhân
dân. Đánh giá ý nghĩa của sự kiện thành lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã viết: “Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan
trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp
vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”.
2. VAI TRÒ CỦA NAQ ĐỐI VỚI SỰ THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VN.
Phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản
* Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện về chính trị, tư tưởng và tổ chức
cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Năm 1911, Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Trong quá trình
tìm đường cứu nước, Người đã tìm hiểu kỹ các cuộc cách mạng điển hình trên
thế giới. Người đánh giá cao tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái và quy ền con
người của các cuộc cách mạng tư sản tiêu biểu như Cách mạng Mỹ (1776), Cách
mạng Pháp (1789)… nhưng cũng nhận thức rõ những hạn chế của các cuộc cách
mạng tư sản. Từ đó, Nguyễn Ái Quốc khẳng định con đường cách mạng tư sản
không thể đưa lại độc lập và hạnh phúc cho nhân dân các nước nói chung, nhân
dân Việt Nam nói riêng.
Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm tìm hiểu Cách mạng Tháng Mười Nga
năm 1917. Người rút ra kết luận: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga
là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh
phúc tự do, bình đẳng thật”.
Tháng 7 – 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những
luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đăng trên báo Nhân
đạo. Người tìm thấy trong Luận cương của Lênin lời giải đáp về con đ ường
giải phóng cho nhân dân Việt Nam: về vấn đề thuộc địa trong mối quan hệ với
phong trào cách mạng thế giới… Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác –
Lênin.
Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (12/1920) Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán
thành việc gia nhập Quốc tế Cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản
Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng
của Người - từ người yêu nước trở thành người cộng sản và tìm thấy con đường
cứu nước đúng đắn “Muốn cứu nước phải giải phóng dân tộc không có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
Từ đây cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối với phong trào cộng sản
quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, vạch
phương hướng chiến lược cách mạng Việt Nam và chuẩn bị điều kiện để thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Quá trình Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện thành lập Đảng được
đánh dấu bằng việc Người tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - LêNin vào Việt
Nam thông qua những bài đăng trên các báo Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống
công nhân và đặc biệt là tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (năm 1925). Tác
phẩm này đã vạch rõ những âm mưu và thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc che dấu
tội ác dưới cái vỏ bọc “khai hóa văn minh”, từ đó khơi dậy mạnh mẽ tinh thần
yêu nước, thức tỉnh tinh thần dân tộc nhằm đánh đuổi thực dân Pháp xâm l ược.
Mùa hè 1923 từ Pháp sang Liên Xô, Người tham gia nhiều Đại hội quốc tế và
học tập nghiên cứu chủ nghĩa Mác- Lê nin.
Với tư cách là đại diện của quốc tế cộng sản, tháng 11-1924, Nguyễn Ái
Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc). Tháng 6-1925, người thành lập Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên. Chương trình và Điều lệ của Hội nêu rõ mục đích là:
làm cách mạng dân tộc và cách mạng thế giới. Sau khi cách mạng thành công.
Hội chủ trương thành lập Chính phủ nhân dân; mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân;
tiến lên xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa; thực hiện đoàn kết với giai cấp vô
sản các nước, với phong trào cách mạng thế giới.
Từ năm 1925 - 1927, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã mở các lớp
huấn luyện chính trị cho cán bộ cách mạng Việt Nam. Hội đã xây dựng được
nhiều cơ sở ở các trung tâm kinh tế, chính trị trong nước. Năm 1928, Hội thực
hiện chủ trương “vô sản hóa”, đưa hội viên vào nhà máy, hầm mỏ, đồn điền để
rèn luyện lập trường, quan điểm giai cấp công nhân; để truyền bá chủ nghĩa Mác
- Lênin và lý luận giải phóng dân tộc nhằm thúc đẩy sự phát triển của phong trào
cách mạng Việt Nam.
Ngoài việc trực tiếp huấn luyện cán bộ của Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên Nguyễn Ái Quốc còn lựa chọn những thanh niên Việt Nam ưu tú gửi đi học
tại trường Đại học Phương Đông và trường Lục quân Hoàng Phố nhằm đào tạo
cán bộ cho cách mạng Việt Nam.
Cùng với việc đào tạo cán bộ, Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức ra các tờ báo
Thanh niên, Công nông, lính cách mệnh, Tiền phong nhằm truyền bá chủ nghĩa
Mác - Lênin vào Việt Nam. Quan điểm cách mạng của Nguyễn Ái Quốc đã thức
tỉnh và giác ngộ quần chúng, thúc đẩy phong trào đấu tranh yêu nước của nhân
dân phát triển theo con đường cách mạng vô sản.
Năm 1927, Bộ Tuyên truyền của Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức xuất
bản tác phẩm Đường cách mệnh .
Nội dung tác phẩm Đường cách mệnh:
- Đường cách mệnh chỉ rõ: tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam
là cách mạng dân tộc mở đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hai cuộc cách mạng
này có quan hệ mật thiết với nhau; cách mạng là sự nghiệp của quần chúng chứ
không phải việc một hai người, do đó phải đoàn kết toàn dân. Nhưng cái cốt của
nó là công- nông và phải luôn ghi nhớ rằng công nông là người chủ cách mệnh,
công nông là gốc cách mệnh.
-Về vai trò của Đảng, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: Cách mạng muốn
thắng lợi thì phải có một đảng lãnh đạo. Đảng có vững, cách mạng mới thành
công cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì
phải có chủ nghĩa làm cốt. Chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách
mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin.
-Về vấn đề đoàn kết quốc tế, Người nói: “Cách mệnh An Nam cũng là
một bộ phận trong cách mệnh thế giới. Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là
đồng chí của dân An Nam cả”.
-Về phương pháp cách mạng, Người nhấn mạnh đến việc phải giác ngộ và
tổ chức quần chúng cách mạng, phải làm cho quần chúng hiểu rõ mục đích cách
mạng, biết đồng tâm hiệp lực để đánh đổ giai cấp áp bức mình, làm cách mạng
phải biết cách làm, phải có “mưu chước”, có như thế mới bảo đảm thành công
cho cuộc khởi nghĩa với sự nổi dậy của toàn dân…
Như vậy: Tác phẩm Đường cách mệnh đã đề cấp những vấn đề cơ bản
của một cương lĩnh chính trị, chuẩn bị về tư tưởng chính trị cho việc thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam, Đường cách mệnh có giá trị lý luận và thực tiễn to
lớn đối với cách mạng Việt Nam.
* Sự phát triển phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản.
Từ đầu thế kỷ XX, cùng với sự phát triển của phong trào dân tộc trên lập
trường tư sản, phong trào công nhân chống lại sự áp bức bóc lột của tư sản thực
dân cũng diễn ra dưới các hình thức đình công, bãi công, tiêu biểu như các cuộc
bãi công của công nhân Ba Son (Sài Gòn) do Tôn Đức Thắng tổ chức (1925) và
cuộc bãi công của công nhân nhà máy sợi Nam Định ngày 30/4/1925, đòi chủ tư
bản phải tăng lương, phải bỏ đánh đập, giảm đuổi thợ…
Nhìn chung, phong trào công nhân những năm 1919- 1925 đã có bước phát
triển mới so với trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Hình thức bãi công đã
trở nên phổ biến, diễn ra trên quy mô lớn hơn và thời gian dài hơn.
Trong những năm 1926 - 1929, phong trào công nhân đã có sự lãnh đạo của các
tổ chức như Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, Công hội đỏ và các tổ chức
cộng sản ra đời từ năm 1929. Từ năm 1928 đến năm 1929, có khoảng 40 cuộc
đấu tranh của công nhân diễn ra trong toàn quốc.
Các cuộc đấu tranh của công nhân Việt Nam trong những năm 1926 - 1929
mang tính chất chính trị rõ rệt. Mỗi cuộc đấu tranh đã có sự liên kết giữa các nhà
máy, các ngành và các địa phương. Phong trào công nhân có sức lôi cuốn phong
trào dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.
Cũng vào thời gian này, phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là
phong trào nông dân diễn ra ở nhiều nơi trong cả nước, dân cày cũng đã tỉnh
dậy, chống đế quốc và địa chủ rất kịch liệt. Năm 1927, nông dân làng Ninh
Thanh Lợi ( Rạch Giá) đấu tranh chống bọn thực dân và địa chủ cướp đất, đòi
chia ruộng công… Phong trào nông dân và công nhân đã hỗ trợ lẫn nhau trong
cuộc đấu tranh chống thực dân, phong kiến.
Phải có Đảng cách mạng lãnh đạo .
Thông qua hoạt động của “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội “ phong
trào cách mạng trong nước phát triển sôi nổi .Những điều kiện để thành lập Đảng
Mác-Xít đã dần hình thành .Tổ chức “ Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí
hội “ không còn phù hợp nữa .Kết quả là sự ra đời của ba tổ chức cộng sản vào
nửa sau năm 1929 là : Đông dương cộng sản đảng “ .” An nam cộng sản đảng “ và
“ Đông dương cộng sản liên đoàn.
Một yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải thống nhất những người cộng sản Việt Nam
trong một Đảng duy nhất .Hồ Chí Minh đã đảm nhiệm trách nhiệm thống nhất các
tổ chức cộng sản ,thành lập một Đảng cộng sản duy nhất ở Việt Nam, vào ngày
3/2 1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
II. CHƯƠNG 2 ĐƯỜNG LỐI ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH
QUYỀN.
3. SO SÁNH LUẬN CƯƠNG 10-1930 CỦA TRẦN PHÚ VỚI CHÍNH CƯƠNG
SÁCH LƯỢT VẮN TẮT CỦA NAQ . RÚT RA NHẬN XÉT
Cương lĩch chính trị ( chủ tịch Hồ Chí Minh )và luận cương chính trị
( Trần Phú ) là những văn kiện thể hiện đường lối cách mạng của Đảng
ta
*giống nhau:
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (3/2/1930) và luận cương chính
trị(10/1930) có những điểm giống nhau sau:
1)cả 2 văn kiện đều xác định được tích chất của cách mạng VN(Đông
Dương) là : CM tư sản dân quỳên và CMXHCN, đây là 2 nhiệm vụ CM
nối tiếp nhau không có bức tường ngăn cách
2) đều xác định mục tiêu của CNVN(ĐD)là độc lập dân tộc và ruộng đất
dân cày
3)Khẳng định lực lượng lãnh đạo CmVN là đảng cộng sản , đảng lấy
chủ nghĩa Mac-Lenin làm nền tảng mà đội quân tiên phong là giai cấp
công nhân
4)khẳng định CMVN (đd) là 1 bộ phận khăng khít của CMTG, giai cấp
vô sản VN phải đoàn kết với VSTG nhất là vô sản Pháp
5)xác định vai trò và sức mạnh của giai cấp công nhân
Như vậy sở dĩ có sự giông nhau đó là do cả 2 văn kiện đều thấm nhuần
chủ nghĩa Mac-lenin và cách mạng vô sản chiụ ảnh hưởng của CMtháng
10 Nga
*Khác nhau: tuy cvả 2 căn kiện trên có những điểm giông nhau
nhưngvẫn có nhiều điểm khác nhau cơ bản :Cưong lĩch chính trị xây
dựng đường lỗi của CMVN còn Luận cương rộng hơn(Đông Dương)cụ
thể :
1)xác định kẻ thù& nhiệm vụ , mục tiêu của CM:
_trong cương lĩnh chính trị xác định kẻ thù, nhiệm vụ của cmVM là đánh
đổ đế quốc và bọn phong kiến tư sản ,tay sai phản cách mạng (nhiệm
vụ dân tộc và dân chủ).Nhiệm vụ dân tộc đựôc coi là nhiệm vụ hàng
đầu của cm, nhiệm vụ dân chủ cũng dựa vào vấn đề dân tộc để giải
quyết .Như vậy mục tiêu của cưong lĩnh xác định: làm cho Vn hoàn toàn
độc lập, nhân dân đươjc tự do, dân chủ , bình đẳng,tịch thu ruộng đất
của bọn đế quốc Việt gian chia cho dân cày nghèo,thành lập chính phủ
công nông binh và tổ chức cho quan đội công nông,thi hành chính sách tự
do dân chủ bình đẳng còn trong Luận cương chính trị thì xác định:đánh
đổ phong kiến đế quốc để làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập.đua
lại ruộng đất cho dân cày,nhiệm vụ dân chủ và dân tộc được tiến hành
cùng 1 lúc có quan hệ khăng khít với nhau.Vịêc xác định nhiệm vụ như
vậy của Luận cương đã đáp ứng những yêu cầu khácg quan đồng thưòi
giải quyết 2 mâu thuẫn cơ bản trong xã hội VN lúc đó là mâu thuẫn dân
tộc và mâu thuẫn giai cấp đang ngày càng sâu sắc.Tuy nhiên luận cương
chưa xác định được kẻ thù ,nhiệm vụ hàng đầu ở 1 nướcthuộc địa nửa
phong kiến.Như vậy Mục tiêu của luận cương hướng tới giải quyết
đựợc quyền lợi của giai cấp công nhân Vn chứ không phải là toàn bộ
giai cấp trong xã hội
_lực lượng CM:trong CLCT xác định lực lượng cách mạng là giai cấp
công nhân cà nông dân nhưng bên cạnh đó cũng phải liên minh đoàn kết
với TTS, lợi dụng hoặc trung lập Phú nông trung tiểu địa chủ ,TSDT
chưa ramặt phản cách mạng,Như vậy ngoài việc xác định lực lượng
nòng cốt của cách mạng là giai cấp công nhân thì cương lĩnh cũng phát
huy được sức mạnh của cả khối đoàn kết dân tộc, hướng vào nhiệm vụ
hàng đầu là giải phóng dân tộc
còn trong luận cương thì xác định động lực của CM là CN&ND, chưa
phát huy được khối đoàn kết dântộc,phát huy sức mạnh của
TS,TTS,trung tiểu địachủ
>>>>nhan xet: tóm lại LC đã thể hiện là 1 văn kiện tiếp thu đươjc
những quan điểm chủ yếu của chính cương vắn tắt .sách lược vắn tắt,
điều lệ tóm tắt xác định được nhiệm vụ nòng cốt của CM.Tuy nhiên
luận cương cũng cso những mặt hạn chế nhất định:sử sụng 1 cách dập
khuân máy móc chủ nghĩa Maclenin vào CM VN,còn quá nhấn mạnh đấu
tranh giai cấp,đánh giá khong đúng khả năng cách mạng của tieu tu san,
Tu San dia chủ yêu nước,chưa xác định nhiệm vụ hành đầu của 1 nước
thuộc địa nửa phong kiến là GPDT
còn cương lĩnh tuy còn sơ lược vắn tắt nhưng nhưng nó đã vạch ra
phương hương cơ bản của CM nước ta, phát trien từ
CMGPDT>>CMXHCN.Cương lĩnh thể hiện sự vận dụng đúng đắn sáng
tạo nhạy bén chủ nghĩa Maclenin vào hoàn cảnh cụ thể của VN,kết hợp
nhuần nhuyễn Cn yêu nước và CNQTVS,giữa tư tưởng của CNCS và
thực tiễn CMVNnó thể hiện sự thấm nhuần giữa quảng đại giai cấp
trong cách mạng.
4. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ VÀ CHỦ TRƯƠNG ĐIỀU CHỈNH CHIẾN LƯỢC
CỦA ĐẢNG TRONG GIAI ĐOẠN 1939-1945.
Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ ,mở đầu bằng cuộc tấn công
của phát xít Đức vào Ba Lan ngày 1-9-1939.Tất cả các dân tộc bị cuốn vào
vòng chiến .Nếu trước đây vấn đề dân tộc chỉ đặt ra ở phương Đông thì
nay đã đặt ra cho tất cả các nước ,các Đảng chính trị.Chiến tranh thế giới
thứ hai ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc đến nước ta.Thực dân Pháp tham
chiến,ở Đông Dương chúng thực hiện chính sách thời chiến,tăng cường
vơ vét bóc lột,thủ tiêu mọi quyền tự do dân chủ ,điên cuồng tấn công
Đảng cộng sản Đông Dương và các đoàn thể quần chúng của Đảng.
Mùa thu năm 1940,phát xít Nhật tràn vào Đông Dương.Thực dân Pháp tong
bước đầu hàng dâng Đông Dương cho Nhật.Đế quốc Pháp và phát xít
Nhật cấu kết với nhau ,bóc lột nhân dân Đông Dương đến tận xương
tủy.Đời sống nhân dân khốn cùng,mâu thuẫn giữa các dân tộc Đông
Dương với Pháp_Nhật căng thẳng và sâu sắc hơn bao giờ hết.
Ngay khi chiến tranh thế giới lần thứ hai sắp nổ ra,Đảng đã rút vào hoạt
động bí mật ,chuyển trọng tâm công tác về nông thôn.
Khi chiến tranh nổ ra ,Đảng ra thông cáo ,trong đó nhận định: hoàn cảnh
Đông Dương sẽ tiến bước đến vấn đề giảI phóng dân tộc,vì lúc này
quyền lợi của tất cả giai cấp đều bị cướp giật,vận mệnh dân tộc bị nguy
vong không lúc nào bằng.Vì vậy,Hội nghị Ban chấp hành trung ương
Đảng lần thứ VI(11-1939) và hội nghị Ban chấp hành Trung Ương Đảng
lần thứ XIII(5-1941)đã chủ trương điều chỉnh chiến lược "cách mạng tư
sản dân quyền".Nội dung chủ yếu của chủ trương điều chỉnh cách mạng
như sau:
_Xác định tính chất của cuộc cách mạng Đông Dương lúc này là dân tộc
giải phóng.
_Tập trung giảI quyết nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng là đánh đổ đế
quốc và tay sai ,giành độc lập dân tộc ,vì chiến tranh đã thúc đẩy các mâu
thuẫn vốn có của xã hội thuộc địa nửa phong kiến lên đỉnh điểm ,đòi phảI
được giải quyết .Kẻ thù cụ thể, nguy hiểm nhất của cách mạng Đông
Dương lúc naylà bọn đế quốc và bọn tay sai phản động dân tộc .Nhiệm
vụ giải phóng dân tộc ,đo1ọc lập cho đất nước là nhiệm vụ trước tiên
của Đảng ta ."Trong lúc này nếu giải quyết được vấn đề dân tộc giải
phóng ,không đòi được độc lập ,tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng
những toàn thể quốc gia ,dân tộc còn phảI chịu mãI kiếp trâu ngựa ,mà
quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được".
_Nhiệm vụ dân chủ - ruộng đất tạm gác lại để tập trung vào nhiệm vụ
giảI phóng dân tộc .
_Thống nhất lực lượng cách mạng,không phân biệt thợ thuyền dân cày
,phú nông ,tiểu tư sản ,tư sản bản xứ,trung-tiểu địa chủ ,ai có lòng yêu
nước thương nòi đều tổ chức vào mặt trận thống nhất rộng rãi nhằm giải
phóng dân tộc,cứu tổ quốc.Tên gọi của mặt trận phả có sức hiệu triệu
mạnh mẽ chí khí cách mạng ,tinh thần yêu nước của mọi tần lớp nhân
dân .Đảng quyết định thay thế mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông
Dương thành "Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh "gọi tắt là Việt
Minh,các tổ chức quần chúng của mặt trận đều lấy tên là cứu quốc.
_Chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước Đông
Dương .Mỗi dân tộc ở Đông Dương sẽ phải tự giành lấy độc lập ,tự do
và trên cơ sở đã độc lập tự do mà tự quyết vấn đề còn lại ,hay tách ra
khỏi liên bang Đong Dương .ở Lào thành lập "Mặt trận Ai Lao độc lập
đồng minh",ở Campuchia thành lập "Cao Miên độc lập đồng minh "
_Về thể chế chính trị ,sau khi giành độc lập sẽ thành lập chính phủ nhân
dân của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ,quy định quốc kỳ ,quốc ca.
_Chuyển hướng hình thức tổ chức ,hình thức đấu tranh :từ đấu tranh
chính trị công khai sang đấu tranh bí mật ,bất hợp pháp;ra sức chuẩn bị
lực lượng cách mạng ;chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền là
nhiệm vụ hàng ngày của toàn Đảng ,toàn dân trong giai đoạn cách mạng
hiện tại
_Hội nghị dự báo thời cơ khởi nghĩa .PhảI đi từ khởi nghĩa từng phần
,giành chính quyền ở từng địa phương ,tiến lên tổng khởi nghĩa giành
chính quyền trong cả nước.
III. CHƯƠNG 3 ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG
THỰC DÂN PHÁP VÀ ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢT.
5. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ, CHỦ TRƯƠNG VÀ BIỆN PHÁP CỦA ĐẢNG ĐỂ
BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN CM NON TRẺ Ở NĂM ĐẦU TIÊN SAU CMT8.
Hoàn cảnh lịch sử, chủ trương và biện pháp để bảo vệ chính quyền
cách mạng non trẻ ở năm đầu tiên sau CMT8 1945-1946
1. Hoàn cảnh
a. Quốc tế:
i. Cuộc đấu tranh giữa cách mạng và phản cách mạng, giữa phong trào
giải phóng dân tộc chống ách thực dân, giữa thế lực đế quốc cũ và
mới là nội dung chính của tiến trình lịch sử thế giới kể từ sau Chiến
tranh thế giới thứ hai. Tình hình đó tác động sâu sắc đến lịch sử Việt
Nam sau Cách mạng tháng Tám
1. Sau Cách mạng tháng Mười Nga, nhà nước xã hội chủ nghĩa
đầu tiên trên thế giới ra đời. Từ thành trì cách mạng của thế
giới đó, trong Chiến tranh thế giới thứ hai, một loạt nước
được Hồng quân Liên Xô giải phóng khỏi ách phái xít đã đứng
vào hàng ngũ các nước xã hội chủ nghĩa. Hệ thống các n ước
xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu trở thành trụ cột cho
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và bảo
vệ hòa bình của nhân dân thế giới
2. Cách mạng giải phóng dân tộc của các nước trên thế giới làm
lung lay hệ thống chủ nghĩa thực dân cũ.
3. Phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ của công nhân, nhân
dân lao động, của các Đảng Cộng sản ở nhiều nước tư bản, có
tác động mạnh đến chính sách đối nội, đối ngoại của các thế
lực đang cầm quyền trong hệ thống tư bản chủ nghĩa.
4. Hệ thống các nước đế quốc chủ nghĩa có thay đổi vị trí: Các
nước phát xít bị bại trận, các đế quốc đại diện cho chủ nghĩa
thực dân kiểu cũ như Anh, Pháp suy yếu ; Mỹ trở thành đế
quốc lớn nhất, có sức chi phối hệ thống đế quốc và đang trở
thành sen đầm quốc tế.
b. Việt Nam:
i. Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà non trẻ vừa ra đời, vừa phải đối
phó với nhiều kẻ thù.
Ở miền Bắc, với danh nghĩa Đồng minh giải giáp quân Nhật, 20 vạn quân Tưởng vào đóng quân từ bắc
vĩ tuyến 16 đến biên giới Việt–Trung. Cuối tháng 8 đâu tháng 9 nǎm 1945, quân đội Tưởng do
tướng Lư Hán làm tổng chỉ huy đã đóng quân tại Hà Nội và hầu hết các thành phố, thị xã từ biên
giới Việt - Trung đến vĩ tuyến 16. Ngày 11-9-1945, tướng Lư Hán tuyên bố thời gian quân Tưởng
ở Việt Nam là không hạn định, tự cho mình quyền kiểm soát trật tự, an ninh trong thành phố.
Tiêu Vǎn, nhân vật được chính quyền Tưởng giao trách nhiệm xếp đặt chế độ chính trị ở Việt
Nam, mà thực chất là thực hiện âm mưu lật đổ đã sớm có mặt ở Hà Nội
Theo sau quân Trung Hoa Dân quốc là bọn phản động ( Việt quốc, Việt cách ) Khi vào nước ta, quân
Tưởng kéo theo lực lượng phản động người Việt lưu vong ở Trung Quốc tập hợp trong tổ chức
Việt Nam quốc dân đảng (Việt Quốc) của Vu Hồng Khanh và Việt Nam cách mạng đông chí hội
(Việt Cách) của Nguyễn Hai Thần. Được quân Tưởng khuyến khích, hỗ trợ, các lực lượng phản
động này củng cố chỗ đứng và ngày càng tǎng cường chống phá chính quyền cách mạng và
chiếm giữ một số địa phương. Tại Hà Nội, dựa vào thế quân Tưởng, bọn Việt Quốc, việt Cách
công khai hoạt động tuyên truyền, gây rối chống phá cách mạng, đồng thời ra sức lừa bịp, lôi
kéo quần chúng dưới cái vỏ "cách mạng" và "quốc gia, dân tộc" giả hiệu. Ngoài ra còn nhiều tổ
chức phản cách mạng khác hoạt động như Đại Việt quốc dân đảng, Đại Việt quốc gia xã hội
đảng v.v. đã bị chính quyền cách mạng ra sắc lệnh giải tán nhưng vẫn tìm mọi cách hoạt động
phá hoại...
với âm mưu Tiêu diệt ĐCS Đông Dương , phá tan Việt Minh, lật đổ chính quyền cách mạng.
Lôi kéo các tổ chức phản động : Việt Nam Quốc Dân Đảng (Việt Quốc), Việt Nam Cách Mạng
Đồng Minh Hội (Việt Cách).
Âm mưu đặt Đông Dương dưới chế dộ “ủy trị”
1. tiêu diệt Đảng ta, tìm mọi cách lật đổ chính quyền cách mạng,
tạo điều kiện cho tay sai lên nắm chính quyền.
Cũng với danh nghĩa giải giáp quân Nhật, quân đội Anh vào đóng ở miền Nam, ở phía Nam vĩ tuyến 16
(từ Đà Nẵng trở vào), cũng với danh nghĩa lực lượng Đồng minh, quân đội Anh vào tước vũ khí
quân Nhật, Nhưng trên thực tế, đế quốc Anh đã giúp cho thực dân Pháp trở lại chiếm Việt Nam
và cả Đông Dương.
Được sử ủng hộ của quân đội Anh, ngay trong ngày 2-9-1945, quân Pháp đã nổ súng giết hàng chục
người khi đồng bào ta đang mít tinh mừng ngày độc lập ở Sài Gòn. Ngày 6-9-1945, quân đội Anh vào Sài
Gòn, Gờ-ra-xây - tổng chỉ huy quân đội Anh ở Nam Đông Dương - đòi giai giáp quân đội Việt Nam. Ngày
12-9-1945, quân Anh chiếm trụ sở Uỷ ban nhân dân Nam Bộ, che chở cho lực lượng của Pháp biểu tình
khiêu khích ở Sài Gòn. Chúng tự ý duy trì trật tự trong thành phố, giao cho quân Nhật làm nhiệm vụ cảnh
sát, thả 1500 lính Pháp bị Nhật giam giữ trước đây và trang bị cho lực lượng này, đồng thời trắng trợn đòi
lực lượng vũ trang Việt Nam nộp vũ khí. Ngày 23-9-1945, Pháp tiến công Sài Gòn, mở đầu cuộc xâm
lược nước ta lần hai.
2. thực chất để dọn đường và giúp quân Pháp quay trở lại xâm
lược Việt Nam... Anh và Pháp cấu kết đàn áp cách mạng Đông
Dương vì "sợ rằng phong trào ấy "làm gương" cho các thuộc
địa của Anh". Mặt khác, cũng để ngǎn chặn âm mưu của Mỹ
muốn tranh giành quyền lợi với Anh, Pháp ở Đông Dương và
Đông - Nam châu á. Các tổ chức phản CM nổi dậy làm tay sai
cho Pháp (Đại Việt, Tơrốtxkít, các giáo phái phản động)
Trong khi đó, nền kinh tế Việt Nam kiệt quệ, . Nǎng suất lúa rất thất ( 12 tạ/ha). Nông dân lao
động chiếm hơn 95% số hộ nhưng chỉ được sử dụng không quá 40% ruộng đất. Hậu quả nạn
đói cuối nǎm 1944 đầu nǎm 1945 chưa kịp khắc phục, thì nạn lụt lớn lại xảy ra, tàn phá 9 tỉnh
đồng bằng Bắc Bộ. 50% ruộng đất bỏ hoang.
Công nghiệp chỉ có không quá 200 nhà máy nhỏ bé, trang bị cũ kỹ, đang lâm vào đình đốn,
hàng hoá khan hiếm.
Tài chính quốc gia gần như trống rỗng. Ngân hàng Đông Dương vẫn nằm trong tay tư bản nước
ngoài. Chính quyền cách mạng chỉ tiếp quản được kho bạc với 1.230.720 đồng, trong đó có
586.000 đồng tiền rách.
Các loại tiền mất giá của quân đội Tưởng được tung vào thị trường càng làm cho tài chính Việt Nam khó
khăn hơn
tiêu điều bởi hậu quả của chính sách cai trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật.. Nạn đói năm 1945 làm
cho gần hai triệu người chết chưa khắc phục xong, thì nguy cơ nạn đói mới lại đe doạ nhân dân. Chế độ
thực dân để lại nhiều hậu quả xã hội nặng nề. Nổi bật nhất là trên 90% nhân dân mù chữ (nạn dốt).
Hầu hết số người được đi học chỉ ở bậc tiểu học và vỡ lòng, trên 3 vạn dân mới có một học sinh
cao đẳng hoặc đại học và chủ yếu học ở ngành luật và ngành thuốc.
Suất thời kỳ 1930-1945, số công chức có trình độ cao đẳng và đại học chỉ gồm vài trǎm người
ii. Thiếu thốn công chức có trình độ bậc đại học. Tệ nạn mê tín dị đoan,
rượu chè, cờ bạc còn rất phổ biến.
iii. Cách mạng vừa thành công, thể chế dân chủ cộng hoà chưa được củng
cố, đã phải đương đầu với khó khăn từ mọi phía. Đây là thời kỳ vận
mệnh dân tộc ở thế “ngàn cân treo sợi tóc”.
iv. Tuy nhiên, chúng ta cũng có những thuận lợi cơ bản :
1. Trong nước: Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, đứng đầu là
Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta đã giành được chính quyền,
được nhân dân dân ủng hộ triệt để; tinh thần yêu nước, đấu
tranh cách mạng của nhân dân ...
a. Chính phủ lâm thời (9/1945) và Chủ tịch nước Hồ Chí
Minh ra mắt quốc dân đồng bào
2. Quốc tế:
a. Phong trào giải phóng dân tộc đang dâng cao ở nhiều
nước thuộc địa và phụ thuộc
b. Hệ thống XHCN Thế Giới đang hình thành.
c. Phong trào đấu tranh vì hòa bình, dân chủ, phát triển ở
các nước tư bản.
v. Trước tình hình đó, Đảng và Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã củng cố khối đại đoàn kết
toàn dân tộc và bằng tài trí, kiên cường, đưa sự nghiệp giải phóng dân
tộc vượt qua chặng đường lịch sử khó khăn nhất.
2. Chủ trương của Đảng
Trước âm mưu xâm lược của thực dân Pháp ở miền Nam, ngày 25/11/1945, Đảng ta ra
chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”. Trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và hiện trạng đất
nước, ngày 25-11-1945, Trung ương Đảng ra chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc". Bản chỉ thị xác
định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng lúc này "vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng. Vì
trên thực tế, cuộc cách mạng đó vẫn đang tiếp diễn, nước ta chưa hoàn toàn độc lập. Chính
quyền cách mạng cùng toàn dân phải "kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng ấy Khẩu
hiệu của cách mạng vẫn là "Dân tộc trên hết", "Tổ quốc trên hết". Xem xét âm mưu của chủ
nghĩa đế quốc đối với cách mạng Việt Nam và Đông Dương cũng như những hành động xâm
lược của thực dân Pháp ở Nam Bộ cho thấy, việc Đảng ta xác định nhiệm vụ chiến lược trên
đây là đúng đắn.
a.
i. Bản chỉ thị xác định tính chất của cuộc cách mạng Việt Nam sau
cách mạng tháng Tám năm 1945 vẫn là cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc
ii. Nội dung :
1. Chỉ thị nêu rõ: kiên quyết đấu tranh giành độc lập, tự do,
hạnh phúc cho dân tộc, thực hiện chế độ dân chủ cộng
hòa, cải thiện cuộc sống nhân dân.
2. Đảng phát động phong trào Nam tiến ủng hộ nhân dân
miền Nam đánh Pháp.
3. Về nội chính: Xúc tiến việc bầu cử Quốc hội, thành lập
chính phủ chính thức, lập Hiến pháp, trừng trị bọn phản
động chống đối hiện hành, củng cố chính quyền nhân
dân.
4. Về quân sự: Động viên lực lượng toàn dân kiên trì kháng
chiến, tổ chức và lãnh đạo cuộc kháng chiến lâu dài.
5. Về ngoại giao: Kiên trì các nguyên tắc: “bình đẳng
tương trợ”, thêm bạn bớt thù, thực hiện khẩu hiệu: “Hoa
– Việt thân thiện” đối với quân đội Tưởng Giới Thạch.
Chủ trương “độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh
tế” đối với Pháp.
b. Chủ trương trước 6/3/1946
i. Xây dựng nền móng chế độ mới,củng cố chính quyền DCND
:tiến hành tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung cả nước ngày
6/1/1946 . Thành lập Chính phủ Liên hiệp chính thức . Bầu
HĐND các cấp ở các địa phương .
ii. Những biện pháp chống giặc đói , chống giặc dốt , khắc phục
khó khăn tài chính
iii. Chủ trương hòa với Tưởng ở miền bắc từ 2/9/45 đến 6/3/46 để
tránh cùng 1 lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù nhằm tập trung
lực lượng để đánh Pháp đang xâm lược ở miền Nam
c. Chủ trương từ 6/3/1946 : chủ động hòa hõan với Pháp nhằm đẩy nhanh
quân Tưởng ra khỏi nước và tranh thủ thời gian hòa hõan để chuẩn bị
lượng về mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài chắc chắn sẽ xảy ra
trước âm mưu xâm lược lâu dài của Pháp
Kí hiệp định sơ bộ 6/3/1946. Ngày 6/3/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ ký với
đại diện Chính phủ Pháp bản Hiệp định Sơ bộ với nội dung:
+ Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là một quốc gia tự do, có Chính
phủ, Nghị viện, quân đội và Tài chính riêng nằm trong khối Liên Hiệp Pháp.
+ Chính phủ Việt Nam thỏa thuận cho 15.000 quân Pháp ra miền Bắc thay Tưởng, và số quân
này sẽ rút dần trong thời hạn 5 năm.
+ Hai bên thực hiện ngừng bắn ngay ở Nam Bộ; Tạo điều thuận lợi cho việc mở cuộc đàm phán
ở Paris.
i.
Ký tạm ước 14/9/1946 Ta tranh thủ điều kiện hòa bình để ra sức củng cố, xây dựng và phát
triển lực lượng về mọi mặt, chuẩn bị để đối phó với thực dân Pháp.
+ Thực dân Pháp liên tiếp vi phạm Hiệp định: Gây xung đột ở Nam Bộ, tìm cách trì hoãn và phá
hoại các cuộc đàm phán, làm cho cuộc đàm phán ở Phông-ten-nơ-blô giữa hai Chính phủ bị thất
bại. Nguy cơ bùng nổ chiến tranh đến gần.
Trước tình hình đó, ngày 14/9/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với Chính phủ Pháp một bản
Tạm ước, tiếp tục nhượng bộ một số quyền lợi ở Việt Nam cho Pháp để kéo dài thời gian hòa
hoãn nhằm củng cố và xây dựng lực lượng.
Sự nhân nhượng thực dân Pháp trong giai đoạn sau ngày 28/2/1946 đã đẩy được 20 vạn quân
Tưởng và tay sai ra khỏi miền Bắc, tạo ra được một giai đoạn hòa bình để củng cố và xây dựng
lực lượng, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài với thực dân Pháp.
ii.
… Chính nhờ các chủ trương trên mà quân dân Việt Nam đã có được
sự chuẩn bị cơ bản nhất về chính trị , quân sự ,kinh tế để đẩy mạnh
cuộc kháng chiến từ khi bùng nổ cho đến khi giành thắng lợi hòan tòan
như chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận xét :”Chúng ta cần hòa bình để xây
dựng nước nhà,cho nênchúng ta đã ép lòng mà nhân nhượng để giữ
hòa bình.Gần một năm tạm hòa bình đã cho chúng ta thời gian để xây
dựng lực lượng căn bản.Khi Pháp cố ý gây chiến tranh,chúng ta không
thể nhịn được nữa thì cuộc kháng chiến tòan quốc bắt đầu” .
3. Biện pháp thực hiện
a. Về Chính trị:
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương tổ chức sớm cuộc tổng tuyển cử
phổ thông đầu phiếu, lập chính phủ chính thức, chấn chỉnh các cơ quan chính
phủ, soạn thảo Hiến pháp để khẳng định trên thực tế và về mặt pháp lý, một
chính quyền thật sự do nhân dân xây dựng nên, một chính quyền của dân và
vì dân. Kết quả cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam ngày 6-1-
1964 biểu thị ý chí và sức mạnh của toàn dân xây dựng và bản vệ chính
quyền.
ở các địa phương nhân dân cũng bầu ra Hội đồng nhân dân các cấp và các
hội đồng đó cử ra các uỷ ban nhân dân chính thức thay cho các uỷ ban nhân
dân lâm thời thành lập trong những ngày tổng khởi nghĩa. Việc kiện toàn
chính quyền cách mạng từ trung ương tới cơ sở có ý nghĩa to lớn cả về đối
nội và đối ngoại và là bước tiến quan trọng nhằm tǎng cường sức mạnh về
chính trị. Ngày 9-11-1946, Quốc hội thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên
của nước ta, khẳng định tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân
dân Việt Nam, nước Việt Nam là một khối thống nhất không thể chia cắt.
i. Xúc tiến bầu cử quốc hội
ii. Lập hiến pháp
Hiến pháp 1946, đầu tiên của nước VNDCCH
iii. Thành lập chính phủ chính thức
b. Về quân sự
i. Động viên lực lượng toàn dân kháng chiến chống Pháp
c. Về kinh tế
i. Tuần lễ vàng, hũ gạo tiết kiệm
d. Ve xa hoi
6. PHÂN TÍCH VỊ TRÍ NHIỆM VỤ MỐI QUAN HỆ CỦA 2 CHIẾN LƯỢC
CM CMXHCN Ở MIỀN BẮC VÀ CÁCH MẠNG DÂN TỘC DCND Ở MIỀN
NAM DO ĐẠI HỘI ĐẢNG LẦN 3 NĂM 1960 VẠCH RA.
Đại hội lần thứ III của Đ đã xác định nhiệm vụ chung của cách mạng VN và
vạch rõ hai chiến lược cách mạng ở hai miền:
Nội dung đường lối chung:
Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hoà bình,
đẩy mạnh cách mạng XHCN ở miền Bắc đồng thời đẩy mạnh cách mạng
DTDC ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân
chủ, xây dựng một nước VN hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh. Thiết thực góp phần tăng cường phe XHCN và bảo vệ hoà bình ở ĐNA
và thế giới.
• Cách mạng VN tiếp tục ở thế chiến lược tiến công cùng lúc tiến hành đồng
thời 2 chiến lược cách mạng là cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng
DTDC ở miền Nam. Nhưng luôn thấu suốt mục tiêu chung là mục tiêu của thời
đại là giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, hoà bình, độc lập dân tộc
dân chủ và tiến bộ xã hội.
• Cơ sở khoa học của đường lối:
- Cơ sở lí luận : đường lối này đúng với cương lĩnh đầu tiên của Đ . Miền
Bắc hoàn thành cách mạng DTDC và tiến lên chủ nghĩa cộng sản là hoàn toàn
đúng, còn miền Nam vẫn còn CNĐQ và PK nên phải tiến hành xong cách mạng
DTDC trước khi tiến lên chủ nghĩa cộng sản.
Mặt khác đường lối này cũng đúng với điều kiện bỏ qua và tư tưởng cách
mạng không ngừng của Lênin:
Miền Bắc hoàn thành cách mạng là tiến thẳng lên CHXH bỏ qua TBCN vì: hình
thái kinh tế bỏ qua đã trở lên lỗi thời; CNXH đã trở thành hiện thực trên thế
giới; giai cấp vô sản đã giữ vững vai trò lãnh đạo của mình trong quá trình cách
mạng.
Do cách mạng có tính liên tục lên khi giành được thắng lợi miền Bắc phải tiến
thẳng lên CHXN.
- Cơ sở thực tiễn: đường lối này đúng với nguyện vọng của dân tộc là giải
phóng miền Nam thống nhất đất nước.
• ý nghĩa của đường lối:
- Khẳng định lại đường lối của Đ năm 1930.
- Thể hiện sự vận động sáng tạo chủ nghĩa M- L vào thực tế VN.
- Phù hợp với yêu cầu nguyện vọng của nhân dân ta chống lại những quan điểm
sai lầm về viẹc lựa chọn con đường cách mạng VN.
Đường lối cách mạng XHCN ở miền Bắc:
Với mục tiêu cơ bản là xây dựng đời sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân miền
Bắc, xây dựng miền Bắc thành căn cứ địa vững mạnh làm hậu thuẫn cho cách
mạng miền Nam, góp phần tăng cường sức mạnh hệ thống XHCN và bảo vệ hoà
bình ĐNA và thế giơí. Với điều kiện quyết định đầu tiên để đưa miền Bắc lên
XHCN là dựa vào chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ chuyên chính vô
sản Đ ta đã đưa ra đường lối sau:
- Với đặc điểm từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên
CNXH không qua phát triển TBCN, đại hội III khẳng định cuộc cách mạng
XHCN ở miền Bắc là một quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt trong đó
lấy nông nghiệp là khâu cải tạo chính.
- Thực hiện công nghiệp hoá được coi là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ
quá độ lên CNXH.
- Đẩy mạnh cách mạng tư tưởng văn hoá và kĩ thuật.
- Tăng cường lực lượng quốc phòng xây dựng quân đội tiến lên chính quy
hiện đại.
- Tăng cường đoàn kết quốc tế XHCN tranh thủ sự giúp đỡ của các nước
XNCH anh em.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, miền Bắc là hậu phương
lớn có nghĩa vụ chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam. Miền Bắc đã làm
tròn nghĩa vụ đó một cách xuất sắc.
Ngay cả trong điều kiện chiến tranh ác liệt, bị chiến tranh tàn phá nặng
nề, miền Bắc vẫn hướng về miền Nam. Vì tiền tuyến kêu gọi, hậu
phương sẵn sàng đáp lại "Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu
một người". Vì miền Nam ruột thịt, miền Bắc phấn đấu "Mỗi người làm
việc bằng hai".
Tuyến đường vận chuyển chiến lược Bắc - Nam mang tên Hồ Chí Minh
trên bộ dọc theo dãy Trường Sơn và trên biển dọc theo bờ biển Việt Nam
bắt đầu khai thông từ tháng 5-1959, dài hàng nghìn kilômét đã nối liền hậu
phương tiền tuyến, thắt chặt tình cảm ruột thịt Bắc - Nam.
Qua hai tuyến đường vận chuyển chiến lược đó, chủ yếu trên đường
Trường Sơn, trong bốn năm (1965-1968) miền Bắc đã đưa hơn 300.000
cán bộ, bộ đội vào Nam tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu, tham gia
các nhiệm vụ xây dựng kinh tế, văn hoá tại các vùng giải phóng, và cũng
đã gửi vào Nam hàng chục vạn tấn hàng, gồm vũ khí, đạn dược, quân
trang, quân dụng, xăng dầu, lương thực, thực phẩm, thuốc men và nhiều
vật dụng khác. Tính chung, sức người, sức của từ Bắc chuyển vào Nam
trong bốn năm đã tăng gấp 10 lần so với thời kỳ trước. Đó là chưa kể
hàng vạn chiến sĩ lái xe, lái tàu, công binh, thanh niên xung phong, giao
liên làm nhiệm vụ đưa đón trên tuyến đường Trường Sơn.
- Nguồn lực chi viện trên cùng với thắng lợi của quân dân miền Bắc
giành được trong chiến đấu và sản xuất, có tác dụng to lớn. Nó đã góp
phần quyết định vào thắng lợi của quân dân miền Nam trong chiến đấu
chống chiến tranh cục bộ của Mỹ - Ngụy.
Đường lối cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam:
Được nêu rõ trong nghị quyết trung ương lần thứ 15:
Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam khỏi ách
thống trị của ĐQ và PK, hoàn thành cách mạng DTDC ở miền Nam.
- Con đường phát triển cơ bản của cách mạng miền Nam là khởi nghĩa giành
chính quyền về tay nhân dân. Đó là con lấy sức mạnh quần chúng, dựa vào lực
lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu.
- Kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang để đánh đổ Ngô Đình
Diệm, tay sai của ĐQ thành lập một chính quyền liên hiệp dân tộc, dân chủ ở
miền Nam.
- Tăng cường công tác Mặt trận để mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, củng
cố xây dựng Đ bộ miền Nam vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức để đủ
sức lãnh đạo trực tiếp cách mạng miền Nam.
- Khẳng định ĐQ Mĩ là một đế quốc hiếu chiến nên cuộc khởi nghĩa của nhân
dân miền Nam có khả năng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang lâu dài và thắng
lợi cuối cùng nhất định sẽ thuộc về ta.
Ý nghĩa của đường lối
Đường lối tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến l ược cách
mạng do Đại hội lần thứ III của Đảng đề ra có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết
sức to lớn.
- Đường lối đó thể hiện tư tưởng chiến lược của Đảng: giương cao ngọn
cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vừa phù hợp với miền Bắc vừa phù hợp
với miền Nam, vừa phù hợp với cả nước Việt Nam và phù hợp với tình hình
quốc tế, nên đã huy động và kết hợp được sức mạnh của hậu phương và tiền
tuyến, sức mạnh cả nước và sức mạnh của ba dòng thác cách mạng trên thế
giới, tranh thủ được sự đồng tình giúp đỡ của cả Liên Xô và Trung Quốc. Do đó
đã tạo ra được sức mạnh tổng hợp để dân tộc ta đủ sức đánh thắng đế quốc Mỹ
xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
- Đặt trong bối cảnh Việt Nam và quốc tế lúc bấy giờ, đường lối chung của
cách mạng Việt Nam đã thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng
ta trong việc giải quyết những vấn đề không có tiền lệ lịch sử, vừa đúng với
thực tiễn Việt Nam, vừa phù hợp với lợi ích của nhân loại và xu thế c ủa thời
đại.
- Đường lối chiến lược chung cho cả nước và đường lối cách mạng ở mỗi
miền là cơ sở để Đảng chỉ đạo quân dân ta phấn đấu giành được những thành
tựu to lớn trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thắng lợi
chống các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ và tay sai ở miền Nam.
Phan nay tham khao them: “Cmang dan toc dan chu
Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cách mạng
Việt Nam bước vào thời kỳ mới với đặc điểm: Đất nước tạm thời chia
cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội đối lập nhau. Miền Bắc
đã có hoà bình, dưới sự lãnh đạo của Đảng đang bắt đầu xây dựng một xã
hội mới. Miền Nam vẫn còn dưới ách đô hộ, áp bức của chủ nghĩa đế
quốc. Con đường phát triển của cách mạng nước ta lúc này được Đảng ta
xác định là phải tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược:
Một là, tiến hành cách mạng XHCN ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc
thành căn cứ địa vững chắc của cả nước.
Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, chống
đế quốc Mỹ xâm lược và tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước.
Như vậy, đặc điểm lớn nhất, nét độc đáo của cách mạng Việt Nam thời
kỳ này là một Đảng thống nhất lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành
đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược. Tuy mỗi miền thực hiện một nhiệm
vụ chiến lược khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong
đó cách mạng miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối với toàn bộ sự
phát triển của cách mạng Việt Nam. Cách mạng miền Nam giữ vị trí quan
trọng, tác động trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam thống
nhất đất nước.
Hơn 20 năm cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, mặc dù
gặp nhiều khó khăn trở ngại chồng chất, đặc biệt từ năm 1965 trở đi
miền Bắc phải trực tiếp đương đầu với cuộc chiến tranh phá hoại rất ác
liệt của đế quốc Mỹ, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân miền
Bắc đã kiên cường trong sản xuất và chiến đấu, giành được những thành
tựu to lớn, đồng thời chi viện đắc lực cho miền Nam...Hàng triệu tấn
lương thực và vũ khí, trang bị; hàng vạn thanh niên nam nữ hăng hái lên
đường vào miền Nam chiến đấu. Miền Bắc đã dốc sức vào chiến tranh
cứu nước và giữ nước với toàn bộ sức mạnh của chế độ xã hội chủ
nghĩa, đã làm tròn một cách xuất sắc nghĩa vụ căn cứ địa của cách mạng