NHỮNG TIỀN ĐỀ CHUNG CỦA QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH NỀN VĂN MINH
NHÂN LOẠI
1.1. Những dấu hiệu văn minh trong thời kì công xã nguyên thuỷ
Tuy các học giả đều thống nhất với nhau, khi xuất hiện các nhà nước đầu tiên
trên trái đất này thì lúc đó mới có thể nói loài người đã bước vào xã hội văn minh.
Nhưng như ta đã thống nhất ở trên “Văn minh là để chỉ giai đoạn phát triển cao của
văn hoá cũng như hành vi hợp lí của con người”. Vì vậy, ngay từ thời kì nguyên thuỷ,
tuy chưa có thể gọi là xã hội văn minh nhưng con người thời kì đó đã có những biểu
hiện tiến bộ, hợp lí, đặt tiền đề cho sự hình thành các nền văn minh nhân loại sau này:
Việc tìm ra lửa đánh dấu một bước tiến nhảy vọt trong lịch sử loài ngưòi, giúp con
người mạnh hơn hẳn các loài động vật khác. Lửa giúp con người chiến thắng thú dữ,
nướng chín thức ăn, làm đồ gốm, chinh phục các rừng cây để làm đất trồng trọt ...và
sau này là nghề luyện kim .
- Từ chỗ sống theo bày đàn tiến lên xây dựng tổ chức công xã thị tộc, đó là một
tổ chức hợp lí đầu tiên về mặt xã hội. Đối với lịch sử loài người, đây là một bước
tiến lớn.
- Phân công lao động giữa trồng trọt và chăn nuôi, giữa nông nghiệp với thủ
công nghiệp. Đây là một sự sắp xếp hợp lí, tiện lợi, tạo điều kiện cho việc chuyên
môn hoá trong xã hội văn minh sau này.
- Sự xuất hiện cung tên cũng là một bước tiến lớn. Đây là một loại vũ khí phức
tạp đòi hỏi phải tích luỹ kinh nghiệm, trí tuệ sắc sảo và kĩ năng khéo léo.
- Hôn nhân cũng có một bước tiến lớn từ tạp giao, đồng huyết đến hôn nhân
theo gia đình ổn định. Đó là sự tích luỹ kinh nghiệm nhiều đời để tránh hiện tượng
đồng huyết, tăng sức sống cho thế hệ sau.
- Tôn giáo nguyên thuỷ xuất hiện cũng là một bước tiến lớn về mặt tinh thần.
Tín ngưỡng tô tem, việc thờ cúng tổ tiên là những biểu hiện giá trị tinh thần quan
trọng của con người nguyên thuỷ.
- Nghệ thuật nguyên thuỷ cũng là một biểu hiện phát triển văn hoá quan trọng,
nó thể hiện cách nhìn của người xưa bằng những hình tượng cụ thể đối với thế giới
bên ngoài.
- Những biểu hiện ban đầu của kí hiệu ghi nhớ như dùng dây thừng để thắt nút,
dùng các hình vẽ để diễn tả tình cảm cũng là những tiền đề cho chữ viết sau này.
1.2. Vài ghi nhận chung về tiến trình văn minh nhân loại:
Thời kì đồ đá cũ:
Bằng chứng khoa học dựa trên di truyền học và nghiên cứu hóa thạch, đặt
nguồn ngốc người hiện đại Homo sapiens ở Châu Phi. Điều này đã xảy ra khoảng
200.000 năm trước ở thời Đồ thời đá cũ, sau một giai đoạn lâu dài của tiến trình phát
triển. Những tổ tiên của loài người, như Homo erectus, đã sử dụng những công cụ đơn
giản trong hàng nghìn năm, nhưng cùng với thời gian, các công cụ đó trở nên tinh xảo
và phức tạp hơn. Con người cũng phát triển ngôn ngữ khoảng thời gian nào đó
thời kỳ Đồ đá cũ, cũng như một thứ nhận thức gồm cả phương pháp chôn cắt người
chết, nó chỉ ra rõ rằng đức tin vào một thế giới bên kia có nguồn gốc rất xa có tôn giáo
có tổ chức.
Con người ở thời này cũng biết tự trang điểm cho mình bằng các đồ vật để cải
thiện hình ảnh bên ngoài. Ở thời này, tất cả laòi người sống theo kiểu săn bắt- hái
lượm, nói chung là kiểu du mục.
Từ Châu Phi, con người hiện đại nhanh chóng phát triển ra khắp quả đất và
những vùng không băng giá ở Châu Âu và Châu Á. Sự phát triển nhanh chóng của loài
người về hướng Bắc Mỹ và Châu Đại Dương diễn ra ở thời cực thịnh của Kỷ băng hà
gần đây, khi những vùng thời tiết hiện nay đặc biệt khắc nghiệt và chưa cư trú được .
Vì vậy, đến cuối Kỷ băng hà khoảng 12.000 năm trước , con người hầu như đã sinh
sống ở toàn bộ những vùng không băng giá ở quả đất .
Các xã hội săn bắt –hái lượm có khuynh hướng rất nhỏ,mặc dầu trong một số
trường hợp
họ đã phát triển sự phân tầng xã hội và những tiếp xúc ở khoảng cách xa đã có thể
diển ra
ở trường hợp những “xa lộ” bản xứ Australia
cuối cùng đa số các xã hội săn bắt-hái lượm đã phát triển,hay buộc phải hấp thu vào
những tổ chức xã hội nông nghiệp lớn hơn.Những xã hội không hội nhập bị tiêu
diệt,hay vẫn trong tình trạng cách ly,những xã hội săn bắt hái lượm nhỏ đó hiện vẫn
tồn tại ở những vùng xa xôi.
Thời kỳ đồ đá mới
Sự phát triển của nông nghiệp là cái mốc phát triển văn minh rất quan trọng,là
quá trình chung của nhân loại.
Một sự thay đổi lớn, được miêu tả bởi nhà tiền sử họcVere Gordon Childe như
là một “cuôc cách mạng”, đã diển ra khoang thiên niên kỷ 9 TCN với việc hình thành
nghề nông.Măc dầu nghiên cứu có khuynh hướng tập trung vào vùng đất Trăng lưỡi
liềm màu mở ở Trung Đông, khảo cổ học ở Châu Mỹ, Đông Á và Đông Nam Á cho
thấy rằng những hệ thống nông nghiệp trồng cấy nhiều loại ngũ cốc khác nhau và sử
dụng các loại gia súc khác nhau có thể đả phát triển đồng thời ở một số nơi.
Một bước tiến nữa ở nông nghiệp Trung Đông xảy ra với sự phát triển tưới
tiêu có tổ chức và sử dụng lực lượng riêng biệt,bởi những người Sumer,bắt đầu vào
khoảng 5.500 TCN. Đồng và sắt thay thế đá để trở thành công cụ trong nông nghiệp
va chiên tranh.Tới tận lúc đó những xã hội nông nghiệp địng cư hầu như phụ thuộc
hoàn toàn vào các công cụ đá. Ở Âu Á, các công cụ đồng đỏ và đồng thau,những đồ
trang trí và vũ khí bắt đầu trở nên dồi dào vào khoảng năm 3000 TCN.Sau đồ
đông,vùng Đông Địa Trung Hải,Trung Đông và Trung Quốc bắt đầu sử dụng công cụ
và vũ khí bằng sắt.
Những người dân Châu Mỹ có thể không hề biết tới công cụ kim loại cho tới
tầng Chavin năm 900 TCN.Chúng ta cũng biết rằng Moche có áo giáp,những con dao
và bộ đồ ăn bằng kim loại.Thậm chí người Inca vốn ít dùng đồ kim loại cũng có
những chiếc cày mũi kim loại, ít nhất sau khi chinh phục Chimor.Một số khai quật
khảo cổ cho thấy rằng có thể thép đã từng được chế tạo tại đây trước khi nó phát
triển ở Châu Âu.
Các vùng châu nthổ ven sông trở thành những cái nôi của những nền văn minh
đầu tiên như châu thổ sông Hoàng Hà ở Trung Quốc, sông Nin ở Ai Cập, và châu thổ
sông Ân ở Pakistan. Một số dân tộc du mục, như những người thổ dân Australia và thổ
dân Nam Phi ở phía Nam Châu Phi, không biết tới nong nghiệp cho tới tận thời hiện
nay.
Nông nghiệp đã tạo cơ hội cho những xã hội phúc tạp hơn, cũng được gọi là những
nền văn minh. Các quốc gia và các thị trường xuất hiện. Các kỹ thuật cãi thiện khả
năng của con người(tạo ra thuyền: Đồng mộc - loại thuyền đầu tiên) nhằm kiểm soát
thiên nhiên và phát triển giao thông và thông tin.
Sự phát triển của tôn giáo: giai đoạn phát triển của nền văn minh
Đầu tiên là tín ngưỡng (niềm tin của con người: mong cầu, sợ hải trước sự vật
hiện tượng mà người ta chưa lý giải đựơc). Tất cả nhân loại đều có tín ngưỡng từ
thời cổ xưa Sự tôn sùng, thờ phụng...
Đa số các nhà sử học truy nguyên sự khởi đầu của Đức tin tôn giáo ở thời đồ
đá mới. Đa số các đúc tin tôn giáo thời kỳ này cốt ở sự thờ phụng một Đức mẹ nữ
thần, một Cha bầu trời, và cũng có sự thờ phụng Mặt Trời và Mặt Trăng như các vị
thần.
Qúa trình xuất hiện của văn minh thế giới.
Quốc gia
Các biên giói vạch ra các quốc gia - một ví dụ cụ thể là Vạn Lý Trường Thành,
trải dài hơn 6700 km, và lần đầu tiên được xây dựng vào thế kỷ thứ 3 TCN để bảo vệ
khỏi những kẽ chinh phục du mục từ phía bắc. Nó đã được xây dựng lại và phát triển
thêm nhiều lần.
Nông nghiệp dẫn tới nhiều thay đổi lớn. Nó cho phép một xã hội đông đúc hơn
rất nhiều, và nó tự tổ chức mình vào trong các quốc gia. Đã có nhiều định nghĩa được
sử dụng cho thuật ngữ “quốc gia” Max Weber và Norbert Elias định nghĩa quốc gia là
một tổ chức những người có một độc quyền về sự sử dụng hợp pháp vũ lực trong
một vùng địa lí riêng biệt.
Những quốc gia đầu tiên xuất hiện ở Lưỡng Hà, Ai Cập cổ đại và châu thổ
sông Ấn Độ vào cuối thiên niên kỷ thứ 4 và đầu thiên niên kỷ thứ 3 TCN. Ở Lưỡng
Hà, có nhiều thành bang. Ai Cập cổ đại khởi đầu là một quốc gia không có các thành
phố, nhưng nhanh chóng sau đó các thành phố xuất hiện. Một quốc gia cần một quân
đội để sử dụng vũ lực hợp pháp. Một quân đội cần một bộ máy quan liêu để duy trì
nó. Ngoại trừ duy nhất là trường hợp văn minh châu thổ sông Ấn Độ vì thiếu bàng
chứng về một lực lượng quân sự.
Các quốc gia đã xuất hiện ở Trung Quốc vào cuối thiên niên kỷ thứ ba đầu
thiên niên kỷ thứ hai TCN.Các cuộc chiến tranh lớn nổ ra giữa các quốc gia ở Trung
Đông. Hiệp ước Kadesh, một trong những hiệp ước hòa bình đầu tiên, được ký kết
giữa người Hittites và Ai Cập cổ đại khoảng năm 1275 TCN. Các đế chế lớn bắt đầu
chinh phục các vùng xung quanh vốn được cai trị bởi các bộ lạc, như Persia (thế kỷ
thứ 6 TCN), Đế chế Maurya (thế kỷ thứ 4 TCN), Trung Quốc (thế kỷ thứ 3 TCN), và
Đế chế La Mã ( thế kỷ thứ 1 TCN). Đó là toàn cảnh và sự hình thành quốc gia trên thế
giới.
Tình hình xung đột giữa các quốc gia trong quá trình phát triển của nhân loại
Đế quốc La Mã, Đế quốc Trung Hoa và Đế quốc Mông Cổ.
Thành phố và thương mại : Là bước phát triển quan trọng của nhân loại sau khi hình
thành quốc gia.
Vasco da Gama đi thuyền đến Ấn Độ để mang về những gia vị vào cuối thế kỷ
15 đầu thế kỷ 16.
Nông nghiệp cũng tạo nên và cho phép sự tích trữ lương thực thặng dư có thể
dùng để cunn cấp cho những người không dính dáng trực tiếp tới việc sản xuất lương
thực. Sự phát triển của nông nghiệp cho phép sự xuất hiện của những thành phố đầu
tiên.
Sự phát triển của các thành phố dẫn tới cái dược gọi là văn minh: đầu tiên Văn
minh Sumerian ở Lưỡng Hà (3500 TCN), tiếp theo là Văn minh Ai Cập dọc sông Nin
(3300 TCN) và nền Văn minh Harappan ở châu thổ sông Ấn (3300 TCN). Sự hình thành
của một thành phố phụ thuộc vào thành phố phi nông nghiệp.Chính ở thời gian này
chữ viết và thương mại ở tầm rộng bắt đầu xuất hiện.
Chữ viết – công cụ văn hóa mà chúng ta đã quá quen thuộc vốn là một trong
những thành quả văn hóa lớn lao, quan trọng nhất của nhân loại.
Khoảng trước sau thiên niên kỷ TCN chữ viết mới xuất hiện.
Vùng Lưỡng Hà, Ai Cập cổ đại được coi là nơi có chữ viết hoàn hảo sớm
nhất. So với lịch trình phát triển của nhân loại, lịch sử trên dưới 6000 năm của chữ
viết chỉ là một thời gian ngắn ngũi, nhưng chính nhờ có chữ viết mà con người đã tiến
vào giai đoạn phát triển nhảy vọt với những bước khổng lồ và có thể khẳng định
rằng: “không có chữ viết thì không có nền văn minh hiện đại”. Chữ viết, với những
phương thức vận hành cổ điển vẫn là người bạn đồng hành thân thiết của con người
trong nhiều thế kỷ phát triển trước mắt.
Tại Trung Quốc, những xã hội tiền thành thị có thể đã phát triển từ 2500 TCN,
nhưng triều đình đầu tiên được khảo cổ học xác định là nhà Thương.
Những con đường thương mại tầm xa xuất hiện lần đầu thiên niên kỷ thứ 3
TCN, khi những người Sumerians ở Lưỡng Hà buôn bán với nền văn minh Harappan ở
châu thổ sông Ấn. Những con đường thương mai cũng xuất hiện ở phía đông Địa
Trung Hải vào thiên niên kỷ thứ 4 TCN. Con đường tơ lụa giữa Trung Quốc và Syria
bắt đầu từ thiên niên kỷ thứ 2 TCN. Các thành phố ở Trung Á và Ba Tư là nơi ngã ba
đường của những con đường thương mại đó.
Tôn giáo và triết học
Những triết học và tôn giáo mới xuất hiện ở cả phía đông và phía tây, đặc biệt
là vào khoảng thế kỷ thứ 6 TCN. Cùng với thời gian, một tập hợp đa dạng các tôn giáo
phát triển trên thế giới, với Hindu giáo và Phật giáo ở Ấn Độ, Đạo thờ lửa ở Ba Tư là
một trong số những đức tinh lớn và sớm nhất. Ở phía đông, ba trường phái tư tưởng
ngự trị Trung Quốc cho đến tận ngày nay.Chúng gồm: Đạo giáo, Pháp gia và Khổng
giáo. Ở phía tây, truyền thống triết học Hy Lạp, được thể hiện qua các tác phẩm của
Plato và Aristotle, đã được truyền bá ra khắp Châu Âu và Trung Đông qua các cuộc
chinh phục của Alexandros Đại Đế vào thế kỷ thứ 4 TCN.
Hai trung tâm triết học lớn nhất thế giới là Trung Quốc (Châu Á) và Hy Lạp (là
tư tưởng triết học lớn của thế giới và Châu Âu).
Những vùng và những nền văn minh lớn
Tới những thế kỷ cuối cùng TCN, vùng Địa Trung Hải, sông Hằng và sông
Dương Tử đã trở thành khu vực phát sinh của các đế chế mà các nhà cai trị về sau này
sẽ phải tìm cách học tập.
Các đế quốc vĩ đại dựa trên khả năng khai thác quá trình sáp nhập thông qua
quân sự và việc thành lập những vùng định cư được bảo vệ để trở thành những trung
tâm nông nghiệp. Hòa bình mà họ mang lại thúc đẩy thương mại quốc tế, mà nổi
tiếng nhất là sự phát triển của “con đường tơ lụa”:
-Trung Quốc là một nước nuôi tằm và dệt lụa sớm nhất trên thế giới.
Hơn 3000 năm về trước, người đời Ân – Chu đã biết nuôi tằm và đã có những sản
phẩm lụa hoa văn rất đẹp và độ thêu vóc nhiều màu sắc. Sau đó lại có những phát
minh về dệt the gấm. Đến đời Hán (thế kỷ thứ 3 TCN) kỹ thuật dệt tơ lụa Trung
Quốc lại được phát triển và nâng cao hơn.Người đời Hán thường gọi dệt gấm và thêu
vóc là một vì vậy hai chữ “gấm vóc” về sau đã tượng trưng cho sự tươi đẹp.
- Tơ lụa của Trung Quốc đã làm cho người Trung Á, người Ả Rập và
Châu Âu kinh ngạc. Từ những thế kỉ trước và đầu công nguyên người Châu Âu đã đồn
đại về một “xứ sở tơ lụa” là như vậy.
- Một nhà văn La Mã (thế kỉ thứ III) đã nói: “ Lụa hoa của xứ sở tơ lụa
màu sắc đẹp như hoa rừng, sợi tơ nhỏ như mạng nhện”. Họ gọi Trung Quốc là xứ sở
tơ lụa và con đường thông thương mà những nhà buôn đi bán lại, buôn bán tơ lụa chạy
dài trên đất liền Châu Á gọi là “đường tơ” hoặc “ con đường tơ lụa”.
“Con đường tơ lụa” thời xưa của Trung Quốc đã góp phần to lớn
vào sự nghiệp giao lưu kinh tế và văn hóa dân tộc trên thế giới. Theo “ con đường tơ
lụa” các hàng hóa khác bằng trúc, bằng sứ... của Trung Quốc được bán sang Trung Á
và các nước Châu Âu. Kỹ thuật nuôi tằm dệt lụa của TQ cũng từ đó được truyền bá ra
khắp thế giới. Ngược lai, TQ cũng du nhập được nền văn minh của các dân tộc khác;
“ con đường tơ lụa” đã làm cho Châu Âu và Châu Á xích lại và hiểu biết nhau hơn.
Trên các vùng ở Âu Á, Châu Mỹ và Bắc Phi, các đế quốc lớn tiếp tục nổi lên
và sụp đổ.
Sự tan rã dần dần của đế chế La Mã.
Tại Trung Quốc, các triều đại nổi lên rồi lại sụp đổ giống như nhau.
Các xã hội rộng lớn cũng bắt đầu được dựng lên ở Trung Mỹ vào thời đó,
người Maya và người Aztecs ở Mesoamerca là những xã hội phát triển nhất.
CÁC NỀN VĂN MINH LỚN TRÊN THẾ GIỚI:
Loài người xuất hiện cách đây hàng triệu năm và ngay từ lúc đó con người đã
tạo ra nhiều giá trị vật chất cũng như tinh thần nhưng xã hội nguyên thuỷ lúc đó nói
chung vẫn còn ở trong tình trạng mông muội.
Tới cuối thiên niên kỉ IV, đầu thiên niên kỉ III TCN, ở một số nơi có điều kiện
tự nhiên thuận lợi hơn các nơi khác, con người tập trung sinh sống ở những nơi đó
đông hơn. Hạ lưu các con sông lớn ở châu Á và châu Phi đã hình thành ra bốn trung tâm
văn minh sớm nhất của nhân loại đó là trung tâm văn minh Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ,
Trung Hoa.
Một điểm giống nhau là cả bốn trung tâm văn minh này đều dựa vào các con
sông lớn: Ai Cập nhờ có sông Nin ( Nile), Lưỡng Hà nhờ có sông Ơphrat ( Euphrates)
Tigrơ ( Tigris ), Ấn Độ nhờ có sông Ấn và sông Hằng, Trung Hoa nhờ có Hoàng Hà và
Trường Giang. Hạ lưu của các con sông này đất rất màu mỡ, thuận lợi cho việc phát
triển nông nghiệp, tạo điều kiện cho cư dân ở đây sớm bước vào xã hội văn minh.
Ở phương Tây, có hai trung tâm văn minh xuất hiện muộn hơn, đó là văn minh
Hy Lạp và La Mã ( khoảng cuối thiên niên kỉ III đến đầu thiên niên kỉ II TCN ). Tuy
xuất hiện muộn hơn các trung tâm văn minh ở phương Đông, nhưng nhờ kế thừa các
thành tựu văn minh của phương Đông rồi sau đó phát triển lên nên văn minh Hy-La
cũng để lại cho nhân loại nhiều giá trị quan trọng.
Thời trung đại, toàn bộ Tây Á và Bắc Phi nằm trong lãnh thổ đế quốc Arập.
Phương Đông hình thành ba trung tâm văn minh lớn là Arập, Ấn Độ, Trung Hoa. Trong
ba trung tâm văn minh đó, Ấn Độ và Trung Hoa có sự phát triển liên tục từ thời cổ đại
tới thời trung đại.
Ở phương Tây, thời trung đại chỉ nằm trong một trung tâm văn minh là văn
minh Tây Âu.
Ngoài những trung tâm văn minh lớn, thời cổ-trung đại trên thế giới còn hình
thành những trung tâm văn minh nhỏ hơn như văn minh của một số người dân da đỏ ở
Châu Mĩ, văn minh ở một số vùng thuộc Đông Nam Á .
Ngay từ thời cổ-trung đại, những nền văn minh trên thế giới không phải phát
triển hoàn toàn biệt lập với nhau.Con người giữa các trung tâm văn minh khác nhau đã
có sự tiếp xúc với nhau qua buôn bán, du lịch, chiến tranh, hay truyền giáo. Vì vậy
chắc chắn những giá trị vật chất cũng như tinh thần giữa các trung tâm văn minh ấy
cũng đã có ảnh hưởng lẫn nhau.
Tới thời cận đại, các nước phương Tây nhờ sự phát triển nhanh chóng về khoa
học kĩ thuật đã trở thành các quốc gia phát triển về kinh tế, hùng mạnh về quân sự.
Cùng với quá trình thực dân hoá, các nước phương Tây đã lôi cuốn các vùng còn lại
của thế giới vào luồng phát triển của văn minh chung thời cận đại.
Trên cơ sở của văn minh thế giới thời cổ-trung đại mà loài người thời cận đại
và hiện đại đã tạo nên được những thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực như chúng
ta đã thấy ngày nay.
2. NHỮNG THÀNH TỰU TIÊU BIỂU CỦA VĂN MINH THẾ GIỚI:
2.1
Angkor Wat (tiếng Khơme nghĩa là thành phố chùa) từ lâu đã trở thành biểu
tượng huy hoàng của đất nước Cămpuchia.Ngay sau khi được phát hiện vào năm 1861,
Angkor Wat đã làm cho các nhà nghiên cứu bàng hoàng. Lúc đó người ta đã đặt ra
nhiều giả thuyết kỳ lạ. Người cho rằng chính chủ nhân của những kim tự tháp Aicập
đã đến đây và xây dựng nên Angkor Wat. Người khác lại phỏng đoán có bàn tay của
người HyLạp trong việc tạo dựng nên ngôi chùa đá kỳ diệu này. Còn truyền thuyết
của người Khơme thì cho rằng Angkor Wat là nguồn gốc của Thần Linh.
Truyền thuyết về Angkor Wat kể lại rằng: ngày xưa, Thần tối thượng Indra có
quan hệ với một người đàn bà dưới trần gian. Người đàn bà sinh ra một người con trai
là Preah Két Mêalêa (ánh sáng thiên thần). Vì được Hoàng hậu sinh ra nên Preah Két
Mêalêa trở thành Hoàng Tử kế vị ngôi Vua ở Inđra Prast (Cămpuchia cổ). Thần Inđra
mê vẻ khôi ngô của chú bé và đem chú về trời. Các thần không bằng lòng cho con của
người dưới trần gian chung sống với mình nên đòi Inđra phải trả Preah Két Mealêa
xuống hạ giới. Không còn cách nào khác Thần Indra đành phải đem chú bé xuống hạ
giới. Quen với cuộc sống trên thiên giới, nên khi trở về hạ giới Preah Két Mêalêa cảm
thấy trong lòng buồn bã khi sống trong cung điện của Vua cha. Hoàng Tử xin Thần
Indra cho mình được trở lại thượng giới. Tuy rất thương Hoàng Tử, nhưng vị thần tối
thượng không biết phải làm gì đây. Thần nảy ra ý định sai một vị kiến trúc sư vĩ đại
của các Thần là Preah Pisnuka xây ngay ở hạ giới một lâu đài tráng lệ giống hệt lâu
đài của Thần Indra trên thượng giới cho Hoàng Tử. Chỉ một đêm các thần đã xây xong
tòa lâu đài, đó chính là Angkor Wat ngày nay. Trên các phiến đá ở Angkor Wat, còn hằn
rõ những lỗ tròn chính là những dấu tay bê đá của các Thần.
Từ những bàng hoàng ban đầu, các nhà khoa học đã lần theo dấu vết của
những dòng bia đá bí ẩn ở các đền đài và lịch sử về Angkor Wat đã hiện dần lên.
Angkor Wat từ đó đã được giải mã và không còn là huyền thoại nữa.
Angkor Wat cũng như nhiều đền đài khác ở ăngco chỉ là một đền mộ gắn với
việc thờ Thần - Vua của các triều Vua chúa Khơme thời ăngco. Các Vua ăngco coi
mình là hiện thân của Thần linh. Cho nên khi còn sống mỗi vị Vua đều xây cho mình
một ngôi đền như đền thờ của Thần linh. Khi chết, theo quan niệm của người
Khơme, vị Vua đó sẽ trở thành Thần và nhập vào các ngôi đền mình đã xây dựng.
Cùng với tục thờ Thần Vua, một loại hình kiến trúc kỳ lạ của người Khơme ra
đời: Đền núi. Mỗi ngôi đền mộ là hình ảnh của quả núi vũ trụ Mêru, nơi ngụ của
Thần linh. Loại hình dáng kiến trúc đền núi bắt đầu hình thành ở Cămpuchia từ đầu
thời ăngco - thời Vua Giaiavácman 2 (trị vì từ năm 790 đến năm 850). Thoạt đầu, Đền
núi khơme còn rất thô sơ, chỉ là một hoặc vài ngôi đền dựng trên đỉnh một quả đồi.
Nhưng dần dần, từng bộ phận cấu thành một đền núi hoàn chỉnh xuất hiện. Đến thời
điểm ra đời của Angkor Wat (nửa cuối thế kỷ XII) mô hình đền núi Khơme đã hoàn
thiện đến từng chi tiết nhỏ. Angkor Wat không phải xuất hiện từ hư vô mà là đỉnh cao
của sự kết tinh với lịch sử hơn ba trăm năm phát triển của loại hình đền núi Khơme.
Sau khi lên ngôi vào năm 1113, Vua Suryavácman II chọn một khu đất rộng và
thoáng đãng ở góc Đông Namđô thành Yasodharapura để xây Đền núi cho mình. Đó là
Angkor Wat. Công trình được khởi công vào năm 1122 và hoàn thành vào năm Vua mất
- năm 1150.
Angkor Wat nằm trong khu đất thiêng rộng 1500m x 1300m và bị giới hạn bởi
một hồ nước rộng. Do vị trí qui định nên đền mở về hướng Tây có hồ cũng là hướng
tới đô thành, chứ không mở về hướng Đông như mọi Đền núi Khơme khác, Vượt qua
hồ phía Tây là một con đường đi giữa hai hàng lan can đá hình rắn Naga khổng lồ dẫn
tới cổng chính dài 230m. Toàn bộ kiến trúc bên trong được thu lại một cách chuẩn xác
và chọn vẹn trong khung cổng này. Khúc dạo của bản giao hưởng nghệ thuật lớn bắt
đầu và hoà lên rộn ràng khi người xem bước qua cổng chính. Cửa chính giữa mở ra
con đường thứ hai rộng 9,5m và dài 350m. Hai bên đường vẫn là dãy lan can đá hình
rắn Naga khổng lồ.
Các bia ký và hình chạm khắc cho thấy rằng, xưa kia Vua Suryavácman thường
xa giá đến đây. Đi đầu là một đoàn người cầm cờ phướn rồi đến các nhạc công. Sau
đó là những chiếc kiệu đem lễ vật dâng lên đền. Đi sau đoàn kiệu là các cung nữ cầm
nến, hoa, các cỗ xe, kiệu chở các nàng công chúa. Sau nữa là những Hoàng Tử cưỡi
voi có ô che trên đầu. Sau cùng, một con voi to nhất có bành lộng lẫy chở Đức Vua.
Tới cửa vào đền, đoàn rước lễ rẽ sang hai cánh, chỉ đức Vua và các thành viên của
Hoàng gia mới được vào đền, khi tới khu hồi lang thứ nhất thì họ dừng lại làm lễ. Khu
hồi lang này rộng 215m x 187m và có những hình sư tử và rắn Naga bảy đầu trấn giữ.
Tới đây, Vua vẫn ngồi trên mình voi đi tới cửa Đông của đền. Dọc tường hồi lang là
tám bức phù điêu lớn cao hai mét và dài từ 50m đến 100m. Gần 1200m vuông phù điêu
đó thể hiện các cảnh lấy từ Sử thi Ramayana hoặc các cảnh nói về các chiến tích của
Suryavácman II. ở đây, chúng ta gặp chân dung đức Vua hai lần: một lần đang thiết
triều, một lần đang xung trận. Các cảnh chiến trận được thể hiện sôi động, căng
thẳng và hừng hực sát khí. Trong khi đó, các cảnh sinh hoạt, hội lễ lại êm đềm và
sống động.
Cảnh phía Namcủa hồi lang Đông là cả một mảng phù điêu dài 50m thể hiện
huyền thoại khuấy biển sữa lấy thuốc trường sinh. Trọng tâm của phù điêu là hình
Vítnu nằm trên mình con rùa. Hai bên là các Thần và qủy đáng ráng sức ôm thân con
rắn khổng lồ Vasuka mà kéo. Từ đại dương bị khuấy động bay lên các tiên nữ Apsara
rồi nữ thần sắc đẹp Lắcsơmi.
ở mặt hướng Tây của tầng một, ba cầu thang dẫn lên tầng hồi lang kín thứ hai. ở tầng
thứ hai này của Angkor Wat là cả một thế giới các ô sân tạo bởi những lối đi có mái
che chạy ngang dọc cắt nhau. Nơi đây chỉ dành riêng cho các thành viên của Hoàng gia.
Sau khi đã cùng vị tư tế làm lễ ở tầng một, đức Vua cùng gia quyến lên tầng hai nghỉ
ngơi. Không khí của tầng hai hoàng toàn tĩnh lặng êm ả. ở đó, có những thư viện có
nhiều Thánh kinh dành cho Vua Chúa đọc. Bàn tay của các nghệ sĩ vô danh đã tạo nên
ở tầng hai này cả một thiên giới bằng đá. Trên mặt các tường là vô vàn những hình
tiên nữ Apsara bằng đá. Những nàng Apsara kiều diễm với những khuôn mặt và trang
phục khác nhau, tay cầm hoa hoặc đang múa; tất cả đã tạo ra bức tranh sinh động về
một thiên cung nơi hạ giới. Gần 2000 hình Apsara ở Angkor Wat là gần 2000 tác phẩm
điêu khắc tuyệt vời. Qua dấu vết vàng son còn lại và các dòng bia ký, người ta có đủ
cơ sở đoán rằng, xưa kia các hình tiên nữ, các bộ phận kiến trúc đã được sơn son thiếp
vàng hoặc được khắc vẽ.
Theo những lối tam cấp có mái che có thể lên đến tầng thứ ba, tầng trên cùng
của Angkor Wat. Từ xa, tầng trên cùng này cùng với năm ngọn tháp hiện ra trên nền
trời như những nụ hoa. Lên đến tầng trên cùng ai cũng cảm thấy năm ngọn tháp như
ngự trị cả không gian. Ngôi tháp trung tâm cao 42m so với nền của tầng ba, còn toàn
bộ ngôi chùa cao 65m.
Mô hình của Angkor Wat đã được hoàn thiện trước đó ở đền Bà Phnôm;
Angkor Wat là một kiến trúc dạng kim tự tháp ba tầng. Tầng trung tâm có năm tháp
được bố cục theo sơ đồ ngũ điểm (tháp chính cao nhất ở giữa, bốn tháp nhỏ hơn ở
bốn góc). Tháp trung tâm nối với bốn cổng ở bốn hướng bằng những hành lang có cột
và mái che. Như vậy, mỗi tầng bị cắt ra thành những khu sân nhỏ. Mỗi tầng lại có
những hồi lang kín vây quanh. Góc các hồi lang và ở ngay chính giữa các mặt lại nhô
lên những hình tháp nhỏ. Các lối đi trên cầu thang cũng được lợp kín như các hồi lang.
Tuy phỏng theo đền Bà Phnôm, nhưng giá trị và sự kỳ diệu của Angkor Wat chính là
tầm vóc và cách xử lý không gian.
Tỷ lệ và luật xa gần được biểu hiện ở Angkor Wat thật giản đơn nhưng cũng
thật đáng kinh ngạc. Quãng đường giữa cổng vào tới khu đền đài dài gấp đôi chiều dài
mặt Tây của đền. Đây là tỷ lệ vàng mà chỉ có người Hy Lạp Cổ mới biết và sử dụng
trong những công trình kiến trúc của mình. Theo các kiến trúc sư Cổ Hy Lạp, muốn
bao quát toàn bộ một công trình kiến trúc phải lùi xa một khoảng gấp hai lần kích
thước lớn nhất của kiến trúc đó. Tỷ lệ của ba tầng của Angkor Wat cũng là nhữn tỷ lệ
vàng: tầng một cao 6m, tầng hai cao 13m (6m+7m) và tháp chính cao 42m (6m x 7m).
Chiều cao của ba tầng cứ lên từ từ đều đặn khiến người xem có cảm giác lúc nào
cũng hiện diện một sự hoàn chỉnh. Hơn thế nữa, các tầng lại có cấu trúc và hình dáng
giống nhau, tần trên như hoà lẫn vào hồi lang của tầng dưới. Mỗi thành phần kiến
trúc từ tháp chính tới các tháp phụ, từ các bậc tam cấp đến các hồi lang... đều được bố
trí cân đối rất hoàng hảo đến mức chúng vừa như là các công trình riêng biệt vừa hoà
vào tổng thể chung. Tất cả điều đó cho thấy công việc xây dựng Angkor Wat phải
được tính toán kỹ lưỡng trên một mô hình trước khi thi công.
Sau khi Suryavácman II mất, đất nước của người Khơme lâm vào tình trạng khủng
hoảng cung đình. Trước tình hình đó, quân đội Chàm đã tiến đánh và tàn phá Angkor
Wat vào năm 1177. Chỉ Vua Giaiavácman VII mới trả được mối thù đó. Ông không chỉ
phục hồi được Angkor Wat mà còn chiếm cả đất nước của kẻ thù. Bia ký Bantay
Chmar viết: "Đức Vua đã đưa đất nước thoát khỏi vực thẳm tai họa".
Nhưng cũng chỉ sau đó không lâu, Angkor Wat cùng với các đền đài ăngco khác
đã bị con người bỏ rơi cho núi rừng xâm chiếm và bao phủ. Chỉ đến tận cuối thế kỷ
XIX, Angkor Wat mới lại bắt đầu cuộc hồi sinh lần thứ hai và được đánh giá là một
trong những kỳ quan của nhân loại.
Kim tự tháp Kheops
Kim tự tháp Kheops
Kim tự tháp Kheops là công trình cao nhất thế giới từ năm ~ 2570 TCN đến năm ~ 1300Địa
điểmGiza, Ai CậpTình trạngĐã hoàn thành
Xây dựng~ 2570 TCNChiều caoTính đến mái138,8 m (455,2 ft)
(Nguyên thủy: 146,6 m (480,9 ft)
Đại kim tự tháp Kheops.
Kim tự tháp Khafre và tượng Nhân sư
Kim tự tháp Kheops hay kim tự tháp Kê ốp, kim tự tháp Khufu hoặc Đại kim tự
tháp Giza ( 29°58′41″B, 31°07′53″Đ), là một trong những công trình cổ nhất và duy
nhất còn tồn tại trong số Bảy kỳ quan thế giới. Các nhà Ai Cập học nói chung đã đồng
ý rằng kim tự tháp được xây trong khoảng thời gian 20 năm từ khoảng năm 2560 TCN.
Mọi người cũng cho rằng Đại kim tự tháp được xây dựng làm lăng mộ cho pharaon