TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Khoa Sử - Lớp: Sử- GDQP(3b)
9
Bài Thi 30% Môn Lịch sử thế giới hiện đại (HP2)
ĐỀ TÀI:
Giảng viên hướng dẫn: GV. Lê Phụng Hoàng
Nhóm sinh viên thực hiện: Lê Văn Trường
Mã số sinh viên: K33.610.091
Thanh phố Hồ Chí Minh, tháng 11/2009.
Baøi taäp 30% moân LSTGHÑ (Hp2) Leâ Vaên Tröôøng
Mục Lục
Mục Lục.....................................................................................2
Dẫn nhập...................................................................................3
Nội dung....................................................................................4
I) Con đường dẫn Nichxon tiếp tục trên con đường chính trị......4
II) Thực hiện chủ nghĩa Nichxon với chiến lược co lại.................5
II.1) Nichxon bước chân vào Nhà Trắng..................................5
II.2) “Một tuần lễ thay đổi thế giới”.........................................9
III) Vụ Watergate và việc Nichxon từ chức...............................11
Kết luận:..................................................................................14
Tài liệu tham khảo...................................................................15
Trang 2
Baøi taäp 30% moân LSTGHÑ (Hp2) Leâ Vaên Tröôøng
Dẫn nhập
Richard Nixơn chính khách Hoa Kỳ, đảng viên Đảng Cộng Hòa, Tổng thống Mỹ
năm 1969, Tổng thống thứ 37 của nước Mỹ, năm 1972, được bầu lại, nhưng phải từ chức
năm 1974 do vụ bê bối “Watergate”. Ong có chính sách ngoại giao khôn khéo để tăng sức
mạnh của Mỹ mà theo ông đó là “thêm bạn bớt thù” đặc biệt là với các nước thuộc thế
giới ba và Trung Quốc.
Việc tìm hiểu về Nichxon trong thời gian đương nhiệm tại Nhà Trắng sẽ góp phần
tìm hiểu được chính sách của Hoa Kỳ với các nước trên thế giới và có thể gắn với tìm
hiểu lịch sử Việt Nam trong thời kỳ này. Để chúng ta có cái nhìn đúng hơn, đầy đủ hơn,
toàn diện hơn về chính sách ngoại giao của Mỹ trong thời kỳ trên. Góp phần vào việc
hoạch định chính sách ngoại giao giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.
Người thực hiện
Trang 3
Baøi taäp 30% moân LSTGHÑ (Hp2) Leâ Vaên Tröôøng
Nội dung
I) Con đường dẫn Nichxon tiếp tục trên con đường chính trị.
Năm 1968, là năm tuyển cử của nước Mỹ tới, Tổng thống Johnson đã gặp phải
cảnh ngộ cô lập cả trong lẫn ngoài, sa
lầy trong chiến tranh Việt Nam, tình hình
chính trị – xã hội trong nước thì bất ổn.
Trong chiến tranh Việt Nam, năm 1968 là
năm mà phía Việt Nam dân chủ cộng hòa
quyết định mở cuộc “tổng công kích –
tổng khởi nghĩa” diễn ra trong ba đợt: 30-
1 đến 25-2, 5-5 đến 15-6, 17-8 đến 30-9.
Đây là đòn bất ngờ làm cho Mỹ choáng
váng. Tuy mục đích của cuộc tổng công
kích từ phía Việt Nam không đạt được
nhưng nó đã làm thất bại chiến lược
“chiến tranh cục bộ” mà Johnson là
người chủ trương thực hiện ở Việt Nam.
Tương lai về một chiến thắng ở Việt
Nam dường như bị khép kín mà E.
Kennơđi đã phải than thở: “Ngọn lửa kháng chiến của người Việt Nam đang châm ngòi
cho ngọn lửa nổi loạn trên chính đất nước Mỹ”(1). Cộng thêm vào đó là tình hình nước Mỹ
đang là áp lực với Johnson: lạm phát gia tăng ngày một nghiêm trọng, tình hình phát triển
kinh tế bị giảm sút, “kế hoạch phúc lợi khổng lồ “Xã hội vĩ đại” đã trở thành một lời hứa
suông, chỗ nào cũng là không khí tràn đầy thất vọng, sợ hãi, giận dữ và nghi ngờ. Làn sóng
chống đối, xung đột bạo lực không ngừng bùng nổ và một loạt ám sát nghe rợn cả người,
đã đẩy đất nước đến bên bờ nguy hiểm của sự hỗn loạn” (2). Nói về tình hình nước Mỹ lúc
này đúng là một trở ngại đối với Johnson, vụ người da màu, lãnh tụ của phong trào dân
quyền nổi tiếng Jr. King bị ám sát vào ngày 4-4-1968 đã tạo lên sự bạo loạn chủng tộc
trong một không gian rộng lớn làm 39 người bị chết. Bầu không khí căng thẳng ấy đã làm
cho Nhà Trắng lúc nào cũng trong tình trạng phòng vệ tối đa.
1()
(
Nguyễn Anh Thái, Lịch sử thế giới hiện đại, NXB Giáo Dục, năm 2008, tr 291
2()
(
Lý Thắng Khải, Nội tình 200 năm Nhà Trắng, NXB CAND và NXB VHTT, năm 2004, tr
571.
Trang 4
Baøi taäp 30% moân LSTGHÑ (Hp2) Leâ Vaên Tröôøng
Ngày 31-3-1986, Johnson tuyên bố không ra tranh cử Tổng thống nhiệm kỳ thứ
hai(3). Trong Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng Dân Chủ tại Chicago (tháng 8 năm
1986) mặc dù bên ngoài hội trường được canh phòng cẩn mật nhưng Johnson tuyên bố
không tham gia Đại hội để tránh kích thích làn sóng chống Chính phủ của quần chúng. Kết
quả của Đại hội là đề cử Hubert Humphrey làm ứng cử viên Tổng thống của Đảng Dân
Chủ.
Trong bối cảnh ấy thì Nichxon lại được Đảng Cộng Hòa đề cử làm ứng cử viên
Tổng thống của Đảng Cộng Hòa. Để được là ứng cử viên của Đảng Cộng Hòa Nichxon đã
chiến thắng đối thủ tranh cử chủ yếu là Nelson. Rockefeller, Thống đốc bang New York.
Tiếp đó tại Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng Hòa tại Miami, ông đã giành
thắng lợi trong vòng bỏ phiếu đầu tiên.
Theo công bố kết quả bỏ phiếu ngày 5 tháng 11 cho thấy, Nichxon thắng lợi ở 32
bang, được 301 phiếu đại cử tri, Humphrey thắng lợi ở 13 bang, được 191 phiếu đại cử tri,
ngoài ra còn có 46 phiếu đại cử tri dành cho George. Wallace ở 5 bang.. nhưng số phiếu
của cử tri bầu cho hai ứng cử viên của hai đảng lớn vô cùng sát nhau, Nichxon chỉ cao hơn
Humphrey với tỉ lệ là 0.7%(4). Thế là sau 8 năm, nguyện vọng của Nichxon mới thành hiện
thực, ông đã bước chân vào Nhà Trắng với chức danh Tổng thống, chức danh mà 8 năm
trước Kennedy giành thắng lợi với ông.
Ngày 20-1-1969, Nichxon nhậm chức Tổng thống đời thứ 37 của nước Mỹ, trong
diễn văn nhậm chức, Nichxon kêu gọi ngừng mọi tranh cãi về vấn đề Việt Nam bởi nó chỉ
làm cho tình hình nước Mỹ thêm hỗn loạn. Nichxon biểu thị là sẽ xây dựng chính phủ mới
và ra sức tìm kiếm “hòa bình cho thế giới”.
Sau đó, Nichxon đi vào cải cách lại cơ cấu nội các theo quan điểm của ông là mọi
việc đều cần có người chịu trách nhiệm nhưng Tổng thống mới là người quyết định cao
nhất. Thực chất là chính sách tập trung quyền lực vào tay Tổng thống của Nichxon.
II) Thực hiện chủ nghĩa Nichxon với chiến lược co lại
II.1) Nichxon bước chân vào Nhà Trắng
Ngay khi bước chân vào Nhà Trắng, Nichxon phải đối mặt với tình hình nghiêm
trọng mà người Mỹ chưa từng gặp trong lịch sử: nước Mỹ đã từ thời thịnh vượng sau
chiến tranh nhanh chóng bước sang suy yếu; Liên Xô quật khởi, thế cân bằng hai cực đã
3()
(
Đại cương lịch sử Việt Nam tập III, NXB Giáo Dục, năm 2006, tr 212.
4()
(
Lý Thắng Khải, Nội tình 200 năm Nhà Trắng, NXB CAND và NXB VHTT, năm 2004,
tr 573.
Trang 5
Baøi taäp 30% moân LSTGHÑ (Hp2) Leâ Vaên Tröôøng
phát sinh những thay đổi không có lợi cho Mỹ; kinh tế Nhật Bản và Tây Au phát triển
nhanh chóng, khuynh hướng ly tâm về chính trị đối với nước Mỹ tăng lên, Trung Quốc và
các nước thế giới thứ ba khác ngày càng đi lên, phát huy tác dụng ngày càng lớn trong công
việc thế giới. Tình hình này đã làm cho chiến lược bành chướng toàn cầu của Mỹ gặp
phải những khó khăn cực lớn(5). Biểu hiện cụ thể là:
Thứ nhất, cuộc chiến tranh Việt Nam đã làm cho nước Mỹ phải hi sinh một khối
lượng lớn của cải và hàng ngàn sinh mệnh. Quân đội Mỹ mất khoảng 46.000 quân, bị
thương hơn 300.000 và chi phí trực tiếp cho cuộc chiến lúc này lên tới 140 tỷ USD. Trong
khi quân Mỹ vào năm 1968 vẫn còn 550.000 người. Cộng thêm vào đó là “sứ mệnh lịch sử
của nước Mỹ” đã đặt hơn 1 triệu đóng ở các căn cứ quân sự ở các đại lục Á, Au và các
đảo lân cận, 300.000 hải quận Mỹ đang lênh đênh trên các tàu bè ngoài xa bờ biển của
nước Mỹ. Thực hiện nghĩa vụ “bảo vệ” của mình Mỹ đã đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ
của hơn 40 nước và vùng lãnh thổ.
Sa lầy trong chiến tranh Việt Nam, thất bại trong lý tưởng “bảo vệ thế giới”. Yếu
tố này làm cho nước Mỹ rơi vào cảnh hỗn loạn, nghi ngờ vào chính phủ. Các cuộc biểu
tình nổ ra liên miên chỉ mong dừng mọi hoạt động chiến tranh ở Việt Nam bởi ngay từ đầu
cuộc chiến tranh này đã không được lòng người ở nước Mỹ. Có cuộc biểu tình lên tới
1.000.000 người yêu cầu “lập tức đình chỉ cuộc chiến tranh Việt Nam”. Có khi những cuộc
biểu tình quá khích thành cuộc bạo loạn đốt cả trụ sở ngân hàng tại bang California của
sinh viên trường đại học California.
Một không khí “chạy trốn” của thanh niên Mỹ bởi họ muốn chốn lính. Có người
nói: chúng tôi không muốn làm con dao trong tay Chính quyền này để sát hại những người
dân vô tội mà chúng tôi không hề biết họ và thù hằn gì với họ. Bởi vậy làn sóng chốn
nghĩa vụ của Mỹ tăng đột biến. Theo thống kê, tỷ lệ trốn lính năm 1970 cao tới 53%, cao
hơn tỷ lệ trốn lính trong thời kỳ chiến tranh thế giới, số người bị quy là chốn lính lên tới
100.000 người.
Trước tình hình đó Nichxon cũng nghĩ tới việc rút khỏi chiến tranh Việt Nam nhưng
cần phải rút trong danh dự. Bởi thế ngay trong
diễn văn phát biểu sau khi được đề cử làm Tổng
thống Nichxon nói: “Một nhiệm vụ cấp bách của
Chính phủ chúng ta là làm cho cuộc chiến tranh
Việt Nam kết thúc một cách có thể diện”. Thực
chất là chính phủ Mỹ đã dường như không tìm
5()
(
Lý Thắng Khải, Nội tình 200 năm Nhà Trắng, NXB CAND và NXB VHTT, năm 2004,tr
575.
Trang 6
Baøi taäp 30% moân LSTGHÑ (Hp2) Leâ Vaên Tröôøng
thấy hy vọng chiến thắng ở chiến trường Việt Nam, quan điểm của Nichxon là: “Tôi rút ra
được kết luận, không có cách gì đánh thắng được cuộc chiến tanh này”. Từ quyết định ấy
thì từ khi lên nắm chính quyền Nichxon dần cho giảm tỷ lệ quân nhân Mỹ hiện diện trên
chiến trường Việt Nam với mục đích thay đổi màu da trên xác chết. Một quyết định khôn
khéo với nội tình nước Mỹ nhưng lại bị các lực lượng tiến bộ lên tiếng phản đối.
Thứ hai, trong lúc nước Mỹ đang vướng bận với nghĩa vụ “bảo vệ thế giới” của
mình thì Liên Xô đã có thời gian phát triển tiềm lực quân sự của mình, tăng nhanh sản xuất
vũ khí hạt nhân.
Số tên lửa đạn đạo vượt đại châu của Mỹ và Liên Xô
Liên Xô Mỹ
Năm 1965 270 854
Năm 1969 1.000 1.054
Năm 1970 1.300 1.054
Theo bảng thống kê thì đến năm 1970 số lượng tên lửa đạn dạo của Mỹ không tăng
trong khi của Liên Xô tăng lên 1.300 vượt Mỹ 23%. Còn về phương diện vũ khí thông
thường thì từ lâu Liên Xô đã vượt Mỹ. Với điều kiện đó Liên Xô tiến hành gây ảnh hưởng
ở khu vực Trung Đông, Châu Au, Châu Á. Trong bài nói chuyện vào tháng 7 năm 1971,
Nichxon phải thừa nhận rằng: Liên Xô đã trở thành người cạnh tranh vô cùng lớn mạnh và
hùng hổ hăm dọa đối với nước Mỹ, cấu thành “sự đe dọa lớn nhất” trước dã tâm xưng bá
thế giới của Mỹ.
Thứ ba, mâu thuẫn giữa Mỹ và các nước đồng minh sau chiến tranh càng trở thành
vấn đề được quan tâm. Bởi sau chiến tranh Mỹ với địa vị là nước “viện trợ” cho các nước
Tây Au và Nhật Bản. Nhưng từ những năm 60 của thế kỷ này thì các nước Tây Au và
Nhật Bản dần vươn lên về kinh tế. Điều đó, lại đe dọa đến vị trí đứng đầu của Mỹ. Như
Pháp sau khi đã phục hồi nền kinh tế, De Gaulle lên nắm quyền và thi hành chính sách
ngoại giao độc lập tự chủ. Tháng 1 năm 1964, Pháp thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung
Quốc. Năm 1966, Pháp rút ra khỏi khối NATO. Như thế thì mỹ không còn ở địa vị thống
chế của Pháp nữa. Cũng như Pháp, Chính phủ Tây Đức bắt đầu thiết lập quan hệ với các
nước Đông Au để giải quyết vấn đề Berlin. Về vấn đề Tây Đức đã đặt Mỹ trước bước đi
là phải bắt tay với Liên Xô nhằm giữ vững địa vị của mình trên trường quốc tế và còn vì
Mỹ không muốn Tây Đức lại tiếp tục theo con đường của Pháp tách ra khỏi sự ràng buộc
của Mỹ.
Trang 7
Baøi taäp 30% moân LSTGHÑ (Hp2) Leâ Vaên Tröôøng
Thứ tư là sự vươn lên của các nước thuộc thế giới thứ ba và Trung Quốc. Vấn đề
này đã làm Mỹ dần thất bại trong chiến lược toàn cầu của mình. Mỹ cần có một chính
sách nhanh chóng với các nước này.
Thứ năm là địa vị kinh tế của Mỹ đã bị xuống thấp. Gánh nặng quân sự ở Việt Nam
cũng như trên các căn cứ khác trên thế giới đã lấy đi một khoản ngân sách khổng lồ của
Mỹ, nền kinh tế của Mỹ bị suy yếu trầm trọng. Chính phủ Nichxon ngừng đổi đôla ra
vàng, đồng thời tuyên bố đồng đôla mất giá. Động thái này đã dẫn đến hậu quả là đồng
đôla không còn là đồng tiền dùng làm tỷ suất trao đổi tiền tệ nữa. Đó là một tiêu chí cho
thấy nền kinh tế Mỹ đã suy thoái trầm trọng so với trước chiến tranh.
Nhìn chung, Nichxon bước chân vào Nhà Trắng mà phải giải quyết hàng loạt vấn
đề nan giải đó quả là một công việc đầy áp lực. Nghĩa vụ quốc tế của Mỹ không được
hoàn thành nên cần phải có biện pháp rút lui an toàn, nên cần phải công nhận thành quả
phấn đấu của các nước. Như lời Nichxon: “Xét từ góc độ kinh tế, nước Mỹ không là quốc
gia đứng đầu thế giới nữa, và cũng không chỉ còn có hai siêu cường… Ngày nay trên thế
giới có 5 trung tâm lực lượng mới. Đó là: Mỹ, Tây Au, Liên Xô, Đại lục Trung Quốc, tất
nhiên là còn có Nhật Bản. Năm lực lượng này sẽ quyết định tiền đồ của thế giới trong
thời gian một phần ba cuối cùng của thế kỷ này”.
Trang 8
Baøi taäp 30% moân LSTGHÑ (Hp2) Leâ Vaên Tröôøng
II.2) “Một tuần lễ thay đổi thế giới”
Về vấn đề liên quan tới Trung Quốc, Nich xon luôn có cái nhìn đầy tận trọng và
cần phải quan tam gấp rút. Vì thế, trong thư gửi cho Kissinger, Nichxon chủ trương
khuyến khích Chính phủ thăm dò khả năng cải thiện quan hệ với Trung Quốc. Sau sự kiện
đảo Trân Bảo (Damasky), Tháng 7 năm 1969, Mỹ tuyên bố nới lỏng hạn chế việc đi lại và
trao đổi mậu dịch giữa nhân viên Trung Mỹ.
Ngày 3 tháng 12, trong triển lãm thời trang của Nam Tư tại cung văn hóa Varsawa,
phía Mỹ hy vọng được hội đàm nghiêm chỉnh với Trung Quốc.
Sang tháng 12 khi biết tín hiệu của Mỹ, phía Trung Quốc, đứng đầu là Chu An Lai
chỉ thị cho các quan chức ngoại giao Trung Quốc ở Ba Lan nói với đại sứ Mỹ ở đó rằng có
thể mời ông ta đến làm khách ở sứ quán Trung Quốc.
Ngày 20 tháng 1 năm 1970, hội nghị cấp đại sứ Trung Mỹ ở Varsawa bị ngừng
nhiều năm đã họp lại. Cả hai phía đều tỏ ý muốn tổ chức các chuyến thăm mang tính quốc
gia.
Tháng 8 năm 1970, nhà văn Mỹ Edgar. Snow đến Bắc Kinh
và được Mao Trạch Đông đón tiếp với như khách quý. Trước
thiện tình của Trung Quốc Nichxon đã nói: “Nếu như trước khi
chết tôi còn việc gì muốn làm thì đó là đi Trung Quốc, Nếu tôi
không đi được, thì tôi muốn các con tôi sẽ đi”. Tiếp tục là các hoạt
động ngoại giao bằng “miệng” của Trung Quốc và Mỹ thông qua
Pakistan thì quan hệ Trung Mỹ dần được cải thiện. Ngày 20 tháng
4 năm 1971, Nichxon tuyên bố nới lỏng mức độ lớn cấm vận mậu
dịch với Trung Quốc từ hơn 20 năm. Cùng thời gian này thì cuộc
“ngoại giao bóng bàn” được tổ chức tại Đại lễ đường nhân dân (Trung Quốc) thì phía
Trung Quốc trực tiếp mời Chính phủ Mỹ cử đại diện chính thức sang thăm Trung Quốc.
Đáp lại lời mời ấy thì Nichxon cử Kissinger sang thăm Trung Quốc nhưng lại là chuyến đi
bí mật.
Đến ngày 17 tháng 2 năm 1972, đoàn Nichxon rời Washington, bắt đầu “một cuộc
lữ hành tìm kiếm hòa bình”. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Tổng thống Hoa Kỳ đương
chức tới thăm Trung Quốc. Ngày 21 đoàn tới Bắc Kinh. Ngay chiều hôm đó đã diễn ra
cuộc gặp lịch sử giữa Mao Trạch Đông và Nichxon. Hai bên đã có một buổi nói chuyện
thân tình chứ không còn vẻ đối địch nữa. Nhưng thực chất là cả hai bên đều muốn nhân
dịp này mà giành lại quyền lợi cho mình. Phía Trung Quốc thì muốn thăm dò Mỹ về vấn
Trang 9
Baøi taäp 30% moân LSTGHÑ (Hp2) Leâ Vaên Tröôøng
đề Đài Loan, còn phía Mỹ thì muốn nhân cơ hội này thiết lập quan hệ ngoại giao thân
thiện càng sớm càng tốt.
Qua nhiều lần trao đổi ý kiến thì đến ngày 28 tháng 2, hai bên Trung Mỹ đã ký kết
Thông cáo chung Thượng Hải (1972). Bản thông cáo có nói rõ rằng tuy hai bên Trung Mỹ
có khác nhau về thể chế chính trị nhưng nó không phải là cản trở với nhu cầu ngoại giao
của hai bên. Thông cáo có ghi: “Chế độ xã hội và chính sách ngoại giao của hai miền Trung
Mỹ có sự khác biệt về bản chất. Nhưng hai bên đồng ý, bất kể chế độ xã hội như thế nào,
đều căn cứ vào nguyên tắc tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ các nước, không xâm
phạm nước khác, không can thiệp vào công việc nội bộ nước khác, bình đẳng cùng có lợi,
chung sống hòa bình để xử lý quan hệ giữa nước này và nước khác”(6).
Như vậy, trong khoảng một tuần lễ mà hai bên Trung Mỹ đã chính thức đặt dấu
mốc quan trọng trong quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Trong bữa tiệc cuối cùng trước
khi kết thúc chuyến thăm Trung Quốc của mình Nichxon đã gọi tuần lễ vừa qua là “một
tuần lễ làm thay đổi thế giới”.
6()
(
Lý Thắng Khải, Nội tình 200 năm Nhà Trắng, NXB CAND và NXB VHTT, năm 2004, tr
587.
Trang 10
Baøi taäp 30% moân LSTGHÑ (Hp2) Leâ Vaên Tröôøng
III) Vụ Watergate và việc Nichxon từ chức.
Năm 1972, do thắng cử nhiệm kỳ thứ
hai, Nichxon tiếp tục làm Tổng thống Mỹ
một khóa nữa. Tuy vậy, vui mừng chưa được
bao lâu thì Nichxon bị vụ Watergate làm cho
ông ta nghẹt thở trên con đường chính trị. Nó
làm cho Nichxon nuốt giận đến suốt đời.
Ngày 17 tháng 6 năm 1972, do có lệnh
của Nichxon, 5 người thuộc Nhà Trắng đã lẻn
vào Tổng bộ ủy ban toàn quốc của Đảng Dân
Chủ tại khách sạn Watergate để lắp đặt máy
nghe trộm và đã bị bắt. Trong đó có:
1. James.Mc Cord, cố vấn an ninh của “Uy
ban giành sự liên nhiệm cho Tổng
thống Nichxon” thuộc Đảng Cộng
Tranh biếm họa vụ việc
Hòa.
Watergate
2. Luật sư Godehn-Riddi thuộc “Uy ban tài chính tranh cử” của Đảng Cộng Hòa.
3. Howard. Hent nguyên cố vấn Nhà Trắng và còn có hai nhân vật nữa không được
tiết lộ.
Dựa vào vụ việc này thì Đảng Dân Chủ muốn hạ gục Nichxon, ứng viên của Đảng
Cộng Hòa. Nhưng phát ngôn viên của Nhà Trắng thì nói: đó chỉ là trò đùa, không có gì phải
xem xét. Đảng Dân Chủ không có chứng cớ, không thể kết luận cho Nichxon một cái tội
không có như thế được. Vụ việc Watergate đã được xử cho xong chuyện, không rõ ràng.
Kết quả là, Nichxon tiếp tục thắng cử trong nhiệm kỳ hai. Nhưng đầu năm 1973 thì
vụ việc Watergate lại được xử lại với chứng cứ mới do Mc. Cord sợ bị xử tù giam lâu nên
đã vội khai ra chân tướng vụ việc. Ngày 17 tháng 4 năm 1973, Nichxon chính thức nhận
trách nhiệm về vụ việc Watergate. Ngày 30 tháng 4, Nichxon trên truyền hình đã nhận
trách nhiệm của mình tới vụ việc Watergate nhưng lại phủ nhận mình có liên quan tới vụ
việc này.
Trước những chứng cứ do Uy ban điều tra sự kiện Watergate đưa ra thì Nichxon đã
phải im lặng nghe dư luận phán xét. Trong các bằng chứng có chỉ ra rằng, năm 1970,
Nichxon đích thân tự phê chuẩn một kế hoạch tình báo, yêu cầu sử dụng kiểm tra bưu
điện qui mô lớn, nghe, xem trộm điện thoại điện báo và ăn cắp tư liệu nhằm thuận tiện
Trang 11
Baøi taäp 30% moân LSTGHÑ (Hp2) Leâ Vaên Tröôøng
trong việc thu được những tin tình báo của cá nhân hoặc tập đoàn bị cho là tạo thành mối
đe dọa với quốc gia; năm 1971, thành lập tiểu tổ “công tác đường ống” trong Nhà Trắng,
tiến hành thu thập kiểm tra bí mật văn phòng của bác sĩ tâm thần Daniel. Elsberg, người
tiết lộ tài liệu của Lầu năm góc, các trợ thủ của Nichxon đã lập “danh sách kẻ địch” để
quấy nhiễu họ.
Đặc biệt là báo cáo của Alexander. Butterfield, nguyên trợ thủ Nhà Trắng, ông ta
nói rằng tất cả các cuộc họp bí mật trong căn phòng bầu dục đều được Nichxon ghi âm
lại.
Thế là Uy ban điều tra sự kiện Watergate yêu cầu Nichxon công bố các cuốn băng
ghi âm trên nhưng Nichxon trối quanh co không chịu giao những cuốn băng ấy.
Đến ngày 26 tháng 7, sau khi Quốc hội yêu cầu Nichxon nộp những cuốn băng ghi
âm thì Nichxon lại quay sang đòi cách chức kiểm sát viên đặc biệt Cawks. Và việc làm này
của Nichxon làm cho dư luận Mỹ phải xôn xao. Báo giới gọi đây là “cuộc tàn sát lớn ngày
thứ bảy” (vì sự kiện này diễn ra vào ngày thứ bảy). Tiếp đến là việc Nichxon công bố
đoạn băng ghi âm bị cắt 18 phút. Dư luận lại phải đặt dấu hỏi cho sự trong sạch của
Nichxon mà ông vẫn cố khẳng định. Uy tín của Nichxon và của Nhà Trắng với công dân
Mỹ bị xuống thấp nghiêm trọng. Tiếng yêu cầu vạch tội Nichxon ngày một lên cao.
Ngày 24 tháng 7, Tòa án tối cao bắt đầu khởi tố Nichxon. Hành động này là một đòn
chí mạng với Nichxon mà như các báo có ghi là hành động này của Tòa án tối cao “giơ cao
mà không đánh khẽ”. Phiên tòa xử Nichxon được truyền hình trực tiếp, hàng ngàn người
Mỹ theo dõi buổi truyền hình. Trong đó cũng có những người mong xóa sạch tội lỗi cho
Tổng thống Nichxon, nhưng số đó vào thời điểm này chỉ còn là thiểu số.
Ngày 4 tháng 8, Uy ban Tư pháp của Hạ nghị viện đưa ra báo cáo vạch tội Tổng
thống Nichxon với tội danh là Nichxon trong sự kiện Watergate đã “cản trở hoạt động tư
pháp”. Như vậy, Nichxon đứng trước hai lựa chọn: hoặc là lập tức từ chức, hoặc là chờ
sau khi Hạ nghị viện biểu quyết. Sau khi tìm hiểu thái độ của Đảng Cộng Hòa và Thượng
nghị viện thì Nichxon cảm thấy không còn chỗ dựa nên đã quyết định từ chức và ngày 8
tháng 8 trên truyền hình, Nichxon tuyên bố quyết định từ chức của ông. Trưa ngày 9 tháng
8, đơn từ chức của Nichxon được thông qua.
Vụ việc Watergate đã làm cho Nichxon mất chức nhưng đồng thời cũng làm cho uy
tín của Nhà Trắng bị trao đảo trong hai năm. Nhiều lời bình luận cho rằng vụ việc này đã
vạch rõ bộ mặt chính trị đen tối của hậu trường nước Mỹ, “khiến người đời nhìn thấy ông
chủ Nhà Trắng (Nichxon) chỉ là một phần tử phạm tội không coi hiến pháp và pháp luật ra
Trang 12
Baøi taäp 30% moân LSTGHÑ (Hp2) Leâ Vaên Tröôøng
gì, không có đạo đức và tín nghĩa” . Trên thực tế thì vụ việc này còn để lại nhiều tranh cãi
(7)
cho đến ngày nay.
Nichxon tuyên bố mình vô tội cho đến khi ông qua đời vào năm 1994.
7
Lý Thắng Khải, Nội tình 200 năm Nhà Trắng, NXB CAND và NXB VHTT, năm 2004,
tr. 595
Trang 13
Baøi taäp 30% moân LSTGHÑ (Hp2) Leâ Vaên Tröôøng
Kết luận:
Ngay từ khi Nichxon bước chân vào Nhà Trắng thì hàng loạt vấn đề bức thiết của
nước Mỹ được đặt ra. Nhưng trong nhiệm kỳ đầu tiên của mình, Nichxon đã giải quyết
được một số vấn đề như vấn đề đặt lại quan hệ với Trung Quốc. Tuy nhiên, vẫn còn một
số vấn đề nam giải như vấn đề chiến tranh Việt Nam hay vấn đề an sinh xã hội cho người
thất nghiệp tại Mỹ… Đến năm 1972, ngay từ đầu năm thì ưu thế về việc Nichxon thắng
cử nhiệm kỳ hai trong tầm tay, thì chính lúc này lại làm Nichxon vướng vào một vụ việc
mà cũng vì nó Nichxon phải bỏ dở nhiệm kỳ thứ hai của mình, vụ Watergate. Nhiều ý kiến
cho rằng Nichxon là người phải chịu trách nhiệm trong sự kiện này, ông là một vị Tổng
thống không có đạo lý, chính nghĩa và chữ tín. Ngược lại cũng có ý kiến cho rằng đây chỉ
là biểu hiện của sự tranh dành quyền lực giữa hai tập đoàn quyền thế miền Đông và miền
Tây. Cuối cùng thì vụ việc này vẫn còn để lại nhiều tranh cãi trong giới sử học, chính trị
học.
Nichxon rời Nhà Trắng vào ngày 9 tháng Tám năm 1974. Nichxon và vợ của ông
cùng nhau lên chiếc trực thăng bay về Andrews và Nichxon đã viết lại rằng: “Khi máy bay
trực thăng chuyển sang Andrews, tôi thấy mình không phải suy nghĩ về quá khứ. Nhưng
trong tương lai tôi có thể làm gì bây giờ?...”(8)
Thông qua đây chúng ta cũng hiểu hơn về vị Tổng thống thứ 37 của nước Mỹ,
Nichxon trong thời gian ông giữ chức Tổng thống tại Nhà Trắng. Một vị Tổng thống khôn
khéo trong mọi tình huống và ông đã phải trả giá cho việc tranh giành quyền lực của mình.
8
http://en.wikipedia.org/wiki/Watergate
Trang 14
Baøi taäp 30% moân LSTGHÑ (Hp2) Leâ Vaên Tröôøng
Tài liệu tham khảo
Nguyễn Anh Thái (chủ biên), Lịch sử thế giới hiện đại, NXB Giáo Dục, năm 2008
Lý Thắng Khải, Nội tình 200 năm Nhà Trắng, NXB CAND và NXB VHTT, năm
2004
Lê Mậu Hãn (chủ biên), Đại cương lịch sử Việt Nam tập III, NXB Giáo Dục, năm
2006
Http://en.wikipedia.org/wiki/Watergate
Trang 15