Nguyên lí chủ nghĩa Mác -Quan điểm của chủ nghĩa Mác về con người
Tham khảo tài liệu 'nguyên lí chủ nghĩa mác -quan điểm của chủ nghĩa mác về con người', tài liệu phổ thông, ôn thi đh-cđ phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
LỜI MỞ ĐẦU
Phát triển con người là mục tiêu cao cả nhất cả nhất của toàn nhân
loại. Làn sóng văn minh thứ ba đang được loài người tới một kỉ nguyên
mới, mở ra bao khả năng để họ tìm ra những con đường tối ưu đi tới tương
lai. Trong bối cảnh đó sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa càng làm
cho các tư tưởng tự do tìm kiếm con đường khả quan nhất cho sự nghiệp
phát triển con người Việt Nam càng dễ đi đến phủ nhận vai trò và khả
năng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Trong thực tế, không ít người rẽ ngang đi tìm khả năng phát triển đó
trong chủ nghĩa tư bản. Nhiều người trở về phục sinh và tìm sự hoàn thiện
con người trong các tôn giáo và hệ tư tưởng truyền thống, con người lại
“sáng tạo” ra những tư tưởng, tôn giáo mới cho “phù hợp” hơn với con
người Việt Nam hiện nay. Song nhìn nhận lại một cách thật sự khách quan
và khoa học sự tồn tại của chủ nghĩa Mác - Lênin trong xã hội ta, có lẽ
không ai phủ nhận được vai trò ưu trội và triển vọng của nó trong sự phát
triển con người.
Trên cơ sở vận dụng khoa học và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về
con người tại hội nghị lần thứ tư của ban chấp hành trung ương khoá VII,
Đảng ta đã đề ra và thông qua nghị quyết về việc phát triển con người Việt
Nam toàn diện với tư cách quyết về việc phát triển con người Việt Nam
toàn diện với tư cách là “động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới
đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Đó là “con người phát triển cao
về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về
đạo đức”.
Do nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề con người, em đã
chọn đề tài: “Quan điểm của chủ nghĩa Mác về con người”.
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
NỘI DUNG
CHƯƠNG I. LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC VỀ CON NGƯỜI.
I.Bản chất của con người.
a. Quan điểm của các nhà triết học trước Mác về con người:
Có thể nói vấn đề con người là một trong những vấn đề quan trọng
nhất của thế giới từ trước tới nay. Đó là vấn đề mà luôn được các nhà
khoa học, các nhà nghiên cứu phân tích một cách sâu sắc nhất. Không
những thế trong nhiều đề tài khoa học của xã hội xưa và nay thì đề tài con
người là một trung tâm được các nhà nghiên cứu cổ đại đặc biệt chú ý. Các
lĩnh vực tâm lý học, sinh học, y học, triết học, xã hội học.v.v...Từ rất sớm
trong lịch sử đã quan tâm đến con người và không ngừng nghiên cứu về nó.
Mỗi lĩnh vực nghiên cứu đó đều có ý nghĩa riêng đối vưói sự hiểu biết và
làm lợi cho con người.
Hơn bất cứ một lĩnh vực nào khác, lĩnh vực triết học lại có nhiều
mâu thuẫn trong quan điểm, nhận thức và nó đã gây nên sự đấu tranh không
biết khi nào dừng. Những lập trường chính trị trình độ nhận thức và tâm lý
của những người nghiên cứu khác nhau và do đó đã đưa ra những tư tưởng
hướng giải quyết khác nhau.
Khi đề cập tới vấn đề con người các nhà triết học để tự hỏi: Thực
chất con người là gì và để tìm cách trả lời câu hỏi đó phải giải quyết hàng
loạt mâu thuẫn troch chính con người. Khi phân tích các nhà triết học cổ
đại coi con người là một tiểu vũ trụ, là một thực thể nhỏ bé trong thế giới
rộng lớn, bản chất con người là bản chất vũ trụ. Con người là vật cao quý
nhất trong trời đất, là chúa tể của muôn loài. Chỉ đứng sau thần linh. Con
người được chia làm hai phần là phần xác và phần hồn. Chủ nghĩa duy tâm
và tôn giáo thì cho rằng: Phần hồn là do thượng đế sinh ra; quy định, chi
phối mọi hoạt động của phần xác, linh hoòn con người tồn tại mãi mãi.
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Chủ nghĩa duy vật thì ngược lại họ cho rằng phần xác quyết định và chi
phối phần hồn, không có linh hồn nào là bất tử cả, và quá trình nhận thức
đó không ngừng được phát hiện. Càng ngày các nhà triết học tìm ra được
bản chất của con người và không ngừng khắc phục lý luận trước đó.
Triết học thế kỷ XV - XVIII phát triển quan điểm triết học về con
người trên cơ sở khoa học tự nhiên đã khắc phục và bắt đầu phát triển.
Chủ nghĩa duy vật máy móc coi con người như một bộ máy vận động theo
một quy luật cổ. Học chủ nghĩa duy tâm chủ quan và thuyết không thể biết
một mặt coi cái tôi và cảm giác của cái tôi là trung tâm sáng tạo ra cái
không tôi, mặt khả cho rằng cái tôi không có khả năng vượt quá cảm giác
của mình nên về bản chất là nhỏ bé yếu ớt, phụ thuộc đấng tới cao. Các
nhà triết học thuộc một mặt đề cao vai trò sáng tạo của lý tính người, mặt
khác coi con người, mặt khác coi con người là sản phẩm của tự nhiên và
hoàn cảnh.
Các nhà triết học cổ điển đức, từ Cartơ đến Heghen đã phát triển
quan điểm triêt học về con người theo hướng của chủ nghĩa duy tâm. Đặc
biệt Heghen quan niệm con người là hiện thân của ý niệm tuyệt đối là con
người ý thức và do đó đời sống con người chỉ được xem xét vè mặt tinh
thần Song Heghen cũng là người đầu tiên thông qua việc xem xét cơ chế
hoạt động của đời sống tinh thần mà phát hiện ra quy luật về sự phát triển
của đời sống tinh thần cá nhân. Đồng thời Heghen cũng đã nghiên cứu bản
chất quá trình tư duy khái quát các quy luật cơ bản của quá trình đó.
Sau khi đoạn tuyệt với chủ nghĩa duy tâm Heghen, phơ bách đã phê
phán tính siêu tự nhiên, phi thể xác trong quan niệm triết học Heghen, ông
quan niệm con người là sản phẩm cảu tự nhiên, có bản năng tự nhiên, là
con người sinh học trực quan, phụ thuộc vào hoàn cảnh, ông đã sử dụng
thành tựu của khoa học tự nhiên để chứng minh mối liên hệ không thể chia
cắt của tư duy với những quá trình vật chất diễn ra trong cơ thể con người,
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
song khi giải thích con người trong mối liên hệ cộng đồng thì phơ bách lại
rơi vào lập trường của chủ nghĩa duy tâm.
Tóm lại: Các quan niệm triết học nói trên đã đi đến những các thức
lý luận xem xét người một cách trừu tượng. Đó là kết quả của việc tuyệt
đối hoá phần hồn thành con người trừu tượng. Tự ý thức còn chủ nghĩa duy
vật trực quan thì tuyệt đối hoá phần xác thành con người trừu tượng. Sinh
học, tuy nhiên họ vẫn còn nhiều hạn chế, các quan niệm nói trên đều chưa
chú ý đầy đủ đến bản chất con người.
Sau này chủ nghĩa Mác đã kế thừa và khắc phục những mặt hạn chế
đó, đồng thời phát triển những quan niệm về con người đã có trong các học
thuyết triết học trước đây để đi tới quan niệm về con người thiện thực,
con người thực tiễn cải tạo tự nhiên và xã hội với tư cdách là con người
hiện thực. Con người vừa là sản phẩm của tự nhiên và xã hội đồng thời
vừa là chủ thể cải tạo tự nhiên.
b. Con người là chủ thể sinh động nhất của xã hội.
Sự “sinh động” ở đây có nghĩa là con người có thể chinh phục tự
nhiên, cỉa tạo tự nhiên. Tuy rằng con người đã bỏ xa giới động vật trong
quá trình tiến hoá nhưng như thế không có nghĩa là con người đã lột bỏ tất
cả những cái tự nhiên để không còn một sự liên hệ nào với tổ tiên của
mình. Con người là sản phẩm tự nhiên, là kết quả của quá trình tiến hoá
lâu dài của giới hữu sinh, đã là con người thì phải trải qua giai đoạn sinh
trưởng, tử vong, mỗi con người đều có nhu cầu ăn, mặc ở, sinh hoạt...
Song con người khong phải là động vật thuần tuý như các động vật khác
mà xét trên khía cạnh xã hội thì con người là động vật có tính xã hội, con
người là sản phẩm của xã hội, mang bản tính xã hội. Những yếu tố xã hội
là tất cả những quan hệ, những biến đổi xuất hiện do ảnh hưởng của các
điều kiện xã hội khác nhau, những quy định về mặt xã hội toạ nên con
người. Con người chỉ có thể tồn tịa được khi tiến hành lao động sản xuất
của cải vật chất để thoả mãn nhu cầu mình và chính lao động sản xuất là
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
yếu tố quyết định hình thành con người và ý thức. Lao động là nguồn gốc
duy nhất của vật chất, vật chất quyết định tinh thần theo logic thì lao động
là nguồn gốc của văn hoá vật chất và tinh thần.
Mặt khác trong lao động con người quan hệ với nhau trong lĩnh vực
sản xuất, đó là những quan hệ nền tảng để từ đó hình thành các quan hệ xã
hội khác trong các lĩnh vực đời sống và tinh thần.
Chính vì con người là sản phẩm của tự nhiên và xã hội cho nên con
người chịu sự chi phối của môi trường tự nhiên và xã hội cùng các quy luật
biến đổi của chúng. Các quy luật tự nhiên như quy luật về sự phù hợp giữa
cơ thể và môi trường, quy luật về quá trình trao đổi chất... tác động tạo nên
phương diện sinh học của con người. Các quy luật tâm lý, ý thức hình
thành và hoạt động trên nền tảng sinh học của con người hình thành tư
tưởng tình cảm khát vọng niềm tin, ý chí. Các quy luật xã hội quy định mối
quan hệ giữa người với người, điều chỉnh hành vi của con người. Hệ
thống các quy luật trên cũng tác động lên con người, tạo nên thể thống nhất
hoàn chỉnh giữa sinh học cái xã hội trong con người.
Với tư cách là con người xã hội, là con người hoạt động thực tiễn
con người sản xuất và của cải vật chất, tác động vào tự nhiên để cải tạo
tự nhiên, con người là chủ thể cải tạo tự nhiên. Như vậy con người vừa do
tự nhiên sinh ra, bị phụ thuộc vào tự nhiên vừa tác động vào tự nhiên. Tình
cảm thống trị tự nhiên chỉ có con người mới khắc phục được tự nhiên bằng
cách tạo ra những vật chất, hiện tượng không như tự nhiên bằng cách toạ
ra những vật chất, hiện tượng không như tự nhiên vốn có bằng cách đó con
người đã biến đổi bộ mặt của tự nhiên, bắt tự nhiên phải phục vụ con
người. Tuy nó là sản phẩm của tự nhiên. Một điều chắc chắn rằng có con
người chỉ có thể thống trị tự nhiên nếu biết tuân theo và nắm bắt các quy
luật của chính bản thân đó. Quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng tạo
ra lịch sử cho mình. Con người không những là sản phẩm của xã hội mà
con người còn là chủ thể cải tạo chúng. Bằng mọi hoạt động lao động sản
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
xuất con người sáng tạo ra toàn bộ nền văn hoá vật chất, tinh thần. Bằng
hoạt động cách mạng. Con người đánh dấu thêm các trang sử mới cho
chính mình mặc dù tự nhiên và xã hội đều vận động theo những quy luật
khách quan song quá trình vận động của con người luôn xuất phát từ nhu
cầu, động cơ và hứng thú, theo đuổi những mục đích nhất định và do đó đã
tìm cách hạn chế hoặc mở rộng phạm vi tác dụng cuả quy luật cho phù
hợp với nhu cầu và mục đích của mình. Nếu không có con người với tư
cách là chủ thể sinh động nhất của xã hội thì không thể có xã hội, không
thể có sự vận động của xã hội mà vượt lên tất cả chính là của cải vật
chất.
II. Quan điểm chủ nghĩa Mác về con người.
Chủ nghĩa xã hội do con người và vì von người. Do vậy, hình thành
mới quan hệ đúng đắn về con người về vai trò của con người trong sự phát
triển xã hội nói chung, trong xã hội chủ nghĩa nói riêng là một vấn đề
không thể thiếu được của thế giới quan Mác - Lênin.
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin con người là khái niệm chỉ những cá thể
người như một chỉnh thể trong sự thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã
hội của nó. Con người là sản phẩm của sự tiến hoá lâu dài từ giới tự nhiên
và giới sinh vật. Do vậy nhiều quy luật sinh vật học cùng tồn tại và tác
động đến con người. Để tồn tại với tư cách là một con người trước hết
con người cũng phải ăn, phải uống... Điều đó giải thích vì sao Mác cho
rằng co người trước hết phải ăn, mặc ở rồi mới làm chính trị.
Nhưng chỉ dừng lại ở một số thuộc tỉnh sinh học của con người thì
không thể giải thích được bản chất của con người. Không chỉ có “con
người là tổng hoà các quan hệ xã hội” mà thực ra quan điểm của Mác là
một quan điểm toàn diện.
Mác và Anghen nhiều lần khẳng định lại quan điểm của những nhà
triết học đi trước rằng. Con người là một bộ phận của giới tự nhiên, là
một động vật xã hội, nhưng khác với họ, Mác, Anghen; xem xét mặt tự
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
nhiên của con người, như ăn, ngủ, đi lại, yêu thích... Không còn hoàn mang
tính tự nhiên như ở con vật mà đã được xã hội hoá. Mác viết: “Bản chất
của con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng
biệt. Trong tính hiện thực của nó bản chất của con người là tổng hoà của
những mối quan hệ xã hội” con người là sự kết hợp giữa mặt tự nhiên và
mặt xã hội nên Mác nhiều lần đã so sánh con người với con vật, so sánh
con người với những con vật có bản năng gần giống với con người... Và
để tìm ra sự khác biệt đó. Mác đã chỉ ra sự khác biệt ở nhiều chỗ như chỉ
có con người làm ra tư liệu sinh hoạt của mình, con người biến đổi tự
nhiên theo quy luật của tự nhiên, con người là thước đo của vạn vật, con
người sản xuất ra công cụ sản xuất... Luận điểm xem con người là sinh
vật biết chế tạo ra công cụ sản xuất được xem là luận điểm tiêu biểu của
chủ nghĩa Mác về con người.
Luận điểm của Mác coi “Bản chất của con người là tổng hoà các
quan hệ xã hội” Mác hoàn toàn không có ý phủ nhận vai trò của các yếu tố
và đặc điểm sinh học của con người, ông chỉ đối lập luận điểm coi con
người đơn thuần như một phần của giới tự nhiên còn bỏ qua, không nói gì
đến mặt xã hội của con người. Khi xác định bản chất của con người trước
hết Mác nêu bật cái chung, cái không thể thiếu và có tính chất quyết định
làm cho con người trở thành một con người. Sau, thì khi nói đến “Sự định
hướng hợp lý về mặt sinh học” Lênin cũng chỉ bác bỏ các yếu tố xã hội
thường xuyên tác động và ảnh hưởng to lớn đối với bản chất và sự phát
triển của con người. Chính Lênin cũng đã không tán thành quan điểm cho
rằng mọ người đều ngang nhau về mặt sinh học. Ông viết “thực hiện một
sự bình đẳng về sức lực và tài năng con người thì đó là một điều ngu
xuẩn... Nói tới bình đẳng thì đó luôn luôn là sự bình đẳng xã hội, bình đẳng
về địa vị chỉ không phải là sự bình đẳng về thể lực và trí lực của cá nhân”.
Để khẳng định cho tiến trình phát triển lịch sử của xã hội loài người
là sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội, Mác đã nói tới
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
việc lấy sự phát triển toàn diện của con người làm thước đo chung cho sự
phát triển xã hội, Mác cho rằng xu hướng chung của tiến trình phát triển
lịch sử được quy định bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội bao
gồm con người và những công cụ lao động do con người tạo ra, sự phát
triển của lực lượng sản xuất xã hội, tự nó đã nói lên trình độ phát triển của
xã hội qua việc con người đã chiếm lĩnh xã hội và sử dụng ngày càng nhiều
lực lượng tự nhiên với tư cách là cơ sở vật chất cho hoạt động sống của
chính con người và quyết định quan hệ giữa người với người trong sản
xuất. Sản xuất ngày càng phát triển tính chất xã hội hoá ngày cnàg tăng.
Việc tiến hành sản xuất tập thể bằng lực lượng của toàn xã hội và sự phát
triển mới của nền sản xuất do nó mang lại sẽ cần đến những con người
hoàn toàn mới. Những con người có năng lực phát triển toàn diện và đến
lượt nó, nền sản xuất sẽ tạo nên những con người mới, sẽ làm nên những
thành viên trong xã hội có khả năng sử dụng một cách toàn diện năng lực
phát triển của mình theo Mác "phát triển sản xuất vì sự phồn vinh của xã
hội, vì cuộc sống tốt đẹp hơn cho mỗi thành viên trong cộng đồng xã hội
và phát triển con người toàn diện là một quá trình thống nhất để làm tăng
thêm nền sản xuất xã hội" để sản xuất ra những con người phát triển toàn
diện hơn nữa, Mác coi sự kết hợ chặt chẽ giữa phát triển sản xuất và phát
triển con người là một trong những biện pháp mạnh mẽ để cải biến xã
hội.
Con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất là
yếu tố hàng đầu, yếu tố đóng vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất
của xã hội mà hơn nữa, con người còn đóng vai trò là chủ thể hoạt động
của quá trình lịch sử. Thông qua hoạt động sản xuất vật chật con người
sáng tạo ra lịch sử của mình, lịch sử 7của xã hội loài ngoài. Từ đó quan
niệm đó Mác khẳng định sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội có ý
nghĩa là sự phát triển phong phú bản chất con người, coi như là một mục
đích tự thân. Bởi vậy theo Mác ý nghĩa lịch sử mục đích cao cả của sự phát
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
triển xã hội là phát triển con người toàn diện, nâng cao năng lực và phẩm
giá con người, giải phóng con người, loại trừ ra khỏi cuộc sống con người
để con người được sống với cuộc sống đích thực. Và bước quan trọng
nhất trên con đường đó là giải phóng con người về mặt xã hội.
Điều đó cho thấy trong quan niệm của Mác thực chất của tiến trình
phát triển lịch sử xã hội loài người là vì con người, vì cuộc sống ngày cnàg
tốt đẹp hơn cho con người, phát triển con người toàn diện và giải phóng
con người, nói theo Anghen là đưa con người từ vương quốc của tất yếu
sang vương quốc của tự do, con người cuối cùng cũng là người tôn tại của
xã hội của chính mình, đồng thời cũng trở thành người chủ của tự nhiên,
người chủ bản thân mình. Đó là quá trình mà nhân loại đã tự tạo ra cho
mình những điều kiện, những khả năng cho chính mình nhằm đem lại sự
phát triển toàn diện, tự do và hài hoà cho mỗi con người trong cộng đồng
nhân loại tạo cho con người năng lực làm chủ tiến trình lịch sử của chính
mình.
Quan niệm của Mác về định hướng phát triển xã hội lấy sự phát
triển của con người làm thước đo chung càng được khẳng định trong bối
cảnh lịch sử của xã hội loài người. Ngày nay loài người đang sống trong
bối cảnh quốc tế đầy những biến động, cộng đồng thế giới đang thể hiện
hết sức rõ ràng tính đa dạng trong các hình thức phát triển của nó xã hội
loài người kể từ thời tiền sử cho đến nay bao giờ cũng là một hệ thống
thống nhất tuy nhiên cũng là một hệ thống hết sức phức tạp và chính vì sự
phức tạp đó đã tạo nên tính không đồng đều trong sự phát triển kinh tế xã
hội ở các nước, các khu vực khác nhau. Đến lượt mình, tính không đồng
đều của sự phát triển này lại hình thành nên một bức tranh nhiều màu sắc
về định hướng nào, thì mọi định hướng phát triển vẫn phải hướng tới giá
trị nhân văn của nó - tới sự phát triển con người.
Xã hội bao giờ cũng tồn tại nhiều giai cấp đó điều quan trọng là giai
cấp đó có phục tùng được lòng dân hay không. Trải qua thời kỳ phát triển
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
của xã hội loại người chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp đáp ứng đầy đủ
mọi quy luật của cuộc sống và đó chính là lý do tại sao mác lại lấy giai cấp
vô sản để nghiên cứu trong đó Mác tập trung nghiên cứu con người vô sản
là chủ yếu.
Theo Mác, người vô sản là ngừơi sản xuất ra của cải vật chất cho xã
hội hiện đại, nhưng lao động của họ lại bị tha hoá, lao động từ chỗ gắn bó
với họ nay trở nên xa lạ nghiêm trọng hơn nữa chính nó đã thống trị họ,
tình trạng bất hợp lý này cần phải được giải quyết. Với Mác, người vô sản
là người tiêu biểu cho phương thức sản xuất mới, có sứ mệnh và hoàn toàn
có khả năng giải phóng mình, giải phóng xã hội để xây dựng xã hội mới tốt
đẹp hơn. Theo Mác "đến xã hội cộng sản chủ nghĩa, con người không còn
thất nghiệp, không còn bị ràng buộc vào một nghề nghiệp nhất định họ có
thể làm bất kỳ một nghề nào nếu có khả năng và thích thú, họ có quyền
làm theo năng lực, hướng theo nhu cầu tuy nhiên những ý muốn đó không
xảy ra bởi vì cách mạng cộng sản chủ nghĩa không diễn ra theo ý của họ.
Nó không diễn ra đồng loạt tren tất cả các nước tư bản, ít ra là ở các nước
tư bản tiên tiến, trái lại nó lại diễn ra ở những nước xã hội chủ nghĩa tiêu
biểu là nước Nga (Liên Xô cũ)… Một nước công nghiệp chưa phát triển,
nông dân chiếm số đông trong dân số. Vì vậy quan niệm của ông về con
người khó có điều kiện được chứng minh.
III. Vai trò của chủ nghĩa Mác về con người trong đời sống xã hội.
Do nhân thức được vai trò và tầm quan trọng của vấn đề con người
đạc biệt là vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước ta hiện nay. Đảng và nhân dân ta đã và đang xây dựng và phát
triển đất nước toàn diện về nhiều mặt đặc biệt là lĩnh vực kinh tế, nó phụ
thuộc rất nhiều vào nhiều chiến lược con người: Cần đào tạo con người
một cách có chiều sâu lấy tư tương và chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền
tảng, cũng như trên thế giới ở nước ta chiến lược con người nó có một ý
nghĩa hết sức quan trọng và để phát triển đúng hướng chiến lược đó cần có
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
một chính sách phát triển con người, không để con người đi lệch tư tưởng
tuy nhiên trong thực tế không ít người sẽ ngang đi tìm khả năng phát triển
nó trong chủ nghĩa tư bản. Nhiều người trở về phục sinh và tìm sự hoàn
thiện con người trong các tôn giáo và các hệ tư tưởng truyền thống. Có
người lại sáng tạo ra tư tưởng tôn giáo mới cho phù hợp với con người
Việt Nam. Song nhìn lại một cdách khách quan và khoa học sự tồn tại của
chủ nghĩa Mác - Lênin trong xã hội Việt Nam có lẽ không ai có thể phủ
nhận được vai trò ưu trội và triển vọng cuả nó trong sự nghiệp phát triển
con người tạo đà cho bước phát triển tiếp theo của sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá thì một nước đang còn ở tình trạng kém phát triển như
nước ta không thể không xây dựng một chính sách phát triển lâu dài, có tầm
nhìn xa trông rộng phát triển con người nâng cao chất lượng của người lao
động. Hơn bất cứ một lĩnh vực nghiên cứu nào khác, lĩnh vực phát triển
con người là mục tiêu cao cả nhất của toàn dân, đưa loài người tới một kỷ
nguyên mới, mở ra nhiều khả năng để tìm ra những con đường tối ưu đi tới
tương lai con đường khả quan nhất cho sự nghiệp phát triển con người
trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Trong đời sống xã
hội thực tiễn cơ sở vận dụng khoa học và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
về con người tại hội nghị lần thứ tư của ban chấp hành trung ương Đảng
khoá VII đề ra nghị quyết và thông qua nghị quyết về việc phát triển con
người Việt Nam toàn diện với tư cách là "Động lực của sự nghiệp xây
dựng xã hội mới, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội" Đó là "con
người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất phong phú về tinh
thần, trong sáng về đạo đức". Bởi lẽ, người lao động nước ta ngày càng
đóng vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và trong sự
phát triển của nền kinh tế đất nước theo cớ chế thị trường, dưới sự quản
lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì chất lượng của
người lao động là nhân tố quyết định nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định "Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng
lợi cuả công cuộc đổi mới đất nước". Thực tiễn đã chứng tỏ xã hội ta
hiện nay tình trạng mất hài hoà về mặt bản thể của mỗi cá nhân là chủ
yếu, là tất cả bản thể cá nhân phát triển toàn diện và hài hoà về đạo đức,
trí tuệ, thể lực là mục tiêu xây dựng con người trong chủ nghĩa xã hội
nhưng mục tiêu cơ bản và quan trọng hơn cả là vấn đề con người phải trở
thành nhân tố quyết định lịch sử xã hộivà lịch sử của chính mình.
Các nhà tư tưởng tư sản xuyên tạc chủ nghĩa Mác cho rằng đó là
"chủ nghĩa không có con người" thực tế thì, chủ nghĩa Mác là một chỉnh
thể thống nhất của ba bộ phận triết học nghiên cứu các quy luật của thế
giới, giúp ta hiểu bản chất, mới quan hệ tự nhiên - xã hội - con người,
chính trị kinh tế vạch ra quy luật đi lên của xã hội, chủ nghĩa xã hội khoa
học chỉ ra con đường và phương pháp nghiên cứu con người. Chủ nghĩa
Mác là một chỉ nghĩ vì con người, chủ nghĩa nhân đạo. Học thuyết đó
không chỉ chứng minh bản chất của con người ("tổng hoà của các quan hệ
xã hội") và bản tính con người ("luôn vươn tới sự hoàn thiện") mà còn
vạch hướng đưă con người đi đúng bản chất và bản tính của mình, giải
phóng, xoá bỏ sự tha hoá, tạo điều kiện phát huy mọi sức mạnh bản chất
người, phát triển toàn diện, hài hoà cho từng cá nhân. Sự phù hợp giữa tư
tưởng Mác Xít với bản chất và bản tính người đã thu phục và làm say mê
những con người hằng mong vươn lên xây dựng xã hội mới, mở ra mọi
khả năng cho sự phát triển con người.
Chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin mới có thẻ vạch rõ được hướng đi
đúng cho con đường đi lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, thực tế cho thấy
cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam đã
làm nên thắng lợi cách mạng giải phòng dân tộc (1945), thống nhất đất
nước (1975) thực hiện ý chí độc lập tự do con người việt Nam điều mà bao
nhiêu học thuyết trước Mác không thể áp dụng được, và chính chủ nghĩa
Mác - Lênin đã làm thay đổi, trở thành hệ tư tưởng chính thống của toàn xã
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
hội, thay đổi nhanh chóng đời sống tinh thần đại đa số nhân dân Việt Nam.
Thực tiễn hoạt động cách mạng xã hội chủ nghĩa vừa nhanh chóng nâng
cao trình độ nhận thức toàn diện. Bằng hệ thống giáo dục với các hình
thức đào tạo đa dạng, với các hình thức khoa học thấm nhuần tinh thần cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin đã hình thành kế tiếp nhau những lớp người
lao động mới ngày càng có tư tưởng, trình độ chung, chuyên môn cao ngày
nay chúng ta đã có một đội ngũ cán bộ văn hoá khoa học công nghệ với
trình độ lý luận và quản lý tốt đồng đều trong cả nước.
Có thể nói chỉ trong một thời gian ngắn hệ tư tưởng Macxít đã thể
hiện xu hướng của mình đối với nền văn hoá dân dã, xoá bỏ dần dần sự
thống trị của các loại tư tưởng tự phát, lạc hậu, thấp kém trong con người
cũ, mê tín dị đoan, các niềm tin mù quáng… Với sức mạnh có tính khoa
học, học thuyết Mác - Lênin đã vạch rõ được những yếu tố phi khoa học,
phi nhân đạo, các loại thế giới quan, nhân sinh quan sai lệch mà trước đó đã
làm mai một trí tuệ, tính tích cực trong con người của các hệ tư tưởng
truyền thống. Mặt khác, chủ nghĩa Mác - Lênin còn thể hiện rõ tính ưu việt
trong con người đối với các luồng tư tưởng tư sản ngoại nhập của Phương
Tây, và các trào lưu tư tưởng tư sản hiện tại đang làm lệch hướng đi của
những con người chân chính trong điều kiện đời sống vật chất khó khăn.
Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc xiềng xích của chân lý cổ truyền, của
nền sản xuất tiểu nông với tư duy còn hạn chế, kinh nghiệm, phi khoa học
trong con người thiếu văn hoá do xã hội cũ để lại đã được tri thức khoa học
Mác xít phá tan. Một ý thức tiên tiến ra đời. Các tín ngưỡng dần dần cũng
phải nhường chỗ cho niềm tin khoa học. Các yếu tố tư duy duy vật biện
chứng hình thành trong đời sống thường ngày, trong lao động, cũng như
trong mọi hoạt động của xã hội. Thế giới quan khoa học ngày càng ăn sâu
ở những con người luôn phấn đấu cho thắng lợi của chủ nghĩa xã hội nó
nhìn thế giới, xã hội, con người trong sự vận động và phát triển trong tính
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
hiện thực và tiềm ẩn những khả năng, sự tồn tại khách quan là điều kiện
sống và sự phát triển con người.
Thế giới quan đó hàm chứa nhân sinh quan tiến bộ, khắc phục dần
những quan niệm sai lầm, phiến diện về con người của các hệ tư tưởng
khác.
Sự chuyển đổi hệ tư tưởng dẫn đến chuyển đổi hệ giá trị của xã hội
và giá trị con người, con người từ chỗ phục tùng chuyển sang tự chủ, sáng
tạo, từ chỗ dựa trên tập quán chuyển sang lý trí, dân chủ, từ chí tìm cách
hoà đồng chuyển sang tôn trọng cả cá tính và bản lĩnh riêng. Các chuẩn
mực mới của con người đòi hỏi không chỉ phát triển từng mặt riêng lẻ mà
phải là cá nhân phát triển hài hoà tính cách mạng của học thuyết Mác xít
khắc phục dần lối sống thụ động, hẹp hòi, làm cơ sở cho lối sống tích cực,
vì xã hội, phát triển ý thức luôn vươn lên làm chủ và xây dựng cuộc sống
mới xuất hiện những nhân cách mới.
Tuy nhiên sự phát triển con người ngày nay không chỉ là sản phẩm
của hệ tư tưởng Mác xít vì ngay khi chủ nghĩa Mác xít trở thành hệ tư
tưởng chính thống ở Việt Nam thì các tôn giáo, các hệ tư tưởng và văn hoá
bản địa đã có sức sống riêng của nó. Chủ nghĩa Mác - Lênin thâm nhập, nó
như một hệ tư tưởng khoa học vượt hẳn lên cái nền văn hoá bản địa,
nhưng nó cũng chịu sự chi phối tác động đan xen của các yếu tố sai - đúng,
yếu - mạnh, mới - cũ, v.v.. Các yếu tố tích cực đã thúc đẩy, còn các yếu tố
tiêu cực thì kìm hãm sự phát triển con người.
Sự văn minh, phát triển hoá con người Việt Nam của chủ nghĩa Mác
- Lênin vừa có lợi thế song cũng không tránh khỏi những sai lầm. Sai lầm là
sự chống trả của tư tưởng văn hoá bản địa đã thành truyền thống. Lợi thế
là văn hoá bản địa chưa có một hệ tư tưởng khoa học định hình vững chắc,
nó dường như đang thiếu một lý thuyết khoa học. Nếu như không có chủ
nghĩa Mác - Lênin xã hội Việt Nam phát triển hơn, đó là tư tưởng của
những người thiếu hiểu biết về một xã hội tiến bộ, luôn coi cái trước mắt
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
mình là những thứ vô giá trị mà chỉ chạy theo trào lưu, điều đáng trách hơn
là họ cần cho rằng văn hoá Việt Nam sẽ phong phú hơn, đặc sắc hơn.
Thực tế, từ khi xuất hiện chủ nghĩa Mác - Lênin xã hội Việt Nam như
được tiếp thêm sức mạnh, phát triển có khoa học hơn, ở khía cạnh nào đó
trình độ dân trí, trình độ năng lực, văn hoá, khoa học, nghệ thuật… Con
người Việt Nam không thua kém con người của các nước văn minh khác.
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin con người chỉ những cá thể, là sự thống
nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội của nó. Cái mà chủ nghĩa Mác -
Lênin đã làm được đó là lý luận con người trong xã hội chứ không chỉ mặt
sinh học như trước đây. Và chính vậy mà nó đã được áp dụng vào xã hội
Việt Nam, trong cách mạng xã hội chủ nghĩa con người là yếu tố quyết
định vừa là điểm xuất phát vừa là mục tiêu của mọi chính sách kinh tế - xã
hội. Xây dựng chủ nghĩa xã hội là xây dựng được một xã hội mà ở đó có
đủ những điều kiện vật chất và tinh thần để thực hiện trong thực tế
nguyên tắc "Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát
triển tự do của tất cả mọi người" và ở một đất nước ta, một đất nước
đang còn nghèo nàn thì việc phát triển yếu tố con người là một vấn đề mà
Đảng ta đã xác định đó là vấn đề then chốt cho sự phát triển kinh tế đất
nước lấy chủ nghĩa Mác - Lênin là kim chỉ nam cho mọi hoạt động.
Chúng ta cũng đã có những đổi mới rõ rệt, sự phát triển hàng hoá
nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, sự phân hoá giàu nghèo sự phân
tầng xã hội, việc mở rộng dân chủ đối thoại trong sinh hoạt chính trị của
đất nước, việc mở cửa và phát triển giao lưu quốc tế về các mặt kinh tế,
văn hoá và chính trị, trên thế giớ. Sự biến đổi nhanh chóng của tình hình
chính trị quốc tế, sự phát triển vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ… Điều đó đòi hỏi chúng ta phải biết vận dụng chủ nghĩa Mác
một cách khoa học, hợp lý và sáng tạo để đáp ứng được những đòi hỏi của
xã hội mới nếu muốn tồn tại và vươn lên một tầm cao mới.
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
KẾT LUẬN
Chủ nghĩa xã hội do con người, vì con người. Do vậy hình thành mối
quan hệ đúng đắn về con người về vai trò của con người trong sự phát
triển xã hội nói chung trong xã hội, xã hội chủ nghĩa nói riêng là một ván
đề không thể thiếu được của thế giới quan Mác - Lênin.
Con người là khái niệm chỉ những cá thể người như một chỉnh thể,
trong sự thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội của nó.
Nếu chỉ dừng lại ở một số trước tính sinh học của con người thì
không thể giải thích được bản chất của con người, con người là một thực
thể đặc biệt hoạt động có ý thức, có khả năng sáng tạo cho mình. Từ tự
nhiên và chính trong quá trình hoạt động đó những quan hệ xã hội được
hình thành có tác động mạnh mẽ tới sự hình thành nhân cách, bản chất con
người Mác viết “Con người là tổng hoà của những quan hệ xã hội”.
Con người là chủ thể lịch sử, sáng tạo và lịch sử. Trong CMXHCN
con người là yếu tố quyết didnhj vừa là điểm xuất phát vừa là mục đích
của một chính sách kinh tế - xã hội xây dựng xã hội chủ nghĩa là xây dựng
xã hội chủ nghĩa là xây dựng một xã hội mà ở đố có đủ những điều kiện
vật chất và tinh thần.
Việt Nam đã làm được điều đó hay chưa; cho tới nay tuy chúng ta đã
đạt được những thành tựu đáng kể nhưng đời sống vật chất tinh thần của
đại đa số, người dân còn thiếu. Do vậy lý luận chủ nghĩa Mác Lênin nói
chung và quan điểm chủ nghĩa Mác Lênin về con người là kim chỉ nam để
hướng đất nước ta cần phải đi đâu, làm gì và làm như thế nào, để thực
hiện thành công công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hóa đất nước, có như
vậy chúng ta mới vượt qua được cái ngưỡng của nghèo nàn và lạc hậu...
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo tình triết học Mác Lên của NXB chính trị quốc gia (tập I, tập
II).
2. Giáo trình kinh tế chính trị học của NXB giáo dục 1996,
3. Tài liệu học tập lý luận chính trị phổ thông (NXB chính trị quốc gia
(tập 1).
4. Tạp chí cộng sản.
5. Con người Việt Nam và công cuộc đổi mới kỷ yếu hội nghị khoa
học từ 28 - 29 /7/1993. Tại TPHCM.
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
MỤC LỤC
Lời mở đầu...............................................................................................1
Nội dung
Chương I. Lý luận của chủ nghĩa Mác về con người............................3
I. Bản chất của con người......................................................................3
a. Quan điểm của các nhà triết học trước Mác về con người................4
b. Con người là chủ thể sinh động nhất của xã hội...............................5
II. Quan điểm chủ nghĩa Mác về con người...........................................7
III. Vai trò của chủ nghĩa Mác về con người trong đời sống xã hội....11
Kết luận..................................................................................................15
Tài liệu tham khảo.................................................................................16