Những mối đe doạ đối với đa dạng sinh học
Những hoạt động của con người đã làm cho rất nhiều loài bị tuyệt chủng. Kể từ năm 1600 đến nay khoảng 21% các loài động vật và 1,3% các loài chim trên thế giới đã bị tuyệt chủng. Tốc độ tuyệt chủng của các loài trở nên ngày càng cao. Những loài còn sống sót thì cũng có nguy cơ đứng bên bờ của sự tuyệt chủng. Hơn 99% những sự tuyệt chủng thời cận đại là do con người gây ra .
NHỮNG MỐI ĐE DOẠ ĐỐI VỚI ĐA DẠNG SINH HỌC
Những hoạt động của con người đã làm cho rất nhiều loài bị tuyệt chủng. Kể từ
năm 1600 đến nay khoảng 21% các loài động vật và 1,3% các loài chim trên thế
giới đã bị tuyệt chủng. Tốc độ tuyệt chủng của các loài trở nên ngày càng cao.
Những loài còn sống sót thì cũng có nguy cơ đứng bên bờ của sự tuyệt chủng. Hơn
99% những sự tuyệt chủng thời cận đại là do con người gây ra .
Những loài sống trên các đảo đặc biệt rất dễ tuyệt chủng vì chúng chỉ sống được
trên một hay một số ít hòn đảo. Mô hình sinh địa của đảo được sử dụng để dự báo
rằng với tốc độ phá hủy nơi cư trú như hiện nay thì mỗi năm sẽ có 25.000 loài sẽ
bị tuyệt chủng trong vòng 10 năm tới. Nhiều quần xã sinh học đang dần dần bị mai
một bởi những sự tuyệt chủng cục bộ của loài.
Hạn chế việc gia tăng dân số loài người là một giải pháp hữu hiệu giải quyết cuộc
khủng hoảng của đa dạng sinh học. Hơn nữa những hoạt động quy mô lớn của
công nghiệp khai thác gỗ và nông nghiệp thường dẫn đến việc hủy hoại môi
trường tự nhiên không cần thiết, làm ảnh hưởng đến việc khai thác dài hạn các
nguồn lợi thiên nhiên. Những nỗ lực nhăm hạn chế sử dụng các nguồn tài nguyên
thiên nhiên ở những nước cộng nghiệp phát triển và việc xóa đói giảm nghèo tại
các nước đang phát triển đóng vai trò rất quan trọng trong chiến lược tống thể bảo
vệ đa dạng sinh học.
Nguy cơ lớn nhất đe dọa đa dạng sinh học là việc mất các nơi cư trú; bởi vậy việc
làm quan trọng nhất để bảo vệ đa dạng sinh học là bảo tồn các nơi cư trú. Các nơi
cư trú đặc biệt đang bị đe dọa hủy hoại là các khu rừng mưa, rừng khô nhiệt đới,
các vùng đất ngập nước ở tất cả các vùng khí hậu, các vùng đồng cỏ ôn đới, rừng
ngập mặn, và các dải san hô. Nơi cư trú bị chia cắt là quá trình mà những khu vực
rộng lớn, liên tục của nơi sinh sống bị giảm về diện tích hay bị chia cắt xé lẻ nơi ra
làm hai hay nhiều phần nhỏ. Việc việc chia cắt xé lẻ nơi cư trú có thể dẫn đến sự
mất mát nhanh chóng của các loài còn lại bởi vì chúng tạo ra những rào chắn ngăn
cản việc phát tán, việc định cư và kiếm mồi của các loài động vật. Môi trường
sống trong phần bị chia cắt xé lẻ sẽ bị thay đổi và các côn trùng gây hại sẽ trở nên
phổ biến hơn.
Sự ô nhiễm môi trường loại bỏ rất nhiều loài ra khỏi quần xã sinh học của chúng
kể cả ở những nơi mà cấu trúc quần xã không bị ảnh hưởng lớn. Sự ô nhiễm môi
trường bao gồm: sử dụng quá mức thuốc trừ sâu, các chất thải công nghiệp,
phân bón hóa học và ô nhiễm không khí gây ra mưa axit, nitơ bị lắng đọng
quá mức, các khí quang hóa và khí ôzôn. Như chúng ta đã biết khí hậu địa cầu có
thể bị thay đổi trong thế kỷ XXI bởi vì lượng khí cacbonnic thải vào khí quyên quá
lớn do quá trình đốt cháy các nhiên liệu hóa thạch. Mức độ tăng nhiệt độ dự kiến
sẽ nhanh đến mức nhiều loài không thê nào điều chỉnh được biên độ sống của
chúng và sẽ bị tuyệt chủng.
Hiện nay tình trạng nghèo khó vẫn diễn ra ở nông thôn. Việc cải tiến đạt hiệu quả
cao hơn các phương pháp săn bắn và hái lượm, quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế
đã thúc đẩy sự khai thác quá mức đối với rất nhiều loài, đẩy chúng đến sự tuyệt
chủng. Các nền văn minh của các xã hội trước đây có những truyền thống, thói
quen hạn chế khai thác tài nguyên quá mức, nhưng ngày nay, những truyền thống
đó đã bị phá vỡ và con người vô tình hoặc hữu ý đã chuyển hàng ngàn loài đến
những vùng đất mới trên thế giới. Một số loài nhập cư đã có tác động xấu đối với
các loài bản địa dẫn đến dịch bệnh và động vật sống ký sinh thường gia tăng khi
các loài động vật bị nuôi nhốt tại những khu bảo tồn thiên nhiên và không thể di
chuyển đi lại trong một địa bàn rộn lớn. Động vật bị nuôi nhốt thường có tỷ lệ bị
mắc bệnh cao và các bệnh dịch đôi khi lan truyền giữa các loài động vật có quan hệ
họ hàng với nhau.
Các loài động vật dễ bị tuyệt chủng có những đặc điểm nhất định như: có vùng
phân bố địa lý hẹp, chỉ có một hay ít quần thể, kích thước quần thể nhỏ,
quần thể bị suy giảm về số lượng và có giá trị kinh tế đối với con người dẫn
đến việc bị khai thác quá mức .
Các nhà sinh học đã nhận thấy rằng các quần thể nhỏ có nguy cơ bị tuyệt chủng
cao hơn nhiều so với các quần thể lớn. Kích thước tối thiểu của quần thế
(Minimum viable population) chính là số lượng cá thê cần đủ để đảm bảo cho một
quần thể có khả năng sống sót cao trong tương lai gần. Có ba nguyên nhân chính
dẫn đến sự tuyệt chủng của các quần thể nhỏ: sự mất đi khá năng trao đổi gen và
suy giảm sức sống do giao phối gần; sự dao động về số lượng cá thể; sự biến đối
môi trường do thiên tai. Các hệ quả tổng hợp của các yếu tố trên được so sánh như
yếu tố chính làm cho các quần thể nhỏ bị tuyệt chủng. Để tính toán số lượng quần
thể tối thiểu có thể sống sót của một quần thể và khả năng chống chịu của quần
thể đó trong một môi trường nhất định, ta phải sử dụng các số liệu về chủng quần
học, gen, môi trường, thiên tai trong phân tích khả năng sống sót của quần thể. Các
nhà sinh học bảo tồn cũng khẳng định rằng bằng cách quan trắc các quần thể của
một loài có nguy cơ bị đe dọa, có thể biết được hiện trạng số lượng, của loài đó
hoặc đang ổn định, đang tăng lên, đang dao động hay đang suy giảm. Thường thì
điều chủ yếu để bảo vệ và quản lý một loài quý hiếm hay có nguy cơ tuyệt chủng
chính là phải hiểu được lịch sử tự nhiên của loài đó. Một số loài qúy hiếm được
mô tả một cách chính xác hơn như là các quần thể biến thái trong đó một nhóm các
quần thể tạm thời được nối kết với nhau do sự di cư, sự nhập cư và sự xâm
chiếm. Các quần thể mới của các loài quý hiếm và quần thể loài có nguy cơ tuyệt
chủng có thể được tái phục hồi trong tự nhiên bằng cách sử dụng các cá thể hoặc
được nuôi hay bị bắt ở ngoài tự nhiên. Trước khi thả ra tự nhiên, chim và thú được
nuôi trong chuồng có thể phải được huấn luyện về tập tính săn mồi và sau khi
được thả ra, chim và thú đó cũng thường phải được duy trì sự chăm sóc ở một mức
độ nhất định. Việc tái lập phục hồi đưa vào các loài thực vật đòi hỏi phải có
một phương thức khác do yêu cầu về môi trường chuyên hoá tại các giai đoạn
gieo hạt và nảy mầm. Một số loài đang có nguy cơ tuyệt chủng ở ngoài thiên
nhiên có thể được duy trì ở các vườn thú, các vườn thực vật các bể nuôi; cách thức
này được biết như là phương pháp bảo tồn ngoại vi. Đôi khi các loài được nuôi
chiếm ưu thế có thể được sử dụng về sau để tái lập các loài đó ở ngoài thiên nhiên.
Nhằm nêu bật tình trạng của các loài nằm trong mục đích bảo tồn IUCN đã đưa ra
năm mức báo tồn chính: tuyệt chủng, có nguy cơ, dễ bị tổn thương, quý hiếm và
chưa có thông tin đầy đủ. Hệ thống phân loại này ngày nay được sử dụng rộng rãi
để đánh giá tình trạng của các loài và lập các ưu tiên về bảo tồn.
Hiện nay một số những đạo luật có hiệu quả về bảo vệ các loài Đang có Nguy cơ
Tuyệt chủng được ban hành ở nhiều quốc gia trên thế giới. Những đạo luật này
thường là trung tâm của các cuộc tranh cãi giữa các lợi ích về môi trường, và lợi
ích kinh tế .
Một sự thật hết sức hiển nhiên là một số loài sinh vật có khả năng di cư xuyên biên
giới cho nên việc kiểm soát các loài cần phải có sự liên kết giữa các quốc gia. Các
hoạt động buôn bán quốc tế về các sản phẩm sinh học, tầm quan trọng quốc tế
của các lợi ích về đa dạng sinh học và tính quốc tế của các mối đe dọa đối với tính
đa dạng nên cần thiết phải có các công ước và thỏa thuận quốc tế về bảo vệ đa
dạng sinh học. Công ước Quốc tế về buôn bán các loài đang có nguy cơ tuyệt
chủng (CITES) đã được ban hành nhằm kiểm soát và quan trắc việc buôn bán các
động vật có nguy cơ bị đe doạ; ngày càng được xem là một cứu cánh lớn nhất của
NHÂN LOẠI trong việc bảo tồn đa dạng sinh học của hành tinh chúng ta.
RỪNG
Việt Nam được coi là một trong những nước thuộc vùng Đông nam Á giàu về đa
dạng sinh học. Ở Việt Nam do sự khác biệt lớn về khí hậu từ vùng gần Xích đạo
tới giáp vùng cận nhiệt đới, cùng với sự đa dạng về địa hình đã tạo nên sự đa dạng
về thiên nhiên và cũng do đó mà Việt Nam có tính đa dạng sinh học cao. Một dải
rộng các thảm thực vật bao gồm nhiều kiểu rừng phong phú đã được hình thành ở
các độ cao khác nhau như các rừng thông chiếm ưu thế ở vùng ôn đới và cận nhiệt
đới, rừng hỗn loại lá kim và lá rộng, rừng khô cây họ Dầu ở các tỉnh vùng cao, rừng
họ Dầu địa hình thấp rừng ngập mặn cây Đước chiếm ưu thế ở ven biển châu thô
sông Cửu Long và sông Hồng rừng Tràm ở đồng bằng Nam bộ và rừng hỗn loại tre
nứa ở nhiều nơi.
Mặc dù có những tổn thất quan trọng về diện tích rừng trong một thời kỳ kéo dài
nhiều thế kỷ, hệ thực vật rừng Việt Nam vẫn còn phong phú về chủng loại. Cho
đến nay đã thống kê được 10.484 loài thực vật bậc cao có mạch. khoảng 800 loài
rêu và 600 loài nấm. Theo dự đoán của các nha thực vật học số loài thực vật bậc
cao có mạch ít nhất sẽ lên đến 12.000 loài, trong đó có khoảng 2.300 loài đã được
nhân dân dùng làm nguồn lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thức ăn cho gia
súc, lấy gỗ, tinh dầu và nhiều nguyên vật liệu khác. Chắc chắn rằng hệ thực vật
Việt Nam còn nhiều loài mà chúng ta chưa biệt công dụng của chúng. Cũng có thể
có rất nhiều loài có tiềm năng như một nguồn cung cấp dược liệu hết sức quan
trọng.
Hệ thực vật Việt Nam có mức độ đặc hữu cao. Tuy rằng hệ thực vật Việt Nam
không có các họ đặc hữu và chỉ có khoảng 3% số chi là đặc hữu (như các chi
Ducampopinus, Colobogyne) nhưng số loài đặc hữu chiếm khoảng 33% số loài
thực vật ở miền Bắc Việt Nam và hơn 40% tổng số loài thực vật toàn quốc (Thái
Văn Trừng, 1970). Phần lớn số loài đặc hữu này tập trung ở bốn khu vực chính:
khu vực núi cao Hoàng Liên Sơn ở phía Bắc, khu vực núi cao Ngọc Linh ở miền
Trung, cao nguyên Lâm Viên ở phía Nam và khu vực rừng mưa ở phần Bắc Trung
Bộ. Nhiều loài là đặc hữu địa phương chỉ gặp trong một vùng rất hẹp với số cá thể
rất thấp. Các loài này thường rất hiếm vì các khu rừng ở đây thường bị chia cắt
thành những mảnh nhỏ hay bị khai thác một các mạnh mẽ.
Bên cạnh đó, do đặc điểm cấu trúc, các kiểu rừng nhiệt đới ẩm thường không có
loài chiếm ưu thế rõ rệt nên số lượng cá thể của từng loài thường hạn chế và một
khi đã bị khai thác, nhất là khai thác không hợp lý thì chúng chóng bị kiệt quệ. Đó là
tình trạng hiện nay của một số loài cây gỗ quý như Gõ đỏ (Afzelia xylocarpa) Gụ
mật (Sindora siamensis) nhiều loài cây làm thuốc như Hoàng liên chân gà (Coptis
chinensis), Ba kích (Morinda officinalis)... thậm chí có nhiều loài đã trở nên hiếm
hay có nguy cơ bị tiêu diệt như Thông nước (Glyptostrobus pensilis), Hoàng đàn
(Cupressus terbulosa), Bách xanh (Calocedrus macolepis), Cẩm lai Bà Rịa
(Dalbergia bariaensis), Pơmu (Fokiena hodginsii) v.v.
Hệ động vật Việt Nam cũng hết sức phong phú. Hiện đã thống kê được 275 loài
thú, 828 loài chim, 180 loài bò sát, 80 loài ếch nhái, 472 loài cá nước ngọt, khoảng
2.000 loài cá biển và thêm vào đó có hàng chục ngàn loài động vật không xương
sống ở cạn, ở biển và nước ngọt (Đào Văn Tiến, 1985; Võ Quý, 1997; Đặng Huy
Huỳnh, 1978). Hệ động vật Việt Nam không những giàu về thành phần loài mà còn
có nhiều nét độc đáo, đại diện cho vùng Đông nam á. Cũng như thực vật giới động
vật giới Việt Nam có nhiều dạng đặc hữu: hơn 100 loài và phân loài chim và 78
loài và phân loài thú là đặc hữu. Có rất nhiều loài dộng vật có giá trị thực tiễn cao
và nhiều loài có ý nghĩa lớn về bảo vệ như: Voi, Tê giác Giava, Bò rừng, Bò tót,
Trâu rừng, Bò xám, Nai cà tông, Hổ, Báo, Cu ly, Vượn, Voọc vá, Voọc xám, Voọc
mũi hếch, Sếu cổ trụi, Cò quắm cánh xanh, Cò quắm lớn, Ngan cánh trắng, nhiều
loài trĩ, cá sấu, trăn, rắn và rùa biển...
Theo tài liệu (Review of the Protected Areas System in the Indo - Malayan
Realm, MacKinnon, MacKinnon, 1986) thì Việt Nam khá giàu về thành phần loài
và có mức độ cao về tính đặc hữu so với các nước trong vùng phụ Đông Dương.
Trong số 21 loài khỉ có trong vùng phụ này thì ở Việt Nam có 15 loài, trong đó có 7
loài đặc hữu của vùng phụ (Eudeyl 1987). Có 49 loài chim đặc hữu trong vùng phụ,
ở Việt Nam có 33 loài trong đó có 10 loài đặc hữu của Việt Nam, so với Miến
Điện, Thái Lan, Malaixia, Hải Nam, mỗi nơi chỉ có 2 loài, Lào một loài và
Campuchia không có loài đặc hữu nào cả. Khi xem xét về sự phân bố của các loài ở
trong vùng phụ Đông Dương nói chung, số loài thú và chim và các hệ sinh thái có
ngụy cơ bị tiêu diệt nói riêng và sự phân bố của chúng. Chúng ta có thể nhận rõ
rằng Việt Nam là một trong những vùng xứng đáng có ưu tiên cao về vấn đề bảo
vệ. Không những thế, hiện nay ở Việt Nam vẫn còn có những phát hiện mới rất lý
thú. Chỉ trong hai năm 1992 và 1994 đã phát hiện được ba loài thú lớn, trong đó có
hai loài thuộc vùng rừng Hà Tĩnh là loài Sao la ( Pseudoryx nghetinhensis) và loài
Mang lơn hay còn gọi là Mang bầm (Megamuntiacus vuquangensis), nơi mà trước
đây không lâu đã phát hiện loài trĩ cuối cùng trên thế giới, loài Gà lam đuôi trắng
hay còn gọi là Gà lừng (Lophura hatinhensis).
Ngày 21 tháng 10 năm 1994 một loai thú lớn mới thứ ba là loài ( Pseudonovibos
spiralis) ở Tây Nguyên, tạm gọi là loài Bò sừng xoắn được công bố và năm 1997
một loài thú lớn mới nữa cho khoa học được mô tả đó là loài Mang Trường Sơn
(Caninmuntiacus truongsonensis) tìm thấy lân đầu tiên ở vùng Hiên, thuộc tỉnh
Quảng Nam. ở khu vực Vũ Quang trong những năm gần đây phát hiện được thêm
một loài cá mới cho khoa học: Opsarichthys vuquangensis. Chúng ta tin rằng ở Việt
Nam chắc chắn còn rất nhiều loài động, thực vật chưa được các nhà khoa học biết
đến.
Nguồn tài nguyên thiên nhiên giàu có về sinh giới này, có thể đáp ứng những nhu
cầu hiện tại và tương lai của nhân dân Việt Nam trong quá trình phát triển, cũng
như đã đáp ứng những nhu cầu ấy trong quá khứ. Nguồn tài nguyên thiên nhiên này
không những là cơ sở vững chắc của sự tồn tại của nhân dân Việt Nam thuộc
nhiều thế hệ đã qua mà còn là cơ sở cho sự phát triển của dân tộc Việt Nam trong
những năm sắp tới. Tuy nhiên thay vì bảo tồn nguồn tài nguyên này, nhân dân Việt
Nam dưới danh nghĩa Phát triển kinh tế đang khai thác quá mức và phí phạm nguồn
tài nguyên quý giá này. Nhiều loài hiện đã trở nên hiếm một số loài đang có nguy
cơ bị diệt vong. Nếu biết sử dụng đúng mức và quản lý tốt nguồn tài nguyên sinh
học của Việt nam có thể trở thành nguồn tài nguyên tái tạo rất có giá trị thế nhưng
nguồn tài nguyên này đang suy thoái nhanh chóng. Nếu bạn là một con người tâm
huyết bạn sẽ nghĩ gì ?
Việt Nam
Việt Nam được quốc tế công nhận là một trong những quốc gia có tính đa dạng
sinh học cao nhất thế giới, với nhiều kiểu rừng, đầm lầy, sông suối, rạn san
hô... tạo nên môi trường sống cho khoảng 10% tổng số loài chim và thú hoang dã
trên thế giới.
Việt Nam được Quỹ Bảo tồn động vật hoang dã (WWF) công nhận có 3 trong hơn 200
vùng sinh thái toàn cầu; Tổ chức bảo tồn chim quốc tế (Birdlife) công nhận là một
trong 5 vùng chim đặc hữu; Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên thế giới (IUCN) công nhận
có 6 trung tâm đa dạng về thực vật.
Việt Nam còn là một trong 8 "trung tâm giống gốc" của nhiều loại cây trồng, vật nuôi,
trong đó có hàng chục giống gia súc và gia cầm. Đặc biệt các nguồn lúa và khoai,
những loài được coi là có nguồn gốc từ Việt Nam, đang là cơ sở cho việc cải tiến các
giống lúa và cây lương thực trên thế giới.
Hệ sinh thái của Việt Nam rất phong phú, bao gồm 11.458 loài động vật, hơn 21.000
loài thực vật và khoảng 3.000 loài vi sinh vật, trong đó có rất nhiều loài được sử dụng
để cung cấp vật liệu di truyền.
Trong 30 năm qua, nhiều loài động thực vật được bổ sung vào danh sách các loài của
Việt Nam như 5 loài thú mới là sao la, mang lớn, mang Trường Sơn, chà vá chân xám
và thỏ vằn Trường Sơn, 3 loài chim mới là khướu vằn đầu đen, khướu Ngọc Linh và
khướu Kon Ka Kinh, khoảng 420 loài cá biển và 7 loài thú biển. Nhiều loài mới khác
thuộc các lớp bò sát, lưỡng cư và động vật không xương sống cũng đã được mô tả.
Về thực vật, tính từ năm 1993 đến năm 2002, các nhà khoa học đã ghi nhận thêm 2 họ,
19 chi và trên 70 loài mới. Tỷ lệ phát hiện loài mới đặc biệt cao ở họ Lan.
Để bảo vệ và duy trì hệ sinh thái này, trong những năm qua, Việt Nam đã tăng cường
đầu tư cho các chương trình, dự án bảo tồn sinh học. Theo báo cáo môi trường Việt
Nam 2005, tổng kinh phí đầu tư cho bảo tồn đa dạng sinh học năm 2005 đạt xấp xỉ
51,8 triệu USD, gấp 10 lần so với một thập kỷ trước.
Pec Mơ
Sự kiện tuyệt chủng kỷ Permin-kỷ Trias
Kỷ Permi kết thúc với sự kiện tuyệt chủng rộng lớn nhất được ghi lại trong cổ sinh
vật học: Sự kiện tuyệt chủng kỷ Permi-kỷ Trias. 90% đến 95% các loài sinh vật biển
đã tuyệt chủng, cũng như khoảng 70% loài sinh vật trên cạn. Ở mức độ riêng rẽ, có lẽ
tới 99,5% số lượng các loại sinh vật khác nhau đã biến mất do hậu quả của sự kiện
này.
Ở đây cũng có các chứng cứ đáng kể cho thấy sự ngập lụt rộng khắp gây ra bởi đá
bazan nóng chảy từ sự phun trào macma đã gây ra sức ép môi trường và dẫn tới sự
tuyệt chủng hàng loạt. Sự suy giảm môi trường sống ven biển và độ khô cằn tăng lên
cũng góp phần vào sự kiện này.
Một giả thuyết khác cho rằng đó là do sự phun trào khí sulfua hiđrô từ lòng biển cả.
Các phần của đại dương bị mất ôxy hòa tan trong nước theo chu kỳ đã cho phép các
chủng loại vi khuẩn sống không cần ôxy có thể phát triển mạnh mẽ và tạo ra một
lượng lớn khí sulfua hiđrô. Nếu một lượng lớn khí này được tích lũy trong khu vực
thiếu ôxy thì nó có thể thoát ra ngoài khí quyển.
Các loại khí có tính ôxi hóa trong khí quyển có thể triệt tiêu loại khí độc này nhưng
sulfua hiđrô có lẽ đã tiêu thụ hết tất cả khí trong khí quyển có thể chuyển hóa nó.
Nồng độ sulfua hiđrô đã tăng lên một cách đáng kể trong vài trăm năm.
Mô hình hóa sự kiện như thế đã chỉ ra rằng khí này có thể tiêu hủy ôzon trong các tầng
trên của khí quyển, làm cho bức xạ tia cực tím lại tiếp tục giết chết nốt các loài đã
sống sót sau sự phun trào khí độc này (Kump và những người khác, 2005). Tất nhiên,
còn tồn tại những loài có thể chuyển hóa sulfua hiđrô.
Thậm chí người ta còn đưa ra một giả thuyết mang tính suy đoán nhiều hơn là các bức
xạ mãnh liệt từ các siêu tân tinh cận kề là nguyên nhân gây ra sự tuyệt chủng này.
Trùng ba lá đã phát triển thịnh vượng kể từ kỷ Cambri, cuối cùng đã bị tuyệt chủng
trước khi kỷ Permi kết thúc.
Năm 2006, một nhóm các nhà khoa học Hoa Kỳ từ Đại học quốc gia Ohio thông báo
rằng có chứng cứ cho thấy tồn tại một hố do thiên thạch (hố vùng đất Wilkes) gây ra
với đường kính khoảng 500 km tại châu Nam Cực. Hố này nằm ở độ sâu 1,6 km phía
dưới lớp băng của khu vực vùng Wilkes ở miền đông châu Nam Cực. Các nhà khoa
học đã suy đoán là va chạm mạnh này có thể đã gây ra sự kiện tuyệt chủng kỷ Permi-
kỷ Trias, mặc dù niên đại của nó là dao động trong khoảng 100-500 triệu năm trước.
Họ cũng suy doán là nó cũng góp phần bằng một cách thức nào đó đối với sự chia tách
của Australia ra khỏi khối đất Nam Cực, mà khi đó cả hai đều là các phần của siêu lục
địa Gondwana.
GHI NHẬN
Số lượng sự tuyệt chủng loài đã được ghi nhận những thế kỷ vừa qua là nhỏ hơn rất
nhiều so với sự dự đoán cho những thập kỷ sắp tới . Sự khác biệt này, một phần là do
sự gia tăng tốc độ mất nơi cư trú trong những thập kỷ gần đây, một phần cũng do
những khó khăn của việc ghi nhận sự tuyệt chủng. Phần lớn các loài vẫn chưa được
miêu tả, và nhiều loài có thể đã biến mất trước khi chúng được các nhà khoa học biết
đến. Hơn thế nữa, các loài nói chung thường không được công bố bị tuyệt chủng cho
đến sau khi chúng được nhìn thấy lần cuối cùng - do đó những tính toán đối với sự
tuyệt chủng là chỉ có mức độ. Cuối cùng, một số loài mà quần thể của chúng bị giảm
sút do việc mất nơi cư trú dưới ngưỡng cần thiết để suy trì sự sống sót lâu dài có thể
vẫn tồn tại trong vài thập kỷ mà không có hy vọng phục hồi khi quần thể của chúng
bị suy thoái, chúng được gọi là "living dead".
Sự tuyệt chủng, đặc biệt các quần thể riêng biệt, là quá nhiều . Năm 1990, rái cá đã
biến mất ở Hà Lan, và đến 1991 nước Anh đã công bố loài dơi tai chuột bị tuyệt
chủng. Tại đông Thái Bình Dương, nhiệt độ nước biển nâng cao trong những năm
1980 đã dẫn đến sự tuyệt chủng của một loài san hô thuỷ tức. Trong thập kỷ qua, ít
nhất 34 loài thực vật và động vật có xương sống hoặc các quần thể độc lập của
chúng đã bị tuyệt chủng ở Mỹ trong khi đang chờ sự bảo vệ của chính phủ. Trên toàn
thế giới, trên 700 sự tuyệt chủng động vật có xương sống, không xương sống và thực
vật có mạch đã được ghi nhận từ năm 1600. Còn bao nhiêu loài đã bị tuyệt chủng nữa
bị bỏ qua ?
Việc mất nơi cư trú không chỉ làm gia tăng sự tuyệt chủng loài, mà còn cho thấy sự
suy giảm đa dạng sinh học nơi đó. Ở nhiều nước, chỉ còn tương đối ít các thảm thực
vật tự nhiên chưa bị bàn tay con người đặt tới . Tại Bangladesh, chỉ có 6% thảm thực
vật nguyên thuỷ còn tồn tại . Các cánh rừng xung quang Địa Trung Hải đã từng có
diện tích gấp 10 lần diện tích hiện nay, và ở Hà Lan, Anh chỉ còn ít hơn 4% vùng đầm
lầy đất thấp là chưa bị phá huỷ.
Suy giảm đa dạng di truyền
Suy giảm loài và hệ sinh thái đều đe doạ nghiêm trọng đến đa dạng di truyền. Trên
toàn thế giới, có khoảng 492 quần thể các loài cây khác biệt về di truyền (bao gồm cả
những loài trọn vẹn) đang bị đe doạ. Ở đông bắc Mỹ, 159 quần thể cá đại dương di
cư khác biệt về di truyền đang ở các mức đe doạ tuyệt chủng cao hoặc vừa phải, nếu
không muốn nói chúng đã rơi vào lãng quên.
Suy giảm đa dạng sinh truyền có thể đẩy nông nghiệp vào tình trạng nguy hiểm. Rất
khó có thể nói bao nhiêu cơ sở di truyền đã bị suy giảm, nhưng từ những năm 1950,
việc phổ cập các giống ngô, lúa mì, lúa gạo và các giống cây trồng khác trong "cách
mạng xanh" hiện đại đã thực sự gây sức ép đối với các giống cây trồng bản địa . Các
giống hiện đại được chấp nhận trên 40% các đồng lúa châu á trong 15 năm mà chúng
được đưa ra, và ở Philippin, Indonesia và một số nước khác, hơn 80% người nông dân
hiện nay đã trồng các giống mới . Tại Indonesia, 1500 giống lúa gạo địa phương đã bị
tuyệt chủng từ 15 năm trước. Một điều tra hiện nay ở các vùng của Kenya về giống cà
phê hoang dã đã cho thấy rằng các cây cà phê ở hai vùng đã biến mất, ba vùng đang bị
đe doạ nghiêm trọng, và sáu vùng khác có thể bị đe doạ. Chỉ có hai vùng là được an
toàn.
ảnh hưởng của suy giảm đa dạng di truyền như vậy thường được ghi nhận ngay lập
tức. Năm 1991, sự giống nhau về di truyền của các cây cam Braxin đã gây ra sự bùng
nổ tồi tệ nhất của bệnh thối mục thân cây đã được ghi nhận ở nước này . Năm 1970,
các nông dân Mỹ đã mất khoảng 1 tỷ đô la cho một dịch bệnh lan truyền ở các giống
ngô nhạy cảm và đồng nhất về di truyền. Cũng tương tự như vậy, sự khan hiếm khoai
tây Irish năm 1846, sự mất mùa của lúa mì Sô viết trên một vùng rộng lớn năm 1972,
và sự bùng nổ bệnh thối mục cây cam ở Florida năm 1984, tất cả đều xuất phát từ
việc suy giảm đa dạng di truyền. Tại một số nước như Bangladesh khoảng 62% các
giống lúa gạo có nguồn gốc từ một giống cây mẹ duy nhất, Indonesia (74%), và Sri
Lanka (75%), những sự bùng nổ bệnh dịch như vật có thể xảy ra bất kỳ thời điểm nào
.
Ngân hàng gen là giải pháp có thể làm chậm quá trình suy giảm di truyền, nhưng việc
khôi phục theo định kỳ hạt giống có chi phí cao và nguy cơ hỏng hóc thiết bị có thể
khiến ngân hàng trở nên kém an toàn hơn. Năm 1980, các chuyên gia đã ước tính rằng
ở các nước phát triển khoảng 1/2 đến 2/3 các hạt giống được thu thập trong các thập
kỷ trước đã bị mất đi . Năm 1991, đại diện của 13 ngân hàng gen quốc gia ở châu Mỹ
La tinh đã thống kê được khoảng 5 đến 100% hạt giống ngô đã thu thập từ 1940 đến
1980 đã không còn giá trị.
Đa dạng di truyền là tất cả các gen di truyền khác nhau của tất cả các cá thể thực
vật, động vật, nấm, và vi sinh vật. Đa dạng di truyền tồn tại trong một loài và giữa
các loài khác nhau .
Đa dạng di truyền là sự đa dạng về thành phần gen giữa các cá thể trong cùng một
loài và giữa các loài khác nhau; là sự đa dạng về gen có thể di truyền được trong một
quần thể hoặc giữa các quần thể.
Đa dạng di truyền là biểu hiện sự đa dạng của các biến dị có thể di truyền trong một
loài, một quần xã hoặc giữa các loài, các quần xã. Xét cho cùng, đa dạng di truyền
chính là sự biến dị của sự tổ hợp trình tự của bốn cặp bazơ cơ bản, thành phần của
axit nucleic, tạo thành mã di truyền.
Một biến dị gen xuất hiện ở một cá thể do đột biến gen hoặc nhiễm sắc thể, ở các
sinh vật sinh sản hữu tính có thể được nhân rộng trong quần thể nhờ tái tổ hợp.
Người ta ước tính rằng, số lượng các tổ hợp có thể giữa các dạng khác nhau của các
trình tự gen ở người cũng như ở ruồi giấm đều lớn hơn số lượng các các nguyên tử
trong vũ trụ. Các dạng khác của đa dạng di truyền có thể được xác định tại mọi cấp
độ tổ chức, bao gồm cả số lượng DNA trong mỗi tế bào, cũng như số lượng và cấu
trúc nhiễm sắc thể.
Tập hợp các biến dị gen trong một quần thể giao phối cùng loài có được nhờ chọn
lọc. Mức độ sống sót của các biến dị khác nhau dẫn đến tần suất khác nhau của các
gen trong tập hợp gen. Điều này cũng tương tự trong tiến hoá của quần thể. Như vậy,
tầm quan trọng của biến dị gen là rất rõ ràng: nó tạo ra sự thay đổi tiến hoá tự nhiên
cũng như chọn lọc nhân tạo .
Chỉ một phần nhỏ (thường nhỏ hơn 1%) vật chất di truyền của các sinh vật bậc cao là
được biểu hiện ra ngoài thành các tính trạng kiểu hình hoặc chức năng của sinh vật;
vai trò của những DNA còn lại và tầm quan trọng của các biến di gen của nó vẫn chưa
được làm rõ.
Ước tính cứ 109 gen khác nhau phân bố trên sinh giới thì có 1 gen không có đóng góp
đối với toàn bộ đa dạng di truyền. Đặc biệt, những gen kiểm soát quá trình sinh hóa cơ
bản, được duy trì bền vững ở các đơn vị phân loại khác nhau và thường ít có biến dị,
mặc dù những biến dị này nếu có sẽ ảnh hưởng nhiều đến tính đa dạng của sinh vật.
Đối với các gen duy trì sự tồn tại của các gen khác cũng tương tự như vậy . Hơn nữa,
một số lớn các biến dị phân tử trong hệ thống miễn dịch của động vật có vú được quy
định bởi một số lượng nhỏ các gen di truyền.
Sự tuyệt chủng trong quá khứ
Tốc độ tuyệt chủng hàng loạt
Tốc độ tuyệt chủng thay đổi nhiều theo lịch sử sự sống của trái đất. Các nhà cổ sinh
vật học phân biệt ra năm thời kỳ "tuyệt chủng hàng loạt", các giai đoạn tương đối
ngắn (1 triệu đến 10 triệu năm), trong thời kỳ đó một phần lớn các loài của hàng loạt
các đơn vị phân loại bị tuyệt chủng. Sự tuyệt chủng hàng loạt quan trọng nhất ước
lượng khoảng 77 đến 96% số loài xảy ra vào giai đoạn cuối của kỷ Pecmi (250 triệu
năm trước đây).
Ngoài những tuyệt chủng hàng loạt này ra, tốc độ tuyệt chủng là không cố định. Ví
dụ, từ 250 triệu năm trước, tốc độ tuyệt chủng tương đối cao đã xảy ra 9 lần, giữa các
khoảng thời gian từ 26 đến 28 triệu năm. Hai trong số 9 thời kỳ này đã diễn ra sự tuyệt
chủng hàng loạt, một vào cuối kỷ Triat, 220 triệu năm trước, và một vào cuối kỷ
Creta, 65 triệu năm trước.
Đa dạng sinh học toàn cầu gần đạt giá trị cao nhất từ trước tới nay . Ví dụ, đa dạng
thực vật, đạt được mức cao nhất kể từ hàng chục nghìn năm trước đây . Cũng tương
tự như vậy, đa dạng động vật ở biển đạt đỉnh so với vài triệu năm trước.
Loài người góp phần vào sự tuyệt chủng các loài
Sự góp phần quan trọng đầu tiên của con người vào tốc độ tuyệt củng toàn cầu xảy ra
và khoảng 15.000 đến 25.000 năm trước đây, việc săn bắn một số lượng lớn thú đã
gây ra hoặc góp phần vào sự tuyệt chủng quan trọng ở Bắc, Nam Mỹ và Australia . Ba
lục địa này đã mất 74 đến 86% giống thú lớn, thú lớn hơn 44 kg, vào thời điểm này .
Nguyên nhân của những tuyệt chủng này vẫn là một vấn đề cần bàn luận, thậm chí
nếu con người không phải chịu trách nghiệm hoàn toàn, nhưng rõ hàng nghìn năm qua,
con người đã gây những biến đổi quan trọng sinh cảnh với rất nhiều những ảnh
hưởng được đối với động, thực vật bản địa . Từ ít nhất 50.000 năm, những vụ cháy có
chủ ý đã xảy ra ở các thảo nguyên châu Phi . Cách đây ít nhất 5.000 năm, ở châu Âu, và
khoảng 4000 năm ở Bắc Mỹ, việc phá rừng và biến đổi các vùng đất tự nhiên thành
các bãi chăn gia súc đã xuất hiện tác động đến cấu trúc các quần xã rừng, tạo cơ hội
cho các loài cỏ dại và các loài ăn cỏ như bò rừng Bizon mở rộng phạm vi phân bố và
gây ra sự tuyệt chủng của các loài địa phương. ở Trung Mỹ, rừng đã thực sự biến mất
trên một diện tích lớn từ trước khi người Tây Ban Nha tới .
Quá trình định cư thời tiền sử trên các lục địa của loài người và những sự hội sinh của
họ đã ảnh hưởng căn bản đến tính đa dạng của các loài lục địa . Các hoá thạch chứng
minh rằng 98 loài chim đặc hữu đã hiện diện ở các đảo Hawaii 400 năm trước công
nguyên khi các đảo này lần đầu tiên được người Polynesi định cư. Khoảng 50 loài
trong số đó đã bị tuyệt chủng trước khi những người châu Âu bắt đầu có quan hệ vào
năm 1778.
Phần lớn các chuyên gia đều tin rằng nguyên nhân sự tuyệt chủng này là sự kết hợp
giữa việc phá huỷ những vùng rừng rộng nơi đất thấp để canh tác nông nghiệp, gây sự
xáo trộn cho việc nhập nội các loài (các loài chuột Polynesi, lợn nhà, chó nhà), săn bắn
và ăn thịt. Cũng tương tự như vậy, việc định cư của con người ở New Zealand 1000
năm trước công nguyên, việc nhập nội các loài chó nhà và chuột Polynesi, kết hợp với
việc đốt rừng trên diện tích lớn và săn bắn tập trung vào các loài chim lớn, đã dẫn đến
sự tuyệt chủng của 13 loài chim Moa (loài chim lớn không biết bay) và 16 loài chim
bản địa khác trước khi người châu Âu đặt chân tới .
Loài người được cho rằng là nguyên nhân gây ra những sự tuyệt chủng khác do việc
định cư ở Madagascar 500 năm trước công nguyên và đảo Chatham 1000 năm trước
công nguyên. Sự định cư sớm của con người ở các đảo ngoài đại dương cũng đưa đến
sự tuyệt chủng của 1/4 số loài chim đã tồn tại từ vài triệu năm trước đây .
Cuộc chiến giữa các loài bản địa và nhập nội
Vào thế kỷ 15 và 16, việc phổ cập toàn cầu văn hoá châu Âu cùng với các giống vật
nuôi, cây trồng, cỏ dại, các dịch bệnh đã làm gia tăng việc huỷ diệt các loài động, thực
vật trên các đảo và gây thêm sự đe doạ đối với các loài trên lục địa . Những thế kỷ sau
đó, sự tăng trưởng của du lịch và thương mại xuyên đại dương đã dẫn đến việc lan
truyền một số lượng lớn các loài đến các vùng mới trên trái đất và việc định cư của
con người tại các đảo vốn không có người ở.
Từ năm 1840 đến 1880, hơn 60 loài thực vật đã được đưa vào Australia . Từ 1800 đến
1980, số lượng các loài côn trùng nhập nội và Mỹ tăng từ 36 lên tới 1200 loài .
Nhiều sự định cư của người châu Âu đã có tác động quan trọng đối với các loài động,
thực vật bản địa .Ở Hawaii, các nhà thám hiểm châu Âu đặt chân đến đã mang theo
các loài mèo, hai loài chuột mới, cú lợn, cầy ấn Độ nhỏ, và một số dịch bệnh của
chim. Hai thế kỷ tiếp theo, sự phá huỷ nơi cư trú, dịch bệnh và việc săn bắn đã gây ra
sự biến mất của 17 loài chim bản địa, làm suy giảm 31% tính đa dạng của khu hệ
chim bản địa được xác định vào năm 400 trước công nguyên; nhiều loài giờ đang đứng
ven bờ của sự tuyệt chủng.
Những người châu Âu đầu tiên đặt chân đến các đảo Mascarene không có người ở
(Mauritius, Reunion và Rodrigues) vào đầu những năm 1500 đã đưa đến những đảo này
lợn và khỉ. Vào giữa những năm 1600, người Hà Lan định cư trên các đảo, và trong 300
năm tiếp theo, 20 loài chim, gồm cả chim Dodo, và 8 loài bò sát đã biến mất. Tính
nhạy cảm của các loài bản địa trên đảo được minh hoạ bởi sự huỷ diệt của chim hồng
tước Stephen Island không biết bay, loài này đã bị con mèo duy nhất của người trông
hải đăng ở một hòn đảo nhỏ ngoài khơi New Zealand săn đuổi đến tuyệt chủng
Các nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp
Sự suy giảm đa dạng sinh học hiện nay có cả các nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp.
Các nguyên nhân trực tiếp bao gồm sự phá vỡ và mất nơi cư trú, sự xâm lấn của các
sinh vật nhập nội, sự khai thác quá mức các nguồn tài nguyên sống, sự ô nhiễm, sự
biến đổi khí hậu toàn cầu và các hoạt động nông nghiệp, công nghiệp, lâm nghiệp.
Nhưng đây không phải là bản chất của vấn đề. Kiệt quệ sự sống là một kết quả
không thể tránh khỏi của các cách mà loài người đã và đang lạm dụng môi trường
trong quá trình gia tăng sự thống trị của mình.
Khi con người nhận thức được sự phá huỷ của mình và sự phát triển không bền vững
đang ngày càng tác động đến cuộc sống và tương lai của con người, thì việc nghiên
cứu các hướng giải quyết sẽ phải tập trung vào chính loài người . Bản chất của sự
khủng hoảng đa dạng sinh học là không nằm ngoài các khu rừng hay các thảo nguyên,
mà gắn liền với cách mà chúng ta sống. Đó là sự gia tăng dân số loài người, là cách mà
loài người ngày càng mở rộng nơi cư trú sinh thái của mình và sử dụng ngày càng
nhiều năng suất sinh học của trái đất, là sự tiêu thụ không hợp lý và quá mức các
nguồn tài nguyên thiên nhiên, liên tục giảm số lượng các sản phẩm thương mại có
nguồn gốc từ nông nghiệp và ngư nghiệp, các hệ thống kinh tế thiếu sự định giá thích
hợp cho môi trường, các cấu trúc xã hội không hợp lý, và những yếu kém trong hệ
thống pháp lý và nhà nước. Đa dạng sinh học là một nguồn tài nguyên quan trọng cho
phát triển bền vững, việc tìm kiếm những phương thức sống bền vững là rất cần
thiết nếu muốn đa dạng sinh học được bảo tồn.
Các nguyên nhân suy giảm đa dạng sinh học
Loài có thể bị tiêu diệt do một loạt các ảnh hưởng và tác động của con người . Có thể
chia thành 2 loại chính: trực tiếp (săn bắn, hái lượm, thuần hoá) và gián tiếp (phá huỷ
và biến đổi nơi cư trú).
Săn bắn quá mức là một trong những nguyên nhân trực tiếp rõ ràng nhất gây nên sự
tuyệt chủng của nhiều loài động vật, và ảnh hưởng đến một số loài thú lớn, nổi tiếng.
Tuy nhiên, trong toàn bộ sự suy giảm đa dạng sinh học, chắc chắn nguyên nhân này
không quan trọng bằng các nguyên nhân gián tiếp như phá huỷ và biến đổi nơi cư trú.
Săn bắn chỉ ảnh hưởng chọn lọc đối với các loài đã hoặc đang là những nguồn tài
nguyên có thể thu hoạch được, điều này rất quan trọng đối với quản lý các nguồn tài
nguyên thiên nhiên.
Đa dạng di truyền, biểu hiện bởi sự khác biệt về gen di truyền giữa các quần thể
riêng biệt của một loài hoang dã, có thể bị giảm sút do việc loài cùng chịu tác động
của những nhân tố giống nhau . Đa dạng di truyền, biểu hiện qua các quần thể vật
nuôi, cây trồng, có thể bị giảm sút do việc tạo ra một số lượng lớn; với mức độ đồng
nhất cao .
Hầu như bất kỳ dạng hoạt động nào của con người cũng gây biến đổi môi trường tự
nhiên. Sự biến đổi này sẽ tác động đến sự phong phú tương đối của loài và trong
nhiều trường hợp đặc biệt sẽ dẫn đến sự tuyệt diệt. Kết quả này cũng có thể do nơi
cư trú trở nên không thích hợp đối với loài (ví dụ, chặt sạch cây rừng hoặc ô nhiễm
nước sông), hoặc do nơi cư trú bị phá vỡ. Ngoài ra còn có ảnh hưởng của sự chia cắt
các quần thể loài liền kề trước đây thành các quần thể con nhỏ hơn. Nếu những quần
thể này đủ nhỏ, cùng với sự thay đổi các tiến trình, sẽ đưa đến việc gia tăng xác suất
tuyệt diệt trong một thời gian tương đối ngắn.
Một số nguyên nhân chính
Sự suy giảm đa dạng sinh học là một vấn đề đang được các nhà khoa học và các nhà
hoạch định chính sách rất quan tâm. Các loài đang bị tuyệt chủng với tốc độ nhanh
nhất được biết đến trong lịch sử địa chất và phần lớn những tuyệt chủng này là do các
hoạt động của con người .
Mất và phá huỷ nơi cư trú: thường là kết quả trực tiếp do các hoạt động của con
người và sự tăng trưởng dân số, là nguyên nhân chính dẫn đến sự suy giảm loài, quần
thể và hệ sinh thái
Sự thay đổi trong thành phần hệ sinh thái: chẳng hạn như mất hoặc suy giảm của
một loài có thể dẫn đến sự suy giảm đa dạng sinh học. Ví dụ, nỗ lực loại trừ chó sói
châu Mỹ ở miền nam California dẫn đến viêck giảm sút các quần thể chim hót trong
vùng. Khi quần thể chó sói châu Mỹ giảm sút, quần thể con mồi của chúng, gấu trúc
Mỹ, sẽ tăng lên. Do gấu trúc Mỹ ăn trứng chim, nên khi số lượng chó sói ít hơn thì số
lượng gấu trúc ăn trứng chim lại nhiều lên, kết quả là số lượng chim hót sẽ ít đi .
Sự nhập nội các loài ngoại lai: có thể phá vỡ toàn bộ hệ sinh thái và ảnh hưởng đến
các quần thể động vật hoặc thực vật bản địa . Những kẻ xâm chiếm này có thể ảnh
hưởng bất lợi cho các loài bản địa do quá trình sử dụng các loài bản địa làm thức ăn,
làm nhiễm độc chúng, cạnh tranh với chúng hoặc giao phối với chúng.
Khai thác quá mức (săn bắn quá mức, đánh cá quá mức, hoặc thu hoạch quá mức) một
loài hoặc một quần thể có thể dẫn tới sự suy giảm của loài hoặc quần thể đó.
Gia tăng dân số: Đe dọa lớn nhất đối với đa dạng sinh học là số lượng và tốc độ gia
tăng dân số của loài người . Ngày lại ngày, ngày càng nhiều nhiều đòi hỏi ngày càng
nhiều không gian sống, tiêu thụ ngày càng nhiều tài nguyên và tạo ra ngày càng nhiều
chất thải trong khi dân số thế giới liên tục gia tăng với tốc độ đáng báo động.
Ô nhiễm do con người gây ra có thể ảnh hưởng đến mọi cấp độ của đa dạng sinh
học.
Biến đổi khí hậu toàn cầu có thể làm thay đổi các điều kiện môi trường. Các loài và
các quần thể có thể bị suy giảm nều chúng không thể thích nghi được với những điều
kiện mới hoặc sự di cư.
Gia tăng dân số
Đe dọa lớn nhất đối với đa dạng sinh học là số lượng và tốc độ gia tăng dân số của
loài người . Ngày lại ngày, ngày càng nhiều người, đòi hỏi ngày càng nhiều không gian
sống, tiêu thụ ngày càng nhiều tài nguyên và tạo ra ngày càng nhiều chất thải trong khi
dân số thế giới liên tục gia tăng với tốc độ đáng báo động.
Sự gia tăng dân số loài người sẽ làm giảm đa dạng sinh học theo các hướng sau:
• Gây biến đổi nơi cư trú do sự phát triển nông nghiệp, đô thị, công nghiệp, và
khai thác quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
• Gây ô nhiễm đất, nước, và không khí
• Khai thác quá mức các nguồn tài nguyên làm giảm cả về kích cỡ và đa dạng di
truyền của các quần thể loài thương mại, chẳng hạn như cá.
• Nhập nội các loài ngoại lai làm phá huỷe các nguồn tài nguyên đất, nước và đôi
khi còn đem đến cả những dịch bệnh cùng với những loài này . Ngoài ra, chúng
có thể cạnh tranh với những loài động, thực vật bản địa về thức ăn và nơi cư
trú. Một số loài động vật, như mèo và cáo, còn trực tiếp tiêu diệt các loài bản
địa .
• Gây ra sự ấm toàn cầu do tăng phát thải lượng cacbon dioxit và các khí khác
vào khí quyển, chúng làm biến đổi các hệ sinh thái tự nhiên ở mọi nơi . Một
trong các nguyên nhân của việc tăng mức cacbon dioxit là do đốt các nhiên liệu
có nguồn gốc cacbon như than, dầu và gas.
Ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường đối với đa dạng sinh học
Có rất nhiều tài liệu về sự hiện diện và ảnh hưởng của các chất gây ô nhiễm trong
môi trường, nhưng rất ít nói đến ảnh hưởng của chúng đối với đa dạng sinh học,
ngoại trừ một vài nhóm chất gây ô nhiễm. Để giúp cho các nghiên cứu trong tương lai
và cho việc hoạch định chính sách, một khung phân loại các hợp chất nguy hại theo
mức độ tác động tương đối của chúng đối với đa dạng sinh học đã được đề xuất.
Khung này dựa cơ sở trên hệ thống phân loại đất đã có của Canada, cùng với các ảnh
hưởng nguy cấp và bất lợi tại các vùng sinh thái . ảnh hưởng đối với đa dạng sinh học
được sắp xếp theo 3 cấp độ đa dạng sinh học - di truyền, quần thể và hệ sinh thái .
Những đặc tính quan trọng ảnh hưởng đến tác động của một chất gây ô nhiễm tại
một vùng sinh thái là tính chọn lọc, phạm vi phát tán và tính bền của nó.
Các tác động về mặt di truyền của các chất gây ô nhiễm là khó đánh giá nhất, bởi lẽ
có rất ít những nghiên cứu về các ảnh hưởng này trong các quần thể tự nhiên. Thuốc
trừ sâu rõ ràng tạo ra những biến đổi về gen di truyền, chẳng hạn như sự xuất hiện
của các giống thực vật và động vật có tính đề kháng. Sự phát triển của tính đề kháng
này có thể phải trả giá bằng sự suy giảm tính đa dạng, do làm giảm khả năng đề
kháng của sinh vật đối với các tác nhân khác.
Đối với các tác động của các chất gây ô nhiễm lên quần thể, điểm khó là phân biệt
chúng với các thay đổi bất thường tự nhiên. Ngoại trừ với một vài loài chim và thú, có
rất ít những hiểu biết để có thể phân biệt được giữa hai biến đổi trên. Ảnh hưởng đối
với hệ sinh thái của các chất gây ô nhiễm là sự thay đổi hướng phát triển của hệ sinh
thái khác với hướng phải theo .
Một minh hoạ cho việc sắp xếp các nhóm chất gây ô nhiễm theo ảnh hưởng của
chúng đối với đa dạng sinh học: hydrocacbon (đặc biệt là dầu thô), chất hữu cơ bị
halogen hoá (thuốc trừ sâu và các chất khác như các hợp chất PCB), nuclit phóng xạ,
chất axit lắng đọng, kim loại, chất dinh dưỡng, thuốc trừ sâu phi clo hữu cơ. Trong số
này, chất axit lắng đọng và chất dinh dưỡng được xếp vào loại đe doạ nguy hiểm
nhất đối với mức vùng sinh thái .
Sự biến đối khí hậu
Thực vật và động vật rất nhạy cảm với thời tiết. Khi thời tiết biến đổi, các loài không
thể sống sót được ở một số vùng và sẽ di cư đến các vùng mới . Nếu không có vị trí
nào thích hợp, loài sẽ bị tuyệt chủng khi không thể thích nghi kịp.
Khí hậu trong quá khứ đã có những thay đổi rất đột ngột. Những phản ứng của các
quần xã sinh vật trước những biến đổi này đã được tìm hiểu qua việc phân tích các
vòng tuổi cây, lõi băng, các trầm tích của phấn hoa, than chì, động vật không xương
sống và các nguyên tố hoá học. Một số các biến đổi thời tiết bất ngờ, xảy ra trong
một vài thập kỷ hoặc thế kỷ, một số trong đó có liên quan đến những thời kỳ có sự
tuyệt chủng hàng loạt.
Những sự chuyển dịch quan trọng về ranh giới giữa các rừng lãnh nguyên và rừng
phương bắc, giữa vùng rừng và vùng đồng cỏ, giữa vùng Hồ Lớn - rừng St. Lawrence
và vùng rừng phương bắc đã xảy ra từ thời kỳ băng hà trước đây . Những sự chuyển
dịch này tương ứng với những biến đổi khí hậu và có thể được coi là sự biểu hiện
của các trường hợp biến đổi khí hậu toàn cầu .
Lửa là một sự xáo trộn có liên quan đến khí hậu, gây ra những biến đổi chính đối với
các khu rừng ở phía bắc. Những trận cháy là công cụ để tạo nên hình dạng của thảm
thực vật của vùng Quebec ở phía bắc, và những trận cháy này cũng có phần lớn
nguyên nhân do khí hậu .
Khí hậu hiện nay, cùng sự thất thường và khắc nghiệt của nó, hiển nhiên có những
ảnh hưởng đối với các hệ sinh thái . Ví dụ, mùa hè năm 1988, được chứng minh là một
trong những trận hạn hán tồi tệ nhất trong lịch sử, đặc biệt ở các thảo nguyên của
Canada, và số lượng chim nước đã giảm rất nhiều trong suốt thời kỳ khô hạn của
những năm 1980. Gần đây, sự phóng xạ của các tia tử ngoại tăng lên do những biến
đổi của tầng ô zôn trong tầng bình lưu đã được phát hiện, và đã có những chứng cứ
ban đầu về gây tổn hại đối với mùa màng nông nghiệp, đối với thực vật, động vật ở
các vùng đất ngập nước, các ao nông và các môi trường biển gần bờ.
Các nhà khoa học đã có những thống nhất chung về việc khí hậu toàn cầu sẽ ấm lên
bởi sự tăng lên về nồng độ của các khí "nhà kính", như cacbon dioxit, metan, là kết
quả các hoạt động của con người . Xu hướng ấm lên của khí hậu trong tương lai này
làm gia tăng sự nghi ngờ về tính ổn định của nhiều quần xã sinh vật ở Canada và các
hoạt động quản lý được tiến hành trong phạm vi tính biến thiên khí hậu hiện nay .
Các nghiên cứu trước mắt về các ảnh hưởng có thể của sự biến đổi khí hậu đối với
các hệ sinh thái Canada đã đưa đến 2 kết luận chính. Thứ nhất, tốc độ dự đoán của
quá trình ấm lên toàn cầu là tương đối nhanh, có thể so sánh với thời kỳ địa chất trước
đây, kết quả gây thiệt hại trong phạm vi lớn đối các quần xã thực vật sinh trưởng
chậm, không thể thích nghi trong cùng một khoảng thời gian. Ví dụ, vùng rừng
phương bắc có thể mất đi một triệu cây số vuông. Thứ hai, cùng với sự ấm lên toàn
cầu sẽ đưa đến sự thay đổi, thường là tăng, về tần số xuất hiện của những xáo trộn
do khí hậu khắc nghiệt chẳng hạn như cháy, côn trùng, bệnh tật, hạn hán và sương
giá. Các trường hợp này được cho rằng quan trọng hơn những biến đổi nhiệt độ trung
bình toàn cầu trong những ảnh hưởng kết hợp đối với đa dạng sinh học.
Thay đổi khí hậu còn là phương tiện của sự phát tán các chất gây ô nhiễm. Sự ô
nhiễm không khí một mình hoặc kết hợp với sự biến đổi khí hậu có khả năng gây ra
những ảnh hưởng bất lợi cho đa dạng sinh học ở mọi cấp độ. Các ảnh hưởng này,
không giống sự phá huỷ nơi cư trú, khó phát hiện, có mối tương quan với nhau và khó
đánh giá. Axit lắng đọng là chất ô nhiễm không khí gây ra những biến đổi lớn nhất ở
phạm vi rộng đối với đa dạng sinh học ở Canada . Những ảnh hưởng đối với đa dạng
sinh học của những chất ô nhiễm không khí khác như ôzôn, nitrogen oxit, hợp chất
hữu cơ dễ bay hơi, các hoá chất độc hại thường ít được biết đến.
4. Những hành động toàn diện để bảo tồn đa dạng sinh học
4.1 Xây dựng ngân hàng gen quốc gia
Công nghệ hiện nay cho phép bảo quản các loại hạt, mô của các loài cây, trừng, noãn
và tinh trùng động vật ở nhiệt độ dưới 0 trong nhiều năm hoặc trong một vài trường
hợp nhất định. Đây sẽ là sự lường trước sáng suốt thêm một khả năng thứ ba cho công
tác bảo tồn và tạo nên ngân hàng gen cho các loài đặc sản hiếm.
Có một số nhu cầu rõ ràng là phải xác định một cơ quan có thẩm quyền nắm vai trò
lãnh đạo trong lĩnh vực này, xây dựng một chiến lược bảo tồn ngân hàng gen quốc gia,
chi phí hoạt động của chương trình và khuyến khích và theo dõi sự thực hiện một
chiến lược như thế. Hoạt động này được mô tả trong dự án C1. Chương trình phải
phối hợp chặt chẽ với những nỗ lực để tiến hành gây nuôi các loài hiếm, và không
cần chuyển những nguồn tài nguyên từ những cố gắng bảo tồn nội vi . MOSTE đã có
một cơ quan điều phối để bảo vệ tài nguyên gen di truyền. Một cơ quan tương tự cần
có cho tài guyên động vật.
4.2 Bảo quản tính đa dạng sinh học trong nông nghiệp
Gia súc, hoa quả, rau và màu đã được xây dựng hàng trăm năm nay ở mọi miền của
Việt Nam. Mỗi loài có một đặc thù riêng và ưu điểm riêng. Một số loài đã thích nghi
với cuộc sống lạnh, khô, cao, đầm lầy hoặc các điều kiện địa phương đặc biệt khác,
có một số loài rất cứng, một số loài khác sinh sản hoặc phát triển rất nhanh, một số
loài vẫn còn trụ lại được đối với những loài sâu bệnh đặc biệt của địa phương, một
số loài được chọn để đáp ứng những khẩu vị riêng. Nhìn chung, những loài đa dạng
này là kết quả của kinh nghiệm chọn lựa trong ba nghìn năm thuần hoá ở Việt Nam.
Chúng là những thành phần của đa dạng sinh học rất quan trọng đối với con người
Việt Nam. Chúng rất quan trọng đối với sự tồn tại của loài người do cả đóng góp trực
tiếp là lương thực, quần áo và nhiên liệu cũng như gián tiếp đóng góp vào nông nghiệp
ổn định bằng việc sản xuất phân hoá học, kiểm soát bãi chăn thả và giúp cải tạo đất.
Tuy nhiên, rất nhiều giống đang gặp nguy hiểm vì đang bị mất đi . Giống lợn bụng
lang nổi tiếng của Việt Nam nay có vẻ thấy nhiều ở Anh và California hơn là ở trong
những gia đình nông dân Việt Nam.
Để đáp ứng các nhu cầu bảo tồn những giống tăng gia truyền thống, được nhận biết ở
Việt Nam. Những hoạt động nhằm vào duy trì cơ sở nuôi tạo hiện có cho đến khi
chúng đóng góp vào đa dạng của các gia súc có thể được đánh giá. Một chính sách
quốc gia đang được xây dựng và sẽ dấn đến kết quả là kế hoạch hành động cho
chương trình này cũng đa dạng và in ấn áp phích và tập gấp xác định rõ ràng về những
loài này (dự án P2 bao trùm vấn đề này).
Các vùng trọng điểm nơi cần phải kiểm soát kinh doanh là cảng Hồ Chí minh, Nha
trang và Hải phòng, các sân bay quốc tế, các chợ ở thành phố Hồ Chí Minh, Buôn Ma
Thuột và Hà Nội, cửa khẩu biên giới Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai và biên giới Lào
và Campuchia (dự án P10).
4.4 Kiểm soát cháy rừng
Cần phải có các hoạt động sau đây phòng cháy rừng:
• Đề ra luật và quy chế bảo vệ rừng;
• Phát động chiến dịch truyền thông và các chương trình phổ cập;
• Chương trình canh tác trên đất dốc để giảm du canh (chỉ làm sau khi nghiên cứu
văn hoá xã hội kỹ càng);
• Xây dựng các uỷ ban cấp làng, huyện, tỉnh chống cháy rừng gồm cả đội chữa
cháy công cộng và tuần tra vào mùa cháy;
• Dự báo cháy, trồng rừng hoặc vành đai xanh cản lửa, xây dựng hồ chứa nước,
tháp canh lửa;
• Tiến hành những biện pháp phòng cháy khác nhau như chuyển những vật dễ
cháy đi nơi khác, dọn quang hoặc đốt trước những vành đai dễ cháy .
• Những quy chế cụ thể và đào tạo áp dụng kỹ thuật chữa cháy .
Chương trình khá thành công và diện tích rừng bị cháy trong những năm qua ít hơn
nhiều những năm trước. BAP không cần đề xuất thêm dự án bổ sung.
Mỗi tỉnh cần phải thành lập kế hoạch chống cháy riêng của mình phù hợp với điều
kiện và tài nguyên của địa phương. Việc bảo vệ cuộc sống của nhân dân và đội chống
cháy phải được ưu tiên và kế hoạch phải có dự phòng để xử lý nhanh những người bị
nạn.
4.5 Khôi phục sinh cảnh tự nhiên
Trong những khu vực mà sinh cảnh quan trọng đối với bảo tồn đa dạng sinh học bị
mất, hay ở nơi nào những mối liên kết sinh kết phải được phục hồi, thì phải thực
hiện một chương trình phục hồi sinh cảnh thiên nhiên.
Những hành động sau phải được thực hiện:
i) Xác định khu vực:
Công tác này phải được quyết định bởi việc xem xét về phương diện sinh học và
những vấn đề về dân số học như mật độ dân cư, những khu vực dân tộc hay những
ranh giới hành chính. Đặc tính của thảm thực vật và khu hệ động vật và khu vực gần
diện tích có tầm quan trọng về sinh học hàng đầu bao gồm những khu rừng đặc dụng
cũng cần phải được xem xét.
Được đề xuất rằng những mảng tối thiểu cỡ 500 ha được coi là mảng nhỏ đòi hỏi
được đầu tư quản lý nhiều hơn. Tuy nhiên giới hạn này có thể thay đổi theo điều kiện
thực hiện của địa phương.
Để thiết kế việc sử dụng đất trong tương, cần phải có những quyết định theo những
tiêu chuẩn sau:
a. Điều kiện thảm thực vật.
a. Điều kiện thổ nhưỡng: Phải được xác định đặc điểm tốt hay xấu tuỳ thuộc vào
đất có bị xuống cấp hay không do đã từng bị làm cho bạc màu .
a. Tính dễ tiếp cận khu vực: Mức độ gần của khu vực tiếp cận với những trung
tâm dân cư.
a. Mức độ tập trung của những diện tích rừng bị phá, xuống cấp hay đất trồng:
Nếu mảng tường trên 60% toàn bộ diện tích thì nó sẽ được quản lý sâu về
phương diện kinh tế.
ii) Đối với từng khu vực quản lý có những hành động thích hợp quyết định bởi:
a. Xác định tính chất của những hệ thống đất và xác định tiềm năng sử dụng đất.
a. Chọn lựa những đất thích hợp nhất sử dụng những giải pháp tiềm năng khác
nhau trên cơ sở những nhân tố và hạn chết về kinh tế, tổ chức và xã hội .
Một số phương pháp sử dụng đất hữu hiệu là:
• Rừng được quản lý
• Cây lớn ngắn ngày và rừng trồng lâu dài
• Tổ hợp nông lâm kết hợp
• Khai thác rừng có quản lý dẫn đến việc hình thành rừng nguyên sinh tự nhiên
hoặc bán tự nhiên.
• Những khu không được xử lý cũng có thể mang lại hiệu quả trong một phương
diện, ví dụ bãi cỏ chăn thả gia súc.
Tiếp theo việc thiết kế việc sử dụng đất thích hợp, một bản đề xuất và kế hoạch phát
triển cần được xây dựng để thực hiện.
iii) Những giải pháp quản lý nguyên tắc hiện có là:
• Không xử lý
• Sản lượng tăng thông qua việc xử lý việc khai thác rút ngắn chu kỳ không hiệu
quả.
• Sản lượng tăng thông qua phát triển và sử dụng lâm sản ngoài gỗ.
• Chuyển sang trồng rừng và nông lâm kết hợp.
iv) Sự can thiệp cơ bản của kỹ thuật liên quan đến:
• Cải thiện đất đã khai thác thông qua những can thiệp về lâm sinh và những
biện pháp khác.
• Phát triển những cây hữu ích trên đất thoái hoá và đất trồng thông qua việc
trồng tăng cường và khai thác chọn.
Cần phải tiến hành nghiên cứu chọn những loài sẽ túc đẩy việc hình thành thảm thực
vật hữu ích (dự án C4). Có vè là phương pháp được thông qua chính là phương pháp
quan tâm đến thành công "tự nhiên". Vì vậy cần phải được xem xét việc lựa chọn
những loài thích hợp cần được thúc đẩy trước khi xem xét xác định loài cụ thể. Một
khi đã xác định loài lựa chọn, những loài địa phương có thể được chọn theo cho có
hiệu quả hay vì những giá trị khác do dân địa phương chỉ định.
Việc thực hiện những hoạt động phục hổi cần phải:
• Dân địa phương tham gia và mang lại lợi ích cho họ
• Những nghĩa vụ nhiều mặt cải thiện đất kết hợp với những quyền lợi chủ đất
được khai thác chúng và những đất khác theo thực tiến điều hoà.
• Tạo điều kiện đóng góp nhiều tài liệu và những đầu tư khác phù hợp với
phương thức tốt nhất tạo thuận tiện thiết kế sử dụng đất.
4.6 Chương trình giảm sát đang dạng sinh học
Một chương trình kiểm tra đa dạng sinh học cần được quyết định xem có áp dụng
những quy chế và phương thức quản lý tiên tiến tác động tích cực đến bảo tồn đa
dạng sinh học hay không. Chương trình kiểm tra bao gồm bảy nhân tố chính sau:
Giám sát môi trường sống
Viện đều tra quy hoạch (FIPI) sẽ tiếp tục giám sát những thay đổi hàng năm về độ che
phủ rừng và mật độ rừng trên toàn đất nước bằng phương pháp điều tra viễn thám.
Chương trình điều tra viễn thảm này kiểm chứng lại hàng loạt điều tra trên mặt đất
của hơn 5000 khu vực điều tra phương vị trên toàn quốc. Để công việc này thành công.
Viện điều tra quy hoạch rừng cần phải hợp tác và phối hợp với rất nhiều bộ và cơ
quan điều tra các lĩnh vực có liên quan.
Giám sát các điều kiện trên mặt đất
Mỗi khu bảo tồn chính sẽ tiến hành một chương trình điều tra riêng theo chỉ đạo quốc
gia . Một chương trình điều tra rừng trên 5000 khu vực mẫu đang được triển khai và
phải được tiếp tục. Loại hình giám sát này vì thế là một bộ phận của những dự án
rừng đặc dụng cá thể được trình bày trong BAP trong chương 3.2.
Giám sát về các loài chỉ thị
Việc điều tra các loài cụ thể phải được tiếp tục tiến hành về tình trạng và phân bố
của các loài chủ yếu và bức xúc. Những điều tra như thế sẽ được phối hợp giữa Bộ
Lâm nghiệp và Viện điều tra quy hoạch rừng nhưng sẽ được tiến hành bởi các nhà
khoa học. Một danh mục những yếu tố điều tra phải được xây dựng.
Giám sát các dữ liệu
Một chương trình cần phải được vạch ra cùng với rất nhiều loại thông tin khác nhau
và kết quả phân tích dữ liệu cho một cái nhìn sâu vào xu hướng và những chỉ dẫn về
quản lý. Vì vậy cần phải xây dựng trung tâm dữ liệu đa dạng sinh học (dự án C 6)
đảm bảo duy trì cơ sở dữ liệu về tổng thể các loài, môi trường sống, vị trí gắn với
việc lập bản đồ và khả năng của hệ thống thông tin địa lý. Một bộ phận đặc biệt có
thể là cơ sở dữ liệu đa dạng sinh học biển như mô tả trong dự án C7.
Trung tâm này sẽ bao gồm một mạng lưới gắn những cơ sở hiện có tại Viện Điều tra
quy hoạch rừng, Bộ ài chính, Viện sinh thái và tài nguyên sinh học và một văn phòng
điều phối mới phải được thành lập trong Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường.
Ba dự án quốc tế sẽ là phương tiện giúp đõ xây dựng mạng lưới này - việc đào tạo hệ
thống thông tin địa lý trong khuôn khổ dự án GEF; được hỗ trợ thông qua dự án của
ngân hàng thế giới xem xét lại hệ thống các khu vực bảo vệ của khu vực
IndoưMalayan; và vùng RAS/93/102 với bộ phận chung dữ liệu xuyên biên giới của
nó.