Nha Trang
Anh về Bình Định thăm cha
Phú Yên thăm mẹ, Khánh Hòa thăm em
Khánh Hòa là xứ trầm hương
Non cao, biển rộng, người thương đi về
I Tổng Quan Về Nha Trang
Nha Trang là một thành phố ven biển và là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa
học kỹ thuật và du lịch của tỉnh Khánh Hòa, Việt Nam. Trước khi trở thành phần đất
của Việt Nam, Nha Trang thuộc về Chiêm Thành. Các di tích của người Chăm vẫn còn
tại nhiều nơi ở Nha Trang. Nha Trang được Thủ tướng chính phủ Việt Nam công
nhận là đô thị loại 1 vào ngày 22 tháng 4 năm 2009. Đây là một trong 4 đô thị loại 1
trực thuộc tỉnh cùng với Huế, Đà Lạt và Vinh
Các bãi biển đẹp của thành phố này đã biến nó thành một danh lam thắng cảnh. Nơi
đây cũng được biết đến như một địa điểm lý tưởng để tổ chức các sự kiện lớn như
Festival Biển (Nha Trang), hay các cuộc thi sắc đẹp lớn như Hoa hậu Việt Nam, Hoa
hậu Thế giới người Việt 2007 và 2009, Hoa hậu Hoàn vũ 2008, Hoa hậu Thế giới
2010...
01 Địa lý
Thành phố Nha Trang hiện nay có diện tích tự nhiên là 251 km², dân số 350.375 người
(2005)[1]. Phía Bắc giáp huyện Ninh Hòa, phía Nam giáp huyện Cam Lâm, phía Tây giáp
huyện Diên Khánh, phía Đông giáp Biển Đông.
01.1 Đồng bằng Diên Khánh - Nha Trang
Nha Trang nằm ở phía Đông Đồng bằng Diên Khánh - Nha Trang. Một đồng bằng
được bồi lấp bởi sông Cái Nha Trang có diện tích gần 300 km², địa hình đòng bằng bị
phân hóa mạnh:
• phần phía Tây dọc sông Chò từ Khánh Bình đến Diên Đồng bị bóc mòn, độ cao
tuyệt đối khoảng 10-20 m
• phần phía Đông là địa hình tích tụ độ cao tuyệt đối dưới 10m, bề mặt địa hình
bị phân cắt mạnh bởi các dòng chảy.
01.2 Sông Cái Nha Trang
Sông Cái Nha Trang (còn có tên gọi là sông Phú Lộc, sông Cù) có chiều dài 79 km, phát
nguyên từ Hòn Gia Lê, cao 1.812 m, chảy qua các huyện Khánh Vĩnh, Diên Khánh và
thành phố Nha Trang rồi đổ ra biển ở Cửa Lớn (Đại Cù Huân). Sông Cái Nha Trang có
7 phụ lưu, bắt nguồn ở độ cao từ 900 đến 2.000 m nhưng lại rất ngắn, thường dưới
20 km nên độ dốc rất lớn tạo nhiều ghềnh thác ở thượng lưu. Sông chảy đến thôn
Xuân Lạc, xã Vĩnh Ngọc, thành phố Nha Trang thì chia làm 2 nhánh:
Một nhánh chảy theo hướng Đông-Nam, men theo chân núi Đồng Bò, chảy xuống
Trường Đông, Vĩnh Trường và chảy ra cửa biển Tiểu Cù Huân, gọi là Cửa Bé. Nhánh
này hiện nay đã bị lấp, chỉ đến mùa nước lũ, dòng chính mới hiện rõ.
Nhánh thứ hai chảy xiên theo hướng Đông - Bắc (đây là nhánh chính của sông Cái) từ
Xuân Lạc, xã Vĩnh Ngọc chảy đến Ngọc Hội, sông chia làm 2 chi:
• Chi thứ nhất chảy vào Phương Sài, gọi là Ngư Trường (người xưa mượn bến
Trường Cá tại Phường Củi mà đặt), rồi chảy xuống Hà Ra (nơi đây xưa kia,
nước xoáy tạo thành một đầm rộng gọi là đầm Xương Huân nay đã bị lắp để
xây chợ Đầm) rồi chảy tiếp ra cửa Đại Cù Huân, tức Cửa Lớn Nha Trang.
• Chi thứ hai rộng và sâu hơn, chảy xuống Xóm Bóng - Cù Lao, rồi cũng chảy ra
cửa Nha Trang như chi kia.
Hai chi trước khi chảy ra cửa biển, gặp nhau và cùng ôm lấy cồn đất phù sa, tên gọi là
Cồn Dê (Cồn Ngọc Thảo).
Phần thượng lưu của sông Cái Nha Trang có rất nhiều thác. Từ cửa sông Chò trở lên
thì có thác Đồng Trăng, thác Ông Hào, thác Đá Lửa, thác Nhét, thác Mòng, thác Võng.
Qua khỏi thác Võng thì có thác Dằng Xay, thác Tham Dự, thác Ngựa, thác Hông
Tượng, thác Trâu Đụng, thác Giang Ché, thác Trâu Á, thác Nai, thác Rùa, thác Hòm...
Phần trên nguồn còn có rất nhiều thác nhưng ít người lên đến nên không có tên gọi.
02 Khí hậu
Khí hậu Nha Trang tương đối ôn hòa hơn. Thường có 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa
nắng. Mùa mưa ngắn, từ khoảng giữa tháng 9 đến giữa tháng 12 dương lịch, tập trung
vào 2 tháng 10 và tháng 11, lượng mưa thường chiếm trên 50% lượng mưa trong năm.
Những tháng còn lại là mùa nắng, trung bình hàng năm có tới 2.600 giờ nắng.Nhiệt độ
trung bình hàng năm của Nha Trang cao khoảng 26,7°C riêng trên đỉnh núi Hòn Bà
(cách Nha Trang 30 km đường chim bay) có khí hậu như Đà Lạt và Sa Pa. Độ ẩm
tương đối khoảng 80,5%.
Nhiệt độ trung Mười Mười
Một Hai Ba Tư Năm Sáu Bảy Tám Chín Mười
bình/tháng một hai
Cao nhất (°C) 27 28 29 31 32 32 32 32 32 30 28 27
Thấp nhất (°C) 22 22 23 25 26 26 26 26 25 24 24 22
Lượng mưa (cm) 2.4 0.56 2.07 1.98 5.08 3.48 2.62 3.23 13.38 25.43 25.12 12.21
03 Hành chính
Một góc thành phố Nha Trang
Nha Trang gồm 27 đơn vị hành chính, trong đó có:
• 19 phường nội thành là: Vĩnh Hải, Vĩnh Phước, Vĩnh Thọ, Xương Huân, Vạn
Thắng, Vạn Thạnh, Phương Sài, Phương Sơn, Ngọc Hiệp, Phước Hòa, Phước
Tân, Phước Tiến, Phước Hải, Lộc Thọ, Tân Lập, Vĩnh Nguyên, Vĩnh Trường,
Phước Long (thành lập tháng 11 năm 1998), Vĩnh Hòa (thành lập tháng 4 năm
2002)
• 8 xã ngoại thành là: Vĩnh Phương, Vĩnh Trung, Vĩnh Thạnh, Vĩnh Thái, Vĩnh
Hiệp, Vĩnh Ngọc, Vĩnh Lương và Phước Đồng.
Từ năm 1998 đến nay, do tốc độ phát triển đô thị gia tăng, nhiều khu quy hoạch mới
đã được hình thành như: khu dân cư Hòn Rớ, khu dân cư Bắc Việt, Thánh Gia, Đường
Đệ, khu Nam Hòn Khô... Ngày 22 tháng 4 năm 2009, thành phố Nha Trang được công
nhận là Đô thị loại 1 thuộc tỉnh Khánh Hòa[3]
04 Tên gọi
Theo nhiều nhà nghiên cứu, tên "Nha Trang" được hình thành do cách đọc của người
Việt phỏng theo âm một địa danh Chăm vốn có trước là Ya Trang hay Ea Trang (có
nghĩa là "sông Lau", tiếng người Chăm, tức là gọi sông Cái chảy qua Nha Trang ngày
nay, con sông này đổ ra biển đúng chỗ có nhiều cây lau). Từ tên sông, sau chỉ rộng ra
vùng đất từ năm 1653.
Về địa danh "Nha Trang", trong Toàn tập Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư, tập bản đồ
Việt Nam do nho sinh họ Đỗ Bá soạn vào khoảng nửa sau thế kỷ 17 đã thấy có tên
"Nha Trang Môn" (cửa Nha Trang)[4]. Trong một bản đồ khác có niên đại cuối thế kỷ
17 mang tên Giáp Ngọ Niên Bình Nam Đồ của Đoan Quận công Bùi Thế Đạt cũng
thấy ghi tên "Nha Trang Hải môn" (cửa biển Nha Trang)[4]. Trong thư tịch cổ Việt
Nam, đây có lẽ là những tài liệu sớm nhất đề cập đến địa danh này.
Trong Phủ biên tạp lục (1776) của Lê Quý Đôn đã có nhiều tên gọi Nha Trang như
"đầm Nha Trang, dinh Nha Trang, nguồn Nha Trang, đèo Nha Trang".
II Lịch sử
Vịnh Nha Trang còn hoang sơ vào đầu thế kỷ 20
Từ 1653 đến giữa thế kỷ XIX, Nha Trang vẫn là một vùng đất còn hoang vu và nhiều
thú dữ thuộc Hà Bạc, huyện Vĩnh Xương, phủ Diên Khánh. Chỉ qua hai thập niên đầu
thế kỷ XX, bộ mặt Nha Trang đã thay đổi nhanh chóng. Với Nghị định ngày 30 tháng 8
năm 1924 của Toàn quyền Đông Dương, Nha Trang trở thành một thị trấn (centre
urbain)[5]. Thị trấn Nha Trang hình thành từ các làng cổ: Xương Huân, Phương Câu,
Vạn Thạnh, Phương Sài, Phước Hải.
Thời Pháp thuộc, Nha Trang được coi là tỉnh lỵ (chef lieu) của tỉnh Khánh Hòa. Các cơ
quan chuyên môn của chính quyền thuộc địa như Tòa Công sứ, Giám binh, Nha
Thương chánh, Bưu điện… đều đặt tại Nha Trang. Tuy nhiên, các cơ quan Nam triều
như dinh quan Tuần vũ, Án sát (coi về hành chánh, tư pháp), Lãnh binh (coi việc trật tự
trị an) vẫn đóng ở Thành Diên Khánh (cách Nha Trang 10km về phía Tây Nam).
Đến Nghị định ngày 7 tháng 5 năm 1937 của Toàn quyền Đông Dương, Nha Trang
được nâng lên thị xã (commune)[6]. Lúc mới thành lập, thị xã Nha Trang có 5 phường:
Xương Huân là phường đệ nhất, Phương Câu là phường đệ nhị, Vạn Thạnh là
phường đệ tam, Phương Sài là phường đệ tứ, Phước Hải là phường đệ ngũ.
Ngày 27 tháng 1 năm 1958, chính quyền Ngô Đình Diệm ban hành Nghị định 18-BNV
bãi bỏ quy chế thị xã, chia Nha Trang thành 2 xã là Nha Trang Đông và Nha Trang Tây
thuộc quận Vĩnh Xương.
Trung tâm Chính trị - Văn hóa tỉnh Khánh Hòa
Ngày 22 tháng 10 năm 1970, sắc lệnh số 132-SL/NV của chính quyền Việt Nam Cộng
hoa lấy 2 xã Nha Trang Đông, Nha Trang Tây và các xã Vĩnh Hải, Vĩnh Phước, Vĩnh
Trường, Vĩnh Nguyên, các ấp Phước Hải (xã Vĩnh Thái), Vĩnh Điềm Hạ (xã Vĩnh
Hiệp), Ngọc Thảo, Ngọc Hội, Lư Cấm (xã Vĩnh Ngọc) thuộc quận Vĩnh Xương cùng
các hải đảo Hòn Lớn, Hòn Một, Hòn Mun, Hòn Miễu, Hòn Tằm tái lập thị xã Nha
Trang, tỉnh lỵ tỉnh Khánh Hòa. Thị xã Nha Trang chia làm 2 quận: quận 1 và quận 2.
Quận 1 gồm các xã Nha Trang Đông, Vĩnh Hải, Vĩnh Phước, các ấp Ngọc Thảo, Ngọc
Hội và Lư Cấm thuộc xã Vĩnh Ngọc, ấp Vĩnh Điềm Hạ thuộc xã Vĩnh Hiệp; Quận 2
gồm các xã Nha Trang Tây, Vĩnh Trường, Vĩnh Nguyên (kể cả các đảo Hòn Tre, Hòn
Một, Hòn Mun, Hòn Tằm), ấp Phước Hải của xã Vĩnh Thái.
Tiếp đó, nghị định số 357-ĐUHC/NC/NĐ ngày 5 tháng 6 năm 1971 chia thị xã Nha
Trang thành 11 khu phố: quận 1 có các khu phố Vĩnh Hải, Vĩnh Phước, Ngọc Hiệp,
Vạn Thạnh, Duy Tân; Quận 2 có các khu phố Vĩnh Nguyên, Vĩnh Trường, Phương
Sài, Tân Phước, Tân Lập, Phước Hải. Đến Nghị định số 553-BNV/HCĐP/NV ngày 22
tháng 8 năm 1972 đổi các khu phố thành phường. Nghị định số 444-BNV/HCĐP/26.X
ngày 3 tháng 9 năm 1974 sáp nhập các đảo Hòn Một, Hòn Cậu, Hòn Đụn, Hòn Chóp
Vung, Hòn Đỏ vào phường Vĩnh Hải (quận 1) và Hòn Ngọc vào phường Vĩnh Nguyên
(quận 2) thị xã Nha Trang.
Ngày 2 tháng 4 năm 1975, Quân giải phóng tiếp quản Nha Trang[7]. Ngày 6 tháng 4 năm
1975, Ủy ban Quân quản Khánh Hòa chia Nha Trang thành 3 đơn vị hành chính: quận 1,
quận 2 và quận Vĩnh Xương.
Tháng 9 năm 1975, hợp nhất hai quận: quận 1 và quận 2 thành thị xã Nha Trang.
Ngày 30 tháng 3 năm 1977, theo quyết định số 391-CP/QĐ của Hội đồng Chính phủ
nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thị xã Nha Trang được nâng lên cấp thành
phố trực thuộc tỉnh và là tỉnh lỵ tỉnh Phú Khánh (bao gồm hai tỉnh Phú Yên và Khánh
Hòa hiện nay). Phần đất 7 xã của huyện Vĩnh Xương cũ trước đây là Vĩnh Thái, Vĩnh
Ngọc, Vĩnh Hiệp, Vĩnh Lương, Vĩnh Trung, Vĩnh Thạnh, Vĩnh Phương được cắt ra
khỏi huyện Khánh Xương sáp nhập vào Nha Trang.
Quyết định số 54-BT ngày 27 tháng 3 năm 1978 thành lập xã Phước Đồng thuộc Nha
Trang.
Ngày 1 tháng 7 năm 1989, tái lập tỉnh Khánh Hòa từ tỉnh Phú Khánh cũ, Nha Trang là
tỉnh lỵ tỉnh Khánh Hòa.
Ngày 22 tháng 4 năm 1999, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số 106/1999
công nhận Nha Trang là đô thị loại 2.
Ngày 22 tháng 4 năm 2009, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ký quyết định
công nhận TP. Nha Trang là đô thị loại I[8]
III Kinh tế
Kinh tế Nha Trang chủ yếu là du lịch và dịch vụ. Nha Trang còn nổi tiếng với yến sào,
thuốc lá và đặc biệt là kỳ nam và trầm hương.
IV Khoa học và Giáo dục
Nha Trang là nơi đóng quân của nhiều trường đại học quân sự (không quân, hải quân)
và các viện nghiên.cứu mang tầm quốc gia . Ngoài ra trên địa bàn thành phố còn có
nhiều đại học và cao đẳng phục vụ cho việc đào tạo nhân lực cho địa phương
V Giao thông
• Đường hàng không: Trước đây có thể bay đến Nha Trang và hạ cánh ngay
trong thành phố tại sân bay Nha Trang, nguyên là một sân bay quân sự nằm trên
đường Trần Phú. Hiện nay, sân bay Nha Trang đã đóng cửa và khách du lịch có
thể tới thành phố biển này bằng sân bay quốc tế Cam Ranh, cách đó khoảng 40
km.
• Giao thông nội thành:
Hiện nay, Nha Trang đang có 6 tuyến xe buýt phục vụ công cộng [9].
Độ
Số trạm Ghi
Tuyến Lộ trình dài
và điểm dừng chú
(km)
Tuyến Thành (Thị trấn Diên Khánh) - Lê Hồng 2 trạm 33 điểm
18
1 Phong - Vĩnh Trường dừng
Tuyến Thành (Thị trấn Diên Khánh)- Trần Phú - 2 trạm và 28
18
2 Bình Tân điểm dừng
Tuyến 2 trạm và 20
Chợ Đầm - Sông Lô 14.5
3 điểm dừng
Tuyến Dương Hiến Quyền - Nguyễn Thiện Thuật 2 trạm và 24
13
4 - Cầu Đá điểm dừng
Tuyến 2 trạm và 21
Cầu Trần Phú - Tô Hiến Thành - Hòn Rớ 1 13
5 điểm dừng
Tuyến 2 trạm và 21
Bến xe phía Nam - chợ Lương Sơn 15
6 điểm dừng
• Đường thủy: Nha Trang có cảng Nha Trang, chủ yếu là vận chuyển hành
khách qua lại Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng.
• Đường sắt: Ga Nha Trang là một trong những ga lớn trên tuyến đường sắt Bắc
Nam của Việt Nam. Tất cả các tuyến tàu lửa đều dừng ở đây. Ngoài các tàu
Thống Nhất, còn có các chuyến tàu SNT1-2, SNT3-4, SQN1-2 và gần đây có
thêm chuyến tàu 5 sao đầu tiên chạy tuyến Sài Gòn-Nha Trang.
Ga Nha Trang
VI Danh Lam Thắng Cảnh:
01 Tháp Po Nagar
Po Nagar hay Tháp Bà là ngôi đền nằm trên đỉnh một ngọn đồi nhỏ cao khoảng 50
mét so với mực nước biển, ở cửa sông Cái (sông Nha Trang) tại Nha Trang, cách trung
tâm thành phố khoảng 2 km về phía bắc, nay thuộc phường Vĩnh Phước. Tên gọi
"Tháp Po Nagar" được dùng để chỉ chung cả công trình kiến trúc này, nhưng thực ra
nó là tên của ngọn tháp lớn nhất cao khoảng 23 mét. Ngôi đền này được xây dựng
trong thời kỳ đạo Hindu (Ấn Độ giáo) đang cường thịnh khi Chăm pa trong giai đoạn
có tên gọi là Hoàn Vương Quốc, vì thế tượng nữ thần có hình dạng của Umar, vợ của
Shiva.
01.1 Truyền thuyết
Nữ vương Po Nagar - còn gọi là Yan Pu Nagara, Po Ino Nagar hay Bà Đen (nguời Việt
Nam gọi là Thiên Y Thánh Mẫu Ana) - là vị nữ thần được tạo nên bởi áng mây trời và
bọt biển, người tạo dựng ra trái đất, sản sinh gỗ quí, cây cối và lúa gạo. Bà có 97
chồng, trong đó chỉ một mình Po Yan Amo là người có uy quyền và được tôn trọng
hơn cả. Bà có 38 người con gái, tất cả đều hóa thân thành nữ thần, trong đó có ba
người được người Chăm chọn làm thần bảo vệ đất đai và còn thờ phụng cho tới ngày
nay: Po Nagar Dara, nữ thần Kauthara (Khánh Hòa); Po Rarai Anaih, nữ thần
Panduranga (Ninh Thuận) và Po Bia Tikuk, nữ thần Manthit (Phan Thiết).
Tương truyền, tượng bà Thiên Y Thánh Mẫu Ana theo tín ngưỡng phồn thực của
người Chăm, không có quần áo. Po Nagar hiện nay được người Việt Nam sử dụng,
nhưng đã cho nữ thần ăn mặc theo kiểu Phật. Ngôi đền này cũng nổi tiếng đối với các
du khách.
Để tìm hiểu thêm về ảnh hưởng tôn giáo của vị nữ thần này, có thể xem thêm "The
Vietnamization of Po Nagar" của Nguyễn Thế An, trong loạt bài giảng về quá khứ
Việt Nam, được chỉnh sửa bởi K.W. Taylor và John K. Whitmore, chương trình Đông
Nam Á, Đại học Cornell, Ithaca, NY 1995.
Cụm tháp tại Po Nagar
01.2 Lịch sử
Ngôi tháp bằng gỗ trước kia thờ nữ vương Jagadharma (công chúa Tchou Koti hay
Thiên Y Thánh Mẫu) (cai trị Lâm Ấp từ năm 646 đến năm 653) được Prithi
Indravarman cho xây dựng lại bằng vật liệu cứng tại Aya Tră (Nha Trang), trên một
ngọn đồi cao cạnh cửa sông Cái (Xóm Bóng), để thờ tượng nữ thần Bhagavati (bằng
vàng). Năm 774, quân Nam Đảo (Java, Indonesia) vào cướp phá. Đền Po Nagar, bị quân
Nam Đảo phá hủy, sau đó được Satyavarman cho dựng lại bằng gạch, năm 784 thì
hoàn thành và tồn tại cho tới ngày nay, nhưng cũng đã bị hủy hoại một phần đáng kể.
Sau này quốc vương Harivarman I và con trai ông là Vikrantavarman III sau này có thể
đã lần lượt xây dựng thêm 5 tháp nữa.
Những cấu trúc xây dựng còn sót lại có niên đại sớm nhất, theo Trần Kỳ Phương là
mandapa?? - nó đã được xây dựng vào thời gian nào đó trước khi có câu khắc trên bia
vào năm 817, có nói tới nó. Trần Kỳ Phương cho rằng tháp nhỏ ở phía tây bắc có niên
đại khoảng thế kỷ 10, và ngôi tháp chính có niên đại khoảng thế kỷ 11.
Những bia ký còn sót lại ở Po Nagar cho người ta thấy được dấu vết của một quốc gia
hùng mạnh đã từng tồn tại trong quá khứ.
01.3 Kiến trúc
Tổng thể kiến trúc của Po Nagar gồm 3 tầng, đi từ dưới lên trên.
• Tầng thấp: Ngang mặt đất bằng là ngôi tháp cổng mà nay không còn nữa. Từ
đấy có những bậc thang bằng đá dẫn lên tầng giữa.
• Tầng giữa: Nơi đây hiện chỉ còn hai dãy cột chính bằng gạch hình bát giác, mỗi
bên 5 cột có đường kính hơn 1 mét và cao hơn 3 mét. Ở hai bên các dãy cột lớn
có 12 cột nhỏ và thấp hơn, tất cả lại nằm trên một nền bằng gạch cao hơn 1
mét. Dựa vào cấu trúc này người ta cho rằng đây vốn là một tòa nhà rộng lớn
có mái ngói, là nơi để khách hành hương nghỉ giải lao và sắm sửa lễ vật trước
khi lên dâng cúng ở các điện bên trên. Từ tầng giữa này, lại có một dãy bậc
thang bằng gạch dốc hơn dẫn lên tầng trên cùng.
• Tầng trên cùng: Là nơi các tháp được xây dựng, ngay trước mặt ngôi tháp
chính. Những bậc thang này từ lâu đã không hề được sử dụng. Bậc thang bằng
đá ong thấy hiện nay ở phía nam tháp Bà rộng lớn hơn được xây vào thập niên
1960 do nhu cầu du lịch gia tăng.
Ở tầng trên, có hai dãy tháp được bao quanh bởi bốn bức tường đá mà nay chỉ còn lưu
lại tường phía tây và nam mà thôi. Dãy tháp phía trước có 3 ngôi, và dãy phía sau vốn
có dấu vết của 3 ngôi tháp khác, thế nhưng nay chỉ còn 1, chúng chạy song song với
nhau. Cả 4 tháp còn lại được xây dựng theo kiểu tháp của người Chăm, gạch xây rất
khít mạch, không nhìn thấy chất kết dính. Lòng tháp rỗng tới đỉnh, cửa tháp quay về
hướng đông. Mặt ngoài thân tháp có nhiều gờ, trụ, đấu. Trên đỉnh các trụ, thường đặt
gạch trang trí hoa văn hình vòm tháp, trông như chiếc tháp nhỏ đặt lên một tháp lớn.
Trên thân tháp còn có nhiều tượng và phù điêu bằng đất nung, trong đó có hình Po
Nagar, thần Tenexa, các tiên nữ, các loài thú: nai, ngỗng vàng, sư tử...
Hình nữ thần Durga đang múa giữa hai nhạc công ở tháp chính
thần Po Nagar hay theo cách gọi của người Việt là Thánh Mẫu Thiên Y A Na
Tháp thờ chính ở dãy trước khá lớn và cao khoảng 23 mét, là tháp Po Nagar, mà ta hay
gọi là tháp Bà. Nguyên thủy chính là tháp thờ thần Parvati, vợ của Shiva. Tháp chính
thờ thần Po Nagar (Umar), vợ của thần Siva. Tháp Bà xây 4 tầng, mỗi tầng đều có
cửa, tượng thần và hình thú bằng đá, ở 4 góc có 4 tháp nhỏ. Bên trong là tượng nữ
thần (cao 2,6 m) tạc bằng đá hoa cương màu đen (trước đó là gỗ trầm hương, và xa
hơn nữa là bằng vàng) ngồi trên bệ đá uy nghiêm hình đài sen, lưng tựa phiến đá lớn
hình lá bồ đề. Đây là một kiệt tác về điêu khắc Chămpa, là sự kết hợp hài hòa giữa kỹ
thuật tượng tròn và chạm nổi. Người Pháp đã lấy mất đầu tượng, nay chỉ còn đầu
tượng bằng xi măng vẽ mặt. Rải rác quanh di tích còn có một số tượng người, tượng
thú... Trên đỉnh tháp có tượng thần Shiva cỡi ngưu thần Nandin, và các tượng linh vật
như chim thiên nga, dê, voi v.v. Mặt ngoài tường tháp lại được trang trí bởi những hình
điêu khắc vào đá như những vũ công, người chèo thuyền, xay gạo hay đi săn với cung
tên. Cửa chính ở phía đông dẫn vào một tiền sảnh, ở hai bên cửa có hai trụ đá được
khắc truyền ký, đỡ một phiến đá hình thuẫn có khắc hình nữ thần Durga đang múa
giữa hai nhạc công. Bên trong tháp tối và lạnh. Cuối tháp có một bệ thờ bằng đá bên
dưới tượng Bà Po Nagar với mười cánh tay. Hai bàn tay dưới đặt trên hai đầu gối, các
bàn tay khác thì cầm những vât dụng như đoản kiếm, mũi tên, chùy và cây lao ở bên
phải và chuông, đĩa, cung và tù và ở bên trái.
Các tháp khác thờ: thần Siva (một trong ba vị thần tối cao của Ấn Độ giáo), thần
Sanhaka, thần Ganeca (theo truyền thuyết là con trai thần Siva). Bên cạnh tháp chính
về phía nam khoảng 20 mét là một ngôi tháp khác nhỏ và ít trang trí điêu khắc hơn, cao
chừng 12 mét, có thể là tháp thờ thần Shiva. Cách tháp này cũng về hướng nam là một
tháp còn nhỏ hơn. Bên trong tháp không có bệ thờ mà chỉ có một linga (thạch trụ), và
đây là tháp thờ thần Ganesa, thân người đầu voi, con của Shiva. Nhiều tác giả cho
rằng linga là linh tượng có hình thù dương vật tượng trưng cho Shiva, dựa theo sự
diễn dịch của phương Tây hơi thiên về tình dục. Thực ra, linga tiêu biểu là một trụ đá
thấp có ba phần khác nhau tượng trưng cho ba linh thể: phần dưới là hình vuông
tượng trưng cho Brahma, phần giữa hình bát giác tượng trưng cho Vishnu, và phần trên
cùng hình tròn tượng trưng cho Rudra (hay còn gọi là Shiva). Vì thế gọi là "linh thạch
trụ" thì thích hợp hơn.
Ở dãy tháp phía sau có một ngôi tháp, tương đối ít hư hại nhất ở mạn bắc, với mái dài
hình yên ngựa. Kiểu mái này chỉ thấy bắt đầu ở những tháp vùng Đồ Bàn - Vijaya
(Bình Định ngày nay) sau khi kinh đô được dời xuống từ Mỹ Sơn, Trà Kiệu ở thế kỷ
11. Ở tường có những hình điêu khắc như thần điểu Garuda, sư tử, các tiên nữ Apsara,
rắn thần Naga. Chính dưới nền của tháp này trong khi tu sửa đầu thế kỷ 20, thực dân
Pháp đã khám phá và lấy mất một kho tàng được cất dấu gồm những vật cúng dường
bằng vàng và bạc.
Ngày nay 2 tháp khác ở phía tây nam là tây đã bị phá hủy. Sự phân bố này làm cho
người ta có sự so sánh thú vị với các tháp gạch ở Lolei, gần Angkor Wat tại
Campuchia, đã được xây dựng vào thế kỷ 8.
Nhóm tháp Chàm được xây dựng và tu bổ qua nhiều thời kỳ từ thế kỷ 7 đến thế kỷ 12.
Tháp Bà có thể do quốc vương Hoàn Vương Quốc là Harivarman I xây dựng vào
khoảng những năm 813-817. Trải qua mưa nắng của thời gian, tháp bị hư hại. Thời
Pháp thuộc, trường Viễn Đông Bác Cổ đã tổ chức tu sửa: dùng gạch xây lại nhiều
phần và đắp một số tượng lên thân tháp. Trong thời kỳ chiến tranh, nhiều hiện vật bị
mất cắp.
01.4 Các bia ký
Tháp Bà còn lưu lại nhiều bia ký cổ nhất của người Chăm. Bergaigne, một nhà khảo
cổ học người Pháp đã liệt kê các bia ký theo thời gian như sau:
• Nhóm A: Trên bia đá hình lục giác, do vua Satyavarman dựng năm 781 ghi
chuyện tháp bị giặc biển đốt phá năm 774, việc xây dựng tượng thần Sri Satya
Mukhalinga vào năm 784.
• Nhóm B: Do vua Vikrantavarman III ghi lại công lao xây dựng của các tiên
vương.
• Nhóm C và nhóm D: Do vua Vikrantavarman II ghi các lễ vật dâng cúng chư
thần.
• Nhóm E: Ghi việc vua Indravarman II dựng pho tượng Bhagavati (tức Po
Nagar) bằng vàng vào năm 918; pho tượng này về sau bị người Khmer xâm lăng
cướp đi, và đã được thay thế bằng tượng bằng đá vào năm 965.
Bia đá ở hai bên cửa của tháp chính ghi việc cúng ruộng và dân công nô lệ cho nữ
thần. Bia ở phía nam của tháp chính ghi việc vua Jaya Harivarman I ca tụng thần Yang
Po Nagar vào năm 1178. Bia ở phía bắc tháp chính ghi việc dựng đền thờ thần
Bhagavati Matrilingesvara vào năm 1256. Ngoài ra còn bia đá dựng năm 1050 của vua
Paramesvaravarman I ghi việc tái lập tượng Bà, việc dâng cúng ruộng đất và nô lệ đủ
sắc tộc: người Campa (Chăm), Kvir (Khmer), Lov (Tàu), Pukan (Mã), Syam (Xiêm)
vv... Bia của vua Rudravarman III (Chế Củ) dựng năm 1064 ghi việc xây cổng tháp rất
tốn kém, và liệt kê những cống phẩm quí giá. Bia năm 1143 ghi lời xưng tụng Bà. Bia
năm 1165 của vua Indravarman IV ghi việc dâng cúng một kim mão cho nữ thần
Bhagavati Kautharesvati (Dựa vào lời ghi này có thể tạm dịch là "Đức thánh mẫu vùng
Kauthara" và so sánh với các bia khác, có thể đoán là người Chăm chỉ thờ thần Parvati
như Thánh Mẫu của từng địa phương; ví dụ ở Phú Yên và Ninh Thuận cũng có tháp
thờ Thánh Mẫu của vùng đó, chứ chưa hẳn là ở mức độ toàn xứ Chiêm Thành). Các
bia sau cùng ở thế kỷ thứ 13 hay 14 tiếp tục ghi những vật dâng cúng Bhagavati.
01.5 Lễ hội
Lễ hội Tháp Bà diễn ra từ ngày 21 đến ngày 23 tháng 3 âm lịch hàng năm. Lễ hội này
đã được Bộ Văn hóa Thông tin Việt Nam xếp hạng là một trong 16 lễ hội quốc gia
vào năm 2001. Những năm gần đây, Lễ hội Tháp Bà được tỉnh Khánh Hòa giao cho Sở
Văn hóa Thông tin tổ chức.
02 Đảo Hòn Tre
Đảo Hòn Tre là đảo lớn nhất nằm trong vịnh Nha Trang. Đảo có diện tích trên 3000
ha, cách thành phố Nha Trang 5km về phía Đông và cách cảng Cầu Đá 3,5 km, Dân cư
chủ yếu là khách du lịch và ngư dân (trên đảo có một vài làng chài). Đảo có những bãi
biển nhỏ, hoang sơ, thảm thực vật gồm rừng cây nhỏ.
Đảo Hòn Tre nhìn từ cáp treo
02.1 Dự án
Dự án Đảo Hòn Tre chia làm 2 khu chính:
• Khu Vũng Me - Bãi Trũ - Đầm Già - Bãi Rạn
Bao gồm các 07 dự án hiện có: Khu du lịch Con sẻ tre, Vinpearl resort & spa, Khu du
lịch sinh thái và Thế giới nước Vinpearl, Công viên văn hóa Vinpearl, Công viên văn
hóa Hòn Tre, Khu du lịch sinh thái Bãi Sỏi, Khu biệt thự và sân gôn Vinpearl và 01 dự
án đề xuất.
Khu resort cao cấp Bãi Rạn. Ý đồ quy hoạch hướng tới một quần thể các dự án du lịch
cao cấp trên cở sở mô hình kinh doanh rất thành công của Vinpearl resort & spa. Giao
thông đối ngoại của phân khu chủ yếu thông qua 02 cảng du lịch tại Vũng Me và
tuyến cáp treo Vinpearl.
Hiện trên đảo có khu du lịch Vinpearl Land Hòn Ngọc Việt và Con Sẻ Tre. Vinpearl là
một dự án quy mô gồm khách sạn, resort, công viên giải trí và khu mua sắm. Các dự án
đang được triển khai như sân gôn, khu resort cao cấp Bãi Rạn, khu du lịch thế giới
biển...
Cáp treo vượt biển qua Đảo Hòn Tre và khu Vinpearland
Một tuyến cáp treo vượt biển dài nhất Đông nam Á được hoàn tất vào năm 2007 nối
khu du lịch VinPearl với cảng Cầu Đá của Nha Trang.
• Khu Đầm Bấy
Dự án Đầm Bấy với hai dự án cơ bản chính là Khu du lịch thế giới biển và dự án Làng
du lịch sinh thái Đầm Bấy. Đây sẽ là làng du lịch sinh thái với các khu nghỉ dưỡng và
trung tâm văn hóa và thương mại. Dựa trên yếu tố du lịch sinh thái là chính và đặc biệt
dựa án xây dựng làng du lịch sinh thái dựa trên sự phát triển từ nguồn dân cư chính
hiện tại ở Bích Đầm và khu Đầm Bấy. Sự đóng góp tích cực của cư dân địa phương
và dự án du lịch sinh thái một cách có tổ chức sẽ là một dự án thu hút sự đầu tư và du
khách trong tương lai.
03 Hòn Mun
Hòn Mun là một trong những hòn đảo thơ mộng nhất trong hệ thống đảo của Nha
Trang. Hòn Mun cách cảng Cầu Đá 10 km (khoảng 45 phút đi tàu). Không chỉ hấp dẫn
bởi cát trắng, biển xanh, những tổ yến hoang sơ trên cheo leo vách đá… nơi đây còn
nổi tiếng là một trong những “thủy cung” “giàu và đẹp” nhất của biển Đông Nam Á.
Nơi đây còn nổi tiếng có nhiều dịch vụ biển và khám phá biển bằng tàu đáy kính và
dịch vụ lặn biển.
03.1 Tên gọi
Được gọi là Hòn Mun vì phía Đông Nam của đảo có những mỏm đá nhô cao, vách
dựng hiểm trở tạo thành hang động, đặc biệt đá ở đây đen tuyền như gỗ mun, rất
hiếm thấy ở những nơi khác.
03.2 Miêu tả
Tổng diện tích của toàn bộ khu bảo tồn là 160 km2, trong đó 122 km2 là diện tích mặt
biển, 38 km2 là tổng diện tích của các hòn đảo. Hòn Mun với rạn san hô và hệ sinh
vật biển đa dạng, phong phú là khu bảo tồn biển đầu tiên và duy nhất của Việt Nam
hiện nay, đã được Quỹ Ðộng vật hoang dã thế giới (WWF) đánh giá là khu vực đa
dạng sinh học biển bậc nhất ở Việt Nam, đặc biệt rất phong phú về san hô, hiện tại
đã phát hiện được khoảng 350 loài.
Hệ sinh thái động, thực vật biển ở đây vô cùng phong phú. Theo thống kê trên thế giới
có khoảng 2.000 loài san hô và sinh vật biển thì ở Hòn Mun đã có tới 1.500 loài.
Ở Hòn Mun, san hô nằm ở độ sâu 10m, cùng với rất nhiều loại cá đủ mà sắc và chủng
loại. Với độ sâu dưới 18 m, thì không còn cảnh đẹp của san hô, nhưng có rất nhiều
hang động. Có những hang sâu 10-15 m, phải dùng đèn để quan sát những sinh vật
biển chuyên sống trong bóng tối như tôm, mực, tôm hùm, cá đuối…
03.3 Khu bảo tồn biển Hòn Mun
Khu bảo tồn biển Hòn Mun là một khu bảo tồn sinh vật biển tại Nha Trang,
Khánh Hòa. Khu bảo tồn biển này gồm các đảo nằm trong Vịnh Nha Trang
như: Hòn Tre, Hòn Miễu, Hòn Tằm, Hòn Một, Hòn Mun, Hòn Cau, Hòn
Vung, Hòn Rơm và Hòn Ngọc. Khu bảo tồn Hòn Mun ra đời năm 2001 với
sự phối hợp của Bộ Thủy sản, UBND tỉnh Khánh Hòa và Tổ chức Bảo tồn
Thiên nhiên thế giới phối hợp thực hiện. Khu vực bảo tồn này có diện tíhc
khoảng 160 km2 bao gồm 38 km2 mặt đất và 122 km2 mặt nước biển. Theo
mục đích thành lập đã được ghi trong dự án thì khu bảo tồn này nhằm Bảo
tồn một mô hình điển hình về đa dạng sinh học biển có tầm quan trọng
quốc tế và đang bị đe dọan và đạt được mục tiêu giúp các cộng đồng dân cư
tại các đảo nâng cao đời sống và cộng tác với các bên liên quan khác để bảo
vệ và quản lý có hiệu quả đang dạng sinh học biển Hòn Mun, tạo nên một
mô hình hợp tác quản lý cho các khu bảo tồn biển của Việt Nam. Hệ sinh
biển ở đây khá phong phú, đặc biệt ở đây có 340 trên tổng số 800 loài san
hô cứng trên thế giới. Các hang đá của khu bảo tồn này là nơi làm tổ của
các loại chim yến.
03.4 Dịch vụ
Dịch vụ biển tại Hòn Mun khá phong phú bao gồm : Bar nổi trên biển, lặn biển khám
phá san hô, thuyền đáy kính, v..v. ..
• Dịch vụ lặn biển
Là hình thức có dụng cụ lặn biển chuyên nghiệp hỗ trợ để có thể tham quan san hô hệ
động thực vật dưới biển khơi. Khách du lịch được một lặn cấp tốc trên tàu và được
học các ký hiệu bằng ngón tay để có thể bơi lặn dưới nước. Mỗi một du khách được
một hướng dẫn kèm theo khi lặn dưới biển. Đồ nghề lặn khá phức tạp, gồm bộ quần
áo lặn, kính mắt, chân vịt và cả chiếc bình hơi 13 ký cùng dây nịt bằng chì để cho đủ
sức nặng chìm xuống nước. Những du khách có bằng chứng nhận hoặc từng lặn biển
sẽ được đưa đến nơi có nhiều hang động, để khách len vào tham quan. Lần lặn thứ
hai, sau khi nghỉ trưa là đến biển Hòn Mun. Khách sẽ chứng kiến các loại san hô, thủy
tức và cả những khu vực có những con cá chình lớn, hướng dẫn viên phải đem mồi
theo cho chình ăn như là nuôi chúng để khách xem. Có cả những con chình nhỏ để cho
khách có thể chạm tay vào đùa một chút...
• Bar trên biển
Bar nổi là một trong những điểm thu hút khách du lịch nhất ở đảo Hòn Mun. Bằng
những phao nổi lềnh bềnh trên biển, khách tham quan có thể thưởng thức thức uống
khá thú vị.
• Tàu đáy kính
Tàu đáy kính không riêng chỉ Hòn Mun mà tại Hòn Tằm cũng
có dịch vụ này. Bằng hình thức này, khách có thể tham quan
san hô và hệ động thực vật dưới nước thuận tiên nhất.
04 Hòn Tằm:
Hòn Tằm( đảo Thủy Kim Sơn) là một đảo rộng hơn 110ha nằm giữa vùng biển trong
xanh bốn mùa đầy nắng và gió. Hòn Tằm cách thành phố Nha Trang 7km về phía
Đông Nam, nếu đi ca nô mất độ 7 phút, đi tàu khách khoảng 25 phút.
04.1 Nguồn gốc tên gọi
Tên gọi Hòn Tằm cũng mang ý nghĩa tượng hình do người dân chài thuở xa xưa đặt vì
hòn đảo trông giống như một con tằm màu xanh lục, đầu hướng về phía Đông.
04.2 Mô tả
Hòn Tằm có các sân chơi: bóng đá, bóng chuyền trên bãi cát. Ngoài việc tham quan,
tắm biển, nghỉ dưỡng phục hồi sức khoẻ, du khách còn có thể tham gia các loại hình
giải trí hấp dẫn như leo núi, thám hiểm rừng, chèo thuyền, bơi thuyền buồm, câu cá,
săn bắt dưới nước hoặc thể hiện lòng can đảm bằng các môn thể thao cảm giác mạnh
như bay dù, lướt ván, mô tô nước... và đặc biệt khám phá thế giới dưới đại dương
bằng các tour lặn biển. Nằm về phía Tây Nam Hòn Tằm chừng 10 phút leo núi là bãi
Thiên Nga rất hoang sơ với thảm cát óng mịn và những gộp đá. Nơi đây đang được
đầu tư để xây dựng đường leo núi, đường đua xe đạp địa hình, nuôi một số loài chim,
thú và tổ chức cho du khách săn bắn... Theo TGPN, đến Hòn Tằm, du khách có thể
thưởng thức nhiều loại hải sản tươi ngon, giá cả phải chăng. Từ Hòn Tằm, có thể
nhìn thấy cả thành phố Nha Trang về hướng Bắc và bán đảo Cam Ranh về phía Nam.
04.3 Thành tích
Khu du lịch Hòn Tằm thuộc Công ty Cung ứng tàu biển Thương mại và Du lịch Nha
Trang. Hơn 10 năm đưa vào hoạt động kinh doanh, với sự đầu tư sức người, sức của
đã biến nơi đây từ đảo hoang thành đảo "vàng" bởi đây là "thủ phủ", nơi quy tụ du
khách đông đảo hơn cả. Năm 2004 Hòn Tằm đón và phục vụ 295.000 lượt khách trong
đó khoảng 35% là khách quốc tế. Dịp lễ, Tết, ngày nghỉ cuối tuần số lượng du khách
đến đây có thể lên đến 2.500-3.000người/ngày. Đây là nguồn thu lớn cho địa phương.
Hòn Tằm là “Một trong những điểm đến được hài lòng nhất năm 2004, 2005” do
người tiêu dùng bình chọn.
04.4 Dịch vụ
• Khu du lịch Hòn Tằm có 3 nhà hàng đủ sức chứa 1.000 khách cùng một lúc với
những món ăn từ dân dã đến hải đặc sản cao cấp. Thức ăn với mức giá từ
25.000đ đến 200.000đ/khách.
• Trò chơi cảm giác mạnh – Dù bay chỉ với từ 120.000đ đến 200.000đ/người
• Môto nước.
• Bóng chuyền bãi biển.
• Đua xuồng Kayak.
• Lặn biển xem san hô
• Thuyển đáy kính.
04.5 Dự án mới của Hòn Tằm
Cách đây 10 năm, Hòn Tằm là một hoang đảo, còn bây giờ nơi đây trở thành một khu
du lịch sinh thái biển hấp dẫn. Dự án đầu tư khu du lịch đảo này với tổng vốn lên đến
50,4 nghìn tỷ đồng do Công ty Cổ phần Hòn Tằm biển Nha Trang đầu tư được xây
dựng trên tổng diện tích hơn 10 ha, diện tích khai thác mặt nước khoảng 57,5 ha, được
xây dựng thành 2 khu liên hoàn là khu A và khu B. Khu A là một bãi tắm hình vòng
cung,. Tại đây một nhà hàng lớn có khả năng phục vụ cùng lúc 300 thực khách với
những món ăn đặc sản biển. Khu vệ sinh và 32 phòng tắm nước ngọt đủ phục vụ nhu
cầu của khách. Cũng dọc theo bãi tắm khu A này, một hệ thống ki-ốt được dựng lên
để phục vụ du khách đi theo từng nhóm hoặc từng gia đình. Một hệ thống đa dịch vụ
được triển khai phục vụ nhu cầu vui chơi giải trí: nhảy dù, mô tô nước, lướt ván,
thuyền buồm, phao chuối. Trong đó, khu khách sạn 1 trệt 4 lầu, mái ngói, từng tầng
tựa vào sườn núi. Hai mặt Đông, Tây của tầng trệt và nhà hàng được mở trống tạo cho
du khách một tầm nhìn bao la hướng thẳng ra biển. Về hạ tầng cơ sở, Khu du lịch
Hòn Tằm có đường giao thông rộng đủ cho người đi bộ, các xe điện chuyên dùng có
tải trọng nhỏ đi lại. Với các vật liệu kiến trúc mang phong cách riêng và trang bị hạ
tầng cơ sở hiện đại, có các sản phẩm du lịch phong phú, đa dạng, dự án không những
đáp ứng nhu cầu tiện nghi cho du khách mà còn đảm bảo giữ được những nét độc đáo
riêng biệt đậm đà bản sắc Việt Nam.
05 Hòn Chồng
Hòn Chồng nhìn từ phía bãi tắm Cô
Tiên.
Hòn Chồng là một thắng cảnh tự
nhiên ở thành phố Nha Trang, thuộc
khóm Hòn Chồng, phường Vĩnh
Phước. Khu vực này là một bãi đá
được xếp chồng lên nhau một cách tự
nhiên, ngoài ra còn có Hòn vợ ở gần
đó và Hội quán vịnh Nha Trang có
dạng nhà rường Huế được xây ở phía
trên.
05.1 Miêu tả
Hòn Chồng gồm 2 cụm đá lớn nằm bên bờ biển dưới chân đồi La-san, có thể được
tạo nên do sự xâm thực của thủy triều lên ngọn đồi này. Cụm đá lớn ở ngoài biển gọi
là Hòn Chồng, gồm một khối đá lớn vuông vức nằm trên một tảng đá bằng phẳng và
rộng hơn, phía mặt đá quay ra biển có một vết lõm hình bàn tay rất lớn. Tục truyền
rằng, thuở xưa ông khổng lồ ngồi câu cá nơi đây, có một con cá cũng khổng lồ cắn câu
lôi đi, ông phải kéo lại, tay cầm cần câu, tay tì
vào tảng đá lấy đà khiến bàn tay ấn vào đá và
để lại dấu như đã thấy. Theo một truyền
thuyết khác, xưa có một người khổng lồ đến
xứ này ngoạn cảnh, gặp bầy tiên nữ đang tắm,
ông dừng lại say sưa ngắm và vô tình trượt
chân ngã, ông vội bám tay vào núi khiến sườn
núi sụp đổ, đá văng xuống để lại vết tay ông
hằn trên đá. Dấu chân trượt ngã đủ năm ngón
cũng để lại dấu tích ở khu vực Suối Tiên.
Đi giữa bãi đá còn nhiều tảng đá chồng chất
kỳ lạ như cảnh hai hòn đá dựng đứng, giữa có
chẹt một hòn đá lớn như cái cổng qua một
cụm đá khác. Cụm đá thứ hai có hình dáng một
người phụ nữ ngồi trông ra biển - được đặt
một cái tên có ý nghĩa gần gũi với Hòn Chồng - đó là Hòn Vợ, cụm đá này ít được du
khách để ý hơn.
Đứng trên Hòn Chồng nhìn ra xa là Hòn Yến, quay về bên phải là Cảng Cầu Đá, Hòn
Tre và bờ biển Nha Trang dài tới 6km. Khuất bên mũi đồi Lasan, nhô ra biển là cửa
sông Nha Trang, bến cá Cù Lao. Nhìn từ phía Hòn Chồng phía bên kia là núi Cô Tiên.
Từ vị trí bên Hòn Chồng sẽ nhìn rất rõ Hòn Đỏ (nơi đặt ngôi chùa) ở phía xa.
Ngoài ra, ở mặt đường trên đường đi xuống Hòn Chồng còn có Hội quán Vịnh Nha
Trang, nơi trưng bày nhiều tranh ảnh về Hòn Chồng và các thắng cảnh ở Nha Trang.
Hội quán được thiết kế theo phong cách nhà rường Huế.
06 Đầm Nha Phu
Ðầm Nha Phu là tên gọi cả một khu vực rộng lớn, trong đó có những hòn đảo du lịch
như Hòn Thị, Hòn Lao, Hòn Sầm, Hòn Đá Bạc (bãi tắm Công chúa), Hòn Lao - đảo
Khỉ, Suối Hoa Lan, Khu nghỉ mát Ninh Vân. Đầm Nha Phu rộng gần 1.500ha, tiếp giáp
giữa vịnh Nha Trang và vịnh Vân Phong – thuộc tỉnh Khánh Hòa, cách thành phố
khỏang 15 km. Hiện bến cảng du lịch nằm ở địa phận Lương Sơn, xã Vĩnh
Lương.Đầm Nha Phu là một trong hai đầm lớn của tỉnh Khánh Hòa vẫn còn hội đủ
đặc điểm của một vùng sinh thái quý hiếm với núi rừng, sông suối, biển đảo
06.1 Miêu tả
Đầm Nha Phu là một trong những nơi hội tụ của rất nhiều địa hình: đảo,suối, biển,
hồ, núi, và cả vịnh , v.vv..v..Đầm Nha Phu có những đoạn sóng lặng, nhưng cũng có
những chổ có sóng nhẹ, phù hợp các chương trình tham quan du lịch . Cảnh quan
hoang sơ, dân cư thưa thớt, những bãi cát trắng tinh khiết trãi dài hàng cây số hay đa
dạng với các loại địa hình khác. Ngoài ra, Đầm Nha Phu còn đa dạng về hệ động thực
vật Theo kết quả điều tra của Viện Hải dương học Nha Trang (Khánh Hòa), đầm Nha
Phu hiện có 232 loài thực vật phù du được ghi nhận. Trong đó, có 150 loài tảo Silic,
chiếm 65%; tảo Hai Roi với loài, chiếm 32%… Đầm Nha Phu còn là nơi phát triển
nghề nuôi trồng thủy hải sản.
07 Đồi Trại Thủy
Tượng Phật trắng chùa Long Sơn trên đỉnh đồi Trại Thủy.
Đồi Trại Thủy có các tên khác là: Khố Sơn (Núi Kho), hòn Xưởng, hòn Trại Thủy;
còn người dân địa phương có khi gọi nơi đấy là núi chùa Hải Đức. Đây là một ngọn
đồi lớn, nằm ngay ở địa đầu thành phố Nha Trang về hướng Tây, thuộc tỉnh Khánh
Hòa, Việt Nam. Khi xưa khu vực này từng là nơi chiến địa, nhưng ngày nay là một
điểm tham quan và hành hương nổi tiếng ở Nha Trang, vì là nơi tọa lạc của nhiều tự
viện danh tiếng.
07.1 Vị trí
Đồi Trại Thủy cao hơn 30 mét, dài hơn 500 mét, chạy dọc theo Quốc lộ 1A. Hình
dáng đồi giống một con dơi, nằm xòe đôi cánh. Và nơi đầu đồi có một ao nước hình
tròn (nhưng ngày nay đã bị dân lấp mất để làm nhà) nên người xưa gọi là "ngọc bức
hàm hoàn" (dơi ngọc ngậm vòng ngọc) Theo các nhà chuyên môn về địa lý học thì đồi
Trại Thủy thuộc hệ thống dãy Trường Sơn. Sơn mạch phát từ hòn Thị ở Diên Khánh,
chạy ngầm dưới đất, đến gần cửa sông Cù Giang thì đột khởi thành đồi Trại Thủy
Đại Nam nhất thống chí chép:
Khố Sơn ở phía Đông huyện Vĩnh Xương độ hai dặm. Phía Đông Nam có nền
cũ kho Phước Sơn nên đặt như thế. Phía Bắc gần sông Ngư Trường. Năm Ất
Mão đầu lúc Trung Hưng (1795) đại binh đánh phá tướng Tây Sơn là Trần
Quang Diệu ở bảo Khố Sơn tức là chỗ này. Trên núi có đền Quan Công và
miếu Ngũ Hành.
07.2 Những trang sử liên quan
Nha Trang.
• Năm Quý Tỵ 1653:
Vua Chiêm Thành là Bà Thấm đưa quân sang quấy nhiễu vùng đất Phú Yên. Chúa
Nguyễn Phúc Tần (1620-1687) sai Cai cơ Hùng Lộc dẫn ba ngàn quân vượt đèo sang
đánh, vua Chiêm đại bại dâng thư xin hàng và cắt châu Kaut Hara (Cù Huân) từ sông
Phan Rang ra đến đèo Cả dâng cho...Được đất, chúa Nguyễn liền cho dựng ở làng
Phước Sơn một cái kho dành chứa lương thực. Vì vậy, theo sử nhà Nguyễn đã dẫn:
Khố Sơn ở phía Đông huyện Vĩnh Xương độ hai dặm. Phía Đông Nam có nền cũ kho
Phước Sơn nên đặt (tên) như thế.
• Năm Giáp Ngọ 1774:
Chúa Nguyễn Phúc Thuần (1754-1777) bị tướng chúa Trịnh là Hoàng Ngũ Phúc (1713–
1775) và ba anh em nhà Tây Sơn là Nguyễn Nhạc 1778-1793), Nguyễn Huệ (1753-
1792) và Nguyễn Lữ (?-1787) cùng đánh đuổi, phải bỏ thành Phú Xuân chạy vào Nam,
thì đất đai từ Quảng Nam trở vào đến Bình Thuận đều thuộc quyền cai trị của nhà Tây
Sơn. Nhưng mùa thu năm ấy, viên lưu thủ đất Long Hồ là Tống Phước Hiệp (?-1776)
cử đại binh cùng Nguyễn Khoa Toàn ra đánh Tây Sơn.