Nuôi cá chẽm
Cá chẽm có thân hình thon dài và dẹp bên, cuống đuôi khuyết sâu. Đầu
nhọn, nhìn bên cho thấy phía trên hơi lõm xuống ở giữa và hơi lồi ở lưng. Miệng
rộng và hơi so le, hàm trên kéo dài đến phía dưới sau hốc mắt.
Nuôi cá chẽm
Nguồn: hoind.tayninh.gov.vn
Các đặc điểm sinh học căn bản của cá chẽm
1. Đặc điểm phân loại và hình thái
Cá chẽm còn gọi là cá vược, có tên tiếng Anh là seabass và được phân loại
như sau
Lớp: Osteichthyes
•
Bộ : Perciformes
•
Họ: Serranidae
•
Giống:
• Lates
Loài:
• Lates calcarifer
Cá chẽm có thân hình thon dài và dẹp bên, cuống đuôi khuyết sâu. Đầu
nhọn, nhìn bên cho thấy phía trên hơi lõm xuống ở giữa và hơi lồi ở lưng. Miệng
rộng và hơi so le, hàm trên kéo dài đến phía dưới sau hốc mắt. Răng dạng nhung,
không có răng nanh, trên nắp mang có gai cứng, vây lưng gồm có 2 vi: vi trước có
7-9 gai cứng và vi sau có 10-11 tia mềm. Vi hậu môn có 3 gai cứng, vi đuôi tròn
và có hình quạt. Vẩy dạng lược và có kích cỡ vừa phải, có 61 vẩy đường bên.
Khi cá còn khoẻ, trên mặt lưng có màu nâu, mặt bên và bụng có màu bạc
khi sống trong môi trường nước biển, màu nâu vàng khi sống trong môi trường
nước ngọt. Khi cá ở giai đoạn trưởng thành sẽ có màu xanh lục hay vàng nhạt trên
lưng và màu vàng bạc ở mặt bụng.
2. Đặc điểm phân bố
Cá chẽm là loài phân bố rộng từ vùng nhiệt đới đến cận nhiệt đới thuộc Tây
Thái Bình Dương và ấn Độ Dương, giữa kinh tuyến 500 Đông và 1600 Tây, Vĩ
tuyến 260 Bắc và 250 Nam.
Cá chẽm rất rộng muối và có tính di cư xuôi dòng, cá lớn lên chủ yếu ở
vùng nước ngọt như sông, hồ. Khi thành thục (3-4 năm tuổi ), chúng sẽ di cư ra
vùng cửa sông, ven biển có độ mặn thích hợp từ 30 - 32%--o để sinh sản. ấu trùng
sau khi nở ra sẽ đưa vào vùng cửa sông, ven bờ và lớn lên, cá con sẽ dần dần di cư
vào các thủy vực nước ngọt sinh sống và phát triển thành cá thể trưởng thành.
3. Vòng đời
Cá chẽm trải qua phần lớn thời gian sinh trưởng (2-3 năm) trong các thủy
vực nước ngọt như: sông, hồ nơi nối liền với biển. Cá có tốc độ tăng trưởng nhanh,
thường đạt cở 3-5 kg sau 2-3 năm. Cá trưởng thành 3-4 tuổi di cư từ vùng nước
ngọt về vùng cửa sông và ra biển nơi có độ muối dao động 30-32%o để phát triển
tuyến sinh dục và đẻ trứng sau đó. Cá đẻ trứng theo chu kỳ trăng (thường vào lúc
khởi đầu của tuần trăng hay lúc trăng tròn) vào lúc buổi tối (6-8 giờ) và thường cá
đẻ đồng thời với thủy triều lên. Điều này giúp trứng và ấu trùng trôi vào vùng cửa
sông. Nơi đó, ấu trùng sẽ phát triển và di chuyển ngược dòng để lớn. Hiện tại, đều
chưa biết là cá trưởng thành có đi ngược dòng không hay chúng giữ giai đoạn còn
lại cuối đời sống ở biển.
Smith (1965) ghi rằng, một số cá sống cả vòng đời trong nước ngọt nơi
chúng lớn lên đến cở 65cm dài và trọng lượng 19.3kg. Tuyến sinh dục của những
cá đó thì không phát triển. Trong môi trường nước lợ, cá Chẽm đạt chiều dài
1.7cm (?) được tìm thấy ở vùng Indonesia - ủc (Weber và Beaufort, 1936).
4. Tính ăn
Cá chẽm là loài cá dữ rất điển hình. Khi cá còn nhỏ, tuy chúng có thể ăn
các loài phiêu sinh thực vật (20%) mà chủ yếu là to khuê, nhưng thức ăn chủ yếu
vẫn là cá, tôm nhỏ (80%). Khi cá lớn hơn 20 cm, 100% thức ăn là động vật bao
gồm giáp xác khoảng 70% và cá nhỏ 30%. Cá chẽm bắt mồi rất dữ và có thể bắt
con mồi có kích cỡ bằng cơ thể của chúng. Cá chẽm chỉ bắt mồi sống và di động.
5. Phân biệt giới tính
Đặc điểm nổi bậc trong việc sinh sản của cá Chẽm là có sự thay đổi giới
tính từ cá đực thành cá cái sau khi tham gia lần sinh sản đầu tiên và đây được gọi
là cá chẽm thứ cấp. Tuy nhiên, cũng có những cá cái được phát triển trực tiếp từ
trứng và được gọi là cá cái sơ cấp. Chính vì thế trong thời gian đầu (1.5- 2 kg)
phần lớn là cá đực, nhưng khi cá đạt 4- 6 kg, phần lớn là cá cái.
Thông thường, rất khó phân biệt giới tính ngoại trừ vào mùa sinh sản, có
thể dựa vào đặc điểm sau:
- Cá đực có mõm hơi cong, cá cái thì thẳng
- Cá đực có thân thon dài hơn cá cái
- Cùng tuổi, cá cái sẽ có kích cỡ lớn h ơn cá đực
- Trong mùa sinh sản, những vẩy gần lổ huyệt của cá đực sẽ dày hơn cá cái
- Bụng của cá cái to hơn cá đực vào mùa sinh sản.
Các mô hình nuôi cá chẽm
1. Nuôi cá chẽm trong lồng
Nuôi cá chẽm trong lồng đang được phát triển ở nhiều nước như Thái lan,
Indonesia, philippines, Hồng kông và Singapore. Các thành công của việc nuôi cá
chẽm trong lồng trên biển và trên sông đã có ý nghĩa cho việc phát triển của nghề
nầy.
a. Chọn ví trí nuôi lồng
Trong nuôi cá lồng, do chất lượng nước không thể kiểm soát được như
trong các thủy vực ao, đầm mà tùy thuộc hoàn toàn vào tự nhiên, vì thế chọn lựa vị
trí thích hợp sẽ có ảnh hưởng quyết định đến sự thành công của nghề nuôi. Thông
thường, tiêu chuẩn lựa chọn vị trí nuôi được phân thành 3 nhóm yếu tố chính: (i)
nhóm các yếu tố liên quan đến sự sống của cá nuôi như nhiệt độ, độ mặn, mức độ
nhiễm bẩn, vật chất lơ lửng, nở hoa của tảo, sinh vật gây bệnh trao đổi nước, dòng
chảy, khả năng làm bẩn lồng; (ii) nhóm các yếu tố về độ sâu, chất đáy, giá thể...;
và (iii) nhóm các yếu về điều kiện thành lập trại nuôi như phương tiện, an ninh,
kinh tế - xã hội, luật lệ...
Một vị trí tốt cho việc nuôi lồng cá biển là cần thiết có:
Độ sâu phải bảo đảm đáy lồng cách đáy biển ít nhất 2-3m. ít sóng to,
•
gió lớn (tránh nơi sóng > 2 m) và tốc độ dòng chảy nhỏ (dưới 1 m/giây) nếu không
sẽ làm hư hỏng lồng, trôi thức ăn, làm cho cá hoạt động yếu gây chậm lớn và sinh
bệnh.
Tránh nơi nước chảy quá yếu hay nước đứng (tốc độ chảy thích hợp
•
từ 0,2-0,6 m/giây) mà có thể dẫn đến cá chết do thiếu oxy, thức ăn thừa, mùn bã
cũng tích lũy ở đáy lồng gây ô nhiễm.
Đảm bảo hàm lượng oxy từ 4-6 mg/lít, nhiệt độ 25-30 oC, độ mặn từ
•
27-33%o. Cần tránh xa những nơi gây ô nhiễm dầu, ô nhiễm chất thi công nghiệp,
nước thải sinh hoạt, và tàu bè. Nơi có thể xảy ra hồng triều.
b. Thiết kế và xây dựng lồng
Thông thường một dàn lồng có kích cỡ 6 x 6 x 3 m và được thiết kế thành 4
ô để làm thành 4 lồng riêng biệt như vậy mỗi lồng sẽ có kích cỡ 3 x 3 x 3 m. Như
thế sẽ thuận lợi cho việc thả giống được đồng loạt cho từng lồng, đồng thời với
một lồng không nuôi cá sẽ dành để thay lồng khi xử lý bệnh cá hay xử lý rong to
bẩn đóng trên lồng.
Mặc dầu có thể sử dụng các vật liệu rẻ như tre, gỗ,... để làm lồng như nhiều
nơi trước đây, song sẽ dễ dàng bị hư hỏng. Vì thế, chỉ nên làm khung trên lồng
bằng gỗ với kích cỡ thông thường loại 8x15 cm. Khung đáy lồng dùng bằng ống
nước đường kính 15/21 và được mạ kẽm để tăng tuổi thọ. Lưới lồng tốt nhất nên là
PE không gút. Kích thước mắc lưới có thể thay đổi tùy vào kích cỡ cá nuôi. Ví dụ
cỡ cá 1-2 cm dùng mắc lưới 0,5 cm, cở cá 5-10 cm dùng mắc lưới 1 cm; cở cá 20-
30 cm dùng mắc lưới 2 cm và cở cá >25 cm dùng mắc lưới 4 cm.
Phao có thể là thùng nhựa (1x 0,6m) hay thùng phuy để nâng khung gổ của
lồng. Số lượng phao có thể thay đổi tùy theo lồng có nhà trên đấy hay không.
Lồng đưọc cố định bằng neo ở 4 gốc để tránh bị nước cuốn trôi.
Ngoài ra ở các vùng cạn ven bờ có thể phát triển kiểu lồng cố định bằng
cách dùng lưới và cọc gỗ bao quanh khu nuôi.
c. Kỹ thuật nuôi và quản lý lồng
Trước khi thả cá giống vào lồng, cần phải thuần hóa để cá thích nghi với
nhiệt độ và nồng độ muối trong lồng. Cá giống nên phân cỡ theo nhóm và nuôi
trong những lồng riêng biệt. Thả cá vào lúc sáng sớm (6-8 giờ) hoặc buổi tối (8-10
giờ) khi nhiệt độ thấp.
Mật độ thả cá thường từ 40-50 con/m3. Sau 2-3 tháng nuôi cá đạt trọng
lượng 150-200g, lúc này giảm mật độ còn 10-20 con/m3. Tăng trưởng của cá chẽm
khi nuôi trong lồng ở những mật độ khác nhau được ghi ở bảng 5.1. Nên dành một
số bè trống, để sử dụng khi cần thiết như chuyển cá giống hay đổi lưới cho lồng
nuôi khi bị tắc nước do vi sinh vật bám. Thông qua việc chuyển đổi lồng giúp
phân cỡ và điều chỉnh mật độ nuôi.
Bảng 5.1: Tăng trưởng (g/con) hàng tháng của các chẽm nuôi lồng ở các
mật độ nuôi khác nhau (theo Sakares. W, 1982).
Mật độ (con/m2)
Thời gian nuôi
(tháng)
16 24 32
0 67.8 67.8 67.8
1 132 138 139
2 225 229 226
3 263 268 264
4 326 332 312
5 381 385 359
6 499 487 455
d. Thức ăn và cách cho ăn
Thức ăn hiện nay là vấn đề lớn mà nghề nuôi cá chẽm đương phải đương
đầu. Hiên tại, cá tạp là nguồn thức ăn được dùng duy nhất cho cá chẽm. Cá tạp
được băm nhỏ cho ăn hai lần mỗi ngày vào buổi sáng (8 giờ), buổi chiều (5 giờ)
với tỷ lệ 10% trọng lượng cá trong 2 tháng đầu. Sau 2 tháng chỉ cho ăn một
lần/ngày vào buổi chiều với tỷ lệ 5% trọng lượng cá. Chỉ cho cá ăn khi cá bơi lội
gần mặt nước.
Do nguồn cá tạp ở một số nước hiếm và đắt, cám gạo và tấm được dùng
trộn thêm để giảm lượng cá tạp sử dụng. Tuy nhiên gíá thành thức ăn vẫn còn cao
mặc dù áp dụng phương pháp hạ giá này. Phối hợp nguyên liệu làm thức ăn có thể
là cá tạp 70% và cám hoặc tấm 30%.
Một bước phát triển mới trong thời gian gần trong việc cải tiến khẩu phần
ăn của cá chẽm là sử dụng thức ăn ẩm. Tuy nhiên việc sử dụng loại thức ăn này
vẫn còn trong giai đoạn thí nghiệm. Thành phần thức ăn được trình bày ở Bảng
5.2.
Bảng 5.2: Phân phối và khẩu phần thức ăn ẩm.
Thành phần Phần trăm (%)
Bộ t cá 35
Cám 20
Bộ t đậu nành 15
Bộ t bắp 10
Bộ t lá 3
Dầu mực (hoặc dầu cá) 7
Tinh bột khuấy hồ 8
Hỗn hợp Vitamin 2
e. Quản lý lồng cá
Cần phải thường xuyên theo dõi lồng. Do luôn luôn ngập nước, lồng có thể
bị phá hại bởi các động vật thủy sinh như cua, rái cá,... Nếu lồng bị hư hỏng phải
lập tức sửa chữa hoặc thay mới.
Ngoài quá trình bám sinh học, lưới lồng còn là nơi dễ bị kín và lắng đọng
phù sa. Vấn đề này không thể tránh khỏi vì lưới có bề mặt thuận lợi cho các vi
sinh vật lưỡng thê, giun nhiều tơ, động vật chân tơ và nhuyễn thễ bám vào,...
những vật này có thể bám kín lưới làm giảm sự trao đổi nước có thể gây "sốc" cho
cá do oxy hòa tan thấp đồng thời tích tụ những chất cặn bã. Chính vì thế sẽ nh
hưởng đến tính ăn và sức tăng trưởng của cá.
Cho đến việc vệ sinh lưới theo phương pháp cơ học vẫn là phưong pháp
hiệu quả vá rẻ nhất. ở những vùng có nhiều sinh vật gây bám cần sử dụng lồng
lưới luân phiên nhau.
2. Nuôi ao
Mặc dù nuôi cá chẽm đã thực hiện hơn 20 năm qua ở vùng Đông Nam châu
á và châu úc, nhưng vẫn chưa phổ biến trên qui mô sản xuất thương mại. Hiện nay
việc nuôi cá chẽm trong ao nước lợ ở một số quốc gia đã cho thấy có tiềm năng
lớn về thị trường và kh năng lợi nhuận cao. Tuy nhiên, điều này chỉ có thể đạt, nếu
như đáp ứng được những yêu cầu về cung cấp con giống, vị trí thích hợp và trại
giống được thiết kế hoàn chỉnh. Nguồn giống tự nhiên thì rất hạn chế. Cũng giống
như nuôi lồng, đây là một trong những khó khăn cho việc thâm canh hóa nghề
nuôi cá Chẽm trong ao. Tuy nhiên với những thành công trong việc sản xuất cá
chẽm nhân tạo, cung cấp con giống từ nguồn này sẽ lớn mạnh trong tương lai So
sánh tốc độ tăng trưởng của cá nhân tạo và cá giống thu từ tự nhiên khi nuôi trong
ao không thấy sai khác có ý nghĩa. Có hai hệ thống được áp dụng nuôi cá chẽm
trong ao như sau:
Nuôi đơn
Nuôi đơn là hình thức nuôi một đối tượng chẽm. Hệ thống nuôi này có
điểm bất lợi là nó hoàn toàn phụ thuộc vào việc cho ăn bổ sung. Việc sử dụng thức
ăn bổ sung sẽ làm giảm lợi nhuận đến mức tối thiểu, đặc biệt những nơi mà nguồn
cá hạn chế và đắt.
Nuôi ghép
Đây là phương thức nuôi đầy hứa hẹn, trong việc làm giảm sự lệ thuộc của
người nuôi vào nguồn thức ăn cá tạp, nếu không thể hoàn toàn. Phương pháp này
là sự kết hợp đơn giản giữa một loài làm thức ăn với loài cá chính trong ao. Việc
lựa chọn các loài cá làm thức ăn sẽ tuỳ thuộc vào kh năng sinh sản liên tục của
chúng nhằm đạt được số lượng đủ để giữ ổn định sự phát triển của cá chẽm trong
suốt thời gian nuôi. Đối tượng phụ này phải là loài sử dụng thức ăn tự nhiên trong
ao và không cạnh tranh với loài chính về tính ăn như: rô phải (Oreochromis
mossambicus, Oreochromis noloticus,...)
Bảng 5.3: So sánh tốc độ tăng trưởng của cá chẽm (Lates calcarifer) nuôi
trong ao giữa cá giống tự nhiên và cá giống nhân tạo ở mật độ 3 con/m2.
Cá giống tự nhiên Cá giống nhân tạo
Tháng
Chiều Trọng Chiều Trọng
nuôi
dài lưọng dài lượng
Cá 10.5 40.4 5.2 5.0
thả 13.0 88.9 7.6 12.0
Tháng 1 16.4 204 10.6 26.0
tháng 2 20.9 276 15.2 118
Tháng 3 23.4 326 19.5 221
Tháng 4 24.1 385 21.8 281
Tháng 5 28.2 454 23.2 350
Tháng 6
a. Tiêu chuẩn chọn lựa địa điểm nuôi cá Chẽm
Nguồn nước cung cấp: Địa điểm cần có nguồn nước tốt và đầy đủ quanh
năm. Chất lượng nước nuôi cá chẽm bao gồm tất cả các đặc tính thủy lý hóa, vi
sinh. các thông số cho phép như sau:
Thông số Phạm vi cho phép
pH 7.5-8.5
Oxy hòa tan 4-9mg/l
Nồng độ muối 10-30%o
Nhiệt độ 26-32oC
NH3 Nhỏ hơn 1mg/l
H2S 0.3 mg/l
Độ đ ụ c Nhỏ hơn 10 mg/l
Biên độ triều: Vùng tốt nhất cho nuôi cá chẽm nên có biên độ triều vừa
phải từ 2-3m. Với biên độ triều ngay cả ao sâu 1,5m cũng có thể tháo cạn hoàn
toàn khi triều xuống hay cấp nước dễ dàng khi triều lên.
Địa hình: Vị trí nuôi sẽ có nhiều thuận lợi nếu như lập được bn đồ địa hình,
điều đó giúp gim chi phí trong điều hành và phát triển sản xuất, như bơm nước.
Đất: Địa điểm lý tưởng cho ao nuôi là nơi đất có thành phần sét đầy đủ để
đm bo giữ được nước cho ao. Cần tránh những vùng bị nhiễm phèn.
Giao thông: Giao thông là vấn đề quan trọng cần xem xét trong việc chọn
địa điểm nuôi bởi những hệ quả của nó. Chi phí cao và sự chậm trễ trong việc vận
chuyển nguyên liệu và sản phẩm sẽ được giảm xuống đến mức tối thiểu nếu như
có được vị trí giao thông thuận tiện.
Ngoài ra, một số yếu tố khác như kh năng về lao động, trợ giúp kỹ thuật, kh
năng về thị trường và điều kiện xã hội thích hợp cũng cần được xem xét khi chọn
lựa vị trí.
b. Thiết kế và xây dựng ao
Ao nuôi cá Chẽm thường có hình chữ nhật với kích cỡ 2.000m2 đến 2ha,
sâu từ 1,2-1,5m. Mỗi ao cần có cống cấp và tiêu nước riêng để thuận tiện cho việc
thay đổi nước. Đáy ao bằng phẳng và dốc về cống thoát nước (hình 23).
c. Chuẩn bị ao
Chuẩn bị ao nuôi thịt bao gồm các bước những chuẩn bị hệ thống nuôi.
Trong nuôi đơn sau khi bón vôi trung hòa môi trường thì tiến hành lấy nước đầy
ao và thả cá nuôi ngay.
Đối với nuôi ghép, sau khi bón vôi trung hòa môi trường thì bón vôi hữu cơ
(phân gà) với tỷ lệ một tấn/ha. Tiếp đó, tăng mức nước dần lên để thức ăn tự nhiên
phát triển. Khi thức ăn tự nhiên phát triển nhiều thì th cá rô phải bố mẹ vào với
mật độ 5.000-10.000 con/ha. Tỷ lệ đực : cái là 1:3. Cá rô phải nuôi trong ao từ 1-2
tháng hoặc đến khi cá con xuất hiện nhiều thì th cá Chẽm giống vào ao nuôi.
Cá Chẽm giống nuôi với kích cỡ 8-10 cm th vào ao nuôi thịt với mật độ
10.000-20.000 con/ha trong ao nuôi đơn và 3.000-5.000 con/ha cho ao nuôi ghép.
Trước khi th cá giống phải thuần hóa chúng dần với nồng độ muối và điều kiện ao
nuôi. Cá thả nuôi tốt nhất nên có kích thước đồng đều và thả cá vào lúc trời mát.
d. Quản lý ao
Do phải duy trì thức ăn tự nhiên trong ao nên cần hạn chế sự thay đổi nước
cho ao nuôi theo dạng kết hợp. Định kỳ 3 ngày thay một lần với lượng khoảng
50%. Tuy nhiên trong ao nuôi đơn do có cung cấp thức ăn hàng ngày, thức ăn dư
thừa sẽ gây cho nước nhiễm bẩn, vì vậy cần phải cung cấp nước thêm hàng ngày.
e. Thức ăn và cách cho ăn
Trong ao nuôi ghép không cần phải bổ sung thức ăn, nhưng ao nuôi đơn thì
phải cho ăn hàng ngày. Phương pháp cho ăn trong ao nuôi cũng giống như trong
nuôi lồng.