Nguyên lí chủ nghĩa Mác - Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo
Mâu thuẫn là hiện tượng có trong tất cả các lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy con người, đặc biệt trong hoạt động kinh tế,chẳn hạn như cung cầu , tích luỹ và tiêu dùng, tính kế hoạch hoá của từng xí nghiệp, từng công ty và tính tự phát vô chính phủ của nền sản xuất hàng hoá….Mâu thuẫn tồ tại khi sự vật xuất hiện đến khi sự vật kết thúc. Trong mỗi sự vật, mâu thuẫn hình thành không phải chỉ là một mà là nhiều mâu thuẫn, và sự vật trong cùng một...
Lời nói đầu
Mâu thuẫn là hiện tượng có trong tất cả các lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và
tư duy con người, đặc biệt trong hoạt động kinh tế,chẳn hạn như cung
cầu , tích luỹ và tiêu dùng, tính kế hoạch hoá của từng xí nghiệp, từng
công ty và tính tự phát vô chính phủ của nền sản xuất hàng hoá….Mâu
thuẫn tồ tại khi sự vật xuất hiện đến khi sự vật kết thúc. Trong mỗi sự
vật, mâu thuẫn hình thành không phải chỉ là một mà là nhiều mâu thuẫn,
và sự vật trong cùng một lúc có nhiều mặt đối lập thì mâu thuẫn nay mất
đi thì mâu thuẫn khác lại hình thanh….
Trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta do đảng khởi xướng và lãnh đạo đã
dành được nhiều thắng lợi bước đầu mang tính quyết định, quan trọng
trong việc chuyển nền kinh tế từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong những chuyển biến đó đã đạt nhiều thành công to lớn nhưng trong
những thành công đó luôn luôn tồn tại những mâu thuẫn kìm hãm sự phát
triển của công cuộc đổi mới. đỏi hỏi phải được giải quyết và nếu được
giải quyết sẽ thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Với mong muốn tìm hiểu thêm những vấn đề của nền kinh tế, quan điểm
lý luận cũng những vướng mắc trong giải pháp, quy trình xử lý các vấn
đề chính trị – xã hội có liên quan đến quá trình tiến hành cải cách trong
việc chuyển nền kinh tế tôi chọn “Mâu thuẫn biện chứng trong quá
trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở việt nam” làm đề tài cho tiểu luận triết học Mác – Lê nin
1
LÝ LUẬN CHUNG
Tất cả các sự vật , hiện tượng trên thế giới đều chứa đựng những
mặt trái ngược nhau. Trong nguyên tử có điện tử và hạt nhân, trong sinh
vật có đồng hoá và dị hoá, trong kinh tế thị trường có cung và cầuhàng và
tiền… những mặt trái ngược nhau đó trong phép biện chứng duy vật gọi
là mặt đối lập: ở đây tôi chia làm 4 phần.
+Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến.
+Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
+Sự chuyển hoá của các mặt đối lập.
+Các mặt mâu thuẫn.
1. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến.
Đối lập với các quan điểm của triết học cũ , phép biện chứng duy
vật khẳng định rằng tất cả các sự vật, hiện tượng tồn tại trong thực tại
khách quan đều chứa đựng trong nó mâu thuẫn .sự hình thành và phát triển
của mâu thuẫn là do cấu trúc tự thân vốn có bên trong của sự vật ,hiện
tượng quy định. Mâu thuẫn tồn tại không phụ thuộc vào bất cứ hiện
tượng siêu nhiên nào, kể cả ý chí của con người. Mỗi sự vật, hiện tượng
đang tồn tại đều là một thể thống nhất các khuynh hướng, các thuộc tính
phát triển ngược chiều nhau, đối lập nhau. Sự liên hệ, tác động qua lại,
đấu tranh chuyển hoá, bài trừ và phủ địn lẫn nhau, tạo thành động lực bên
trong của mọi quá trình vận động và phát triển khách quan của chính bản
thân các sự vật hiện tượng.
Mâu thuẫn là một hiện tượng có trong tất cả các lĩnh vực: tự nhiên,
xã hội và tư duy của con người. Khoa học tự nhiên hiện đại chứng minh
rằng thế giới vi mô là sự thống nhất giữa những thực thể có điện tích trái
dấu, hạt và trường, hạt và phản hạt. Trong sinh học có hấp thụ và bài
tiết, di truyền và biến dị. Xã hội loài người có những mâu thuẫn phức tạp
hơn, đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cơ sở
hạ tầng và kiến trúc thượng tầng; giữa các giai cấp đối kháng giữa chủ
2
nô và nô lệ, nông dân và địa chủ, tư sản và vô sản. Hoạt động kinh tế mâu
thuẫn cũng mang tính phổ biến, chẳng hạn như cung và cầu , tích luỹ và
tiêu dùng, tính kế hoạch hoá của từng xí nghiệp, Công ty với tính vô chính
phủ của nền kinh tế hàng hoá,…Trong tư duy của con người cũng có
những mâu thuẫn như chân lý và sai lầm,…
Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vật mới xuất hiện cho tới khi sự vật
kết thúc. Trong mỗi sự vật, mâu thuẫn hình thành không phải chỉ có một
mà có thể có nhiều mâu thuẫn, vì sự vật trong cùng một lúc có rất nhiều
mặt đối lập. Mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác hình thành.
Ăngghen chính sự vận động đơn giản nhất của vật chất cũng là một mâu
thuẫn. Vật chất tồn tại ở hình thức vận động cao hơn, mâu thuẫn càng rõ
nét hơn. Nó gắn liền với sự vật, xuyên suốt quá trình phát sinh phát triển
và diệt vong của sự vật. Đó chính là những thuộc tính quy định tính khách
quan và phổ biến của mâu thuẫn.
2. Sự đấu tranh của các mặt đối lập trong một thể thống nhất:
Trong phép biện chứng duy vật, khái niêmk mặt đối lập là sự khái
quát những thuộc tính, những khuynh hướng ngược chiều nhau cùng tồn
tại trong cùng một sự vật hiện tượng, tạo nên sự vật, hiện tượng đó. Do
đó cần phân biệt rằng không phải bất kỳ hai mặt đối lập nào cũng thành
mâu thuẫn. Bởi vì trong cùng một sự vật hiện tượng khách quan không
chỉ tồn tại hai mặt đối lập. Trong cùng một thời điểm cùng tồn tại nhiều
mặt đỗi lập. Chỉ có mặt đối lập là cùng tồn tại thống nhất trong cùng một
sự vật như một chỉnh thể, nhưng có khuynh hướng phát triển ngược
chiều nhau, phủ định và chuyển hoá lẫn nhau(sự chuỷen hoá này trở thành
nguồn gốc động lực, đồng thời quy định bản chất khuynh hướng phát
triển của sự vật) thì có hai mặt đối lập như vậy mới gọi là hai mặt đối
lập mâu thuẫn. “ Thống nhất” của hai mặt đối lập được hiểu không phải
chúng đứng cạnh nhau mà nương tựa vào nhau, tạo ra sự phù hợp cân
bằng như liên hệ phụ thuộc, quy định và ràng buộc lẫn nhau. Mặt đối lập
3
này lấy mặt đối lập kia làm tiền đề cho sự tồn tại của mình và ngược lại.
Nếu thiếu một trong hai mặt đối lập chính tạo thành sự vật thị nhất định
không có sự tồn tại của sự vật. Bởi vậy sự thống nhất của các mặt đối
lập là điều kiện không thể thiếu được cho sự tồn tại của bất kỳ sự vật
hiện tượng nào.
Sự thống nhất này là do những đặc điểm riêng có của bản thân sự vật tạo
nên.
Ví dụ: Lực lượng sản xuất- quan hệ sản xuất trong phương thức
sản xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất cũng
phát triển. Hai điểu kiện này chính là điểu kiện tiền đề cho sự phát triển
của phương thức sản xuất. Nhưng trong quan hệ của lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất phải thoả mãn một số yêu cầu sau.
- Thứ nhất: Đó phải là một khái niệm chung nhất được khái quát từ
các mặt phù hợp khác nhau phản ánh được bản chất của sự phù hợp của
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
- Thứ hai: Đó phải là một khái niệm “ động” phản ánh được trạng
thái biến đổi thường xuyên của sự vận động, phát triển trong quan hệ của
quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
- Thứ ba: Đó phải là một khái niệm có ý nghĩa thực tiễn. Ngoài ý
nghĩa nhận thực, khái niệm về sự phù hợp của quan hệ sản xuất và lực
lượng sản xuất được coi là thoả đáng phải có tác dụng định hướng, chỉ
đạo cho việc xây dựng quan hệ sản xuất, sao cho những quan hệ sản
xuất có khả năng phù hợp cao nhất với lực lượng sản xuất.
Tuy nhiên, khái niệm thống nhất này chỉ mang tính tượng đối. Bản
thân nội dung khái niệm đã nói lên tính chất tương đối của nó: thống nhất
của các đối lập, trong thống nhất đã bao hàm và chứa đựng trong nó sự
đối lập.
Đấu tranh các mặt đối lập:
4
Sự thống nhất của các mặt đối lập trong cùng một sự vật hiện
tượng không tách rời đấu tranh chuyển hoá giữa chúng. Bởi vì các mặt
đối lập cùng tồn tại trong một sự vật thống nhất như một chỉnh thể trọn
vẹn nhưng không nằm yên bên nhau mà điểu chỉnh chuyển hoá, bài trừ,
phủ định lẫn nhau tạo thành động lực phát triển của bản thân sự vật. Sự
đấu tranh chuyển hoá, bài trừ, phủ định lẫn nhau giữa các mặt trong thế
giới khách quan thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau.
Ví dụ: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong giai cấp có
đối kháng mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản
xuất lạc hậu kìm hãm nó diễn ra quyết liệt và gay gắt. Chỉ thông qua các
cuộc cách mạng xã hội bằng rất nhiều hình thức, kể cả bạo lực mới giải
quyết nó một cách căn bản.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập được chia thành nhiểu giai đoạn.
Thông thường, khi nó mới xuất hiện, hai mặt đối lập chưa thể hiện rõ
xung khắc gay gắt người ta gọi đó là giai đoạn khác nhau. Tất nhiên
không phải bất kỳ sự khác nhau nào cũng được coi là mâu thuẫn, chỉ có
những khác nhau cùng tồn tại trong cùng một sự vật nhưng liên hệ hữu
cơ với nhau, phát triển ngược chiều nhau, tạo thành động lực bên trong
của sự phát triển thì hai mặt đối lập ấy mới hình thành bước đầu của
mâu thuẫn. Khi hai mặt đối lập của một mâu thuẫn phát triển đến giai
đoạn xung đột gay gắt, nó biến thành độc lập, sự vật cũ mất đi sự vật
mới hình thành. Sau khi giải quyết được mâu thuẫn sự thống nhất của hai
mặt đối lập mới, hai mặt đối lập mới đấu tranh chuyển hoá thành mâu
thuẫn. Mâu thuẫn được giải quyết, sự vật mới xuất hiện. Cứ như thế,
đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho sự vật biến đổi không ngừng từ
thấp lên cao. Chính vì vậy, Lênin khẳng định “sự phát triển là một cuộc
đấu tranh giữa các mặt đối lập”.
Khi bàn về mối quan hệ giữa sự thống nhất và đấu tranh của các
mặt đối lập, Lênin chỉ ra rằng: “ mặc dù thống nhất chỉ là điều kiện để
5
sự vật tồn tại với ý nghĩa là chính nó- nhờ có sự thống nhất của các mặt
đối lập mà chúng ta nhận biết được sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế
giới khách quan. Song bản thân của sự thống nhất chỉ là tương đối và tạm
thời. Đấu tranh giữa các mặt đối lập mới là tuyệt đối. Nó diễn ra thường
xuyên, liên tục trong suốt quá trình tồn tại của sự vật. Kể cả trong trạng
thái sự vật ổn định , cũng như chuyển hoá nhảy vọt về chất. Lênin viết “
sự thống nhất ( phù hợp, đồng nhất, tác dụng ngang nhau) của các mặt
đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng qua trong tương đối. Sự đấu
tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối cũng như sự phát
triển, sự vận động tuyệt đối”.
3. Chuyển hoá của các mặt đối lập:
Không phải bất kỳ sự đấu tranh nào của các mặt đối lập đều dẫn đến
sự chuyển hoá giữa chúng. Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát
triển đến một trình độ nhất định, hội đủ các điểu kiện cần thiết mới dẫn
đến chuyển hoá giữa chúng, bài trừ và phủ định lẫn nhau. Trong giới tự
nhiên, chuyển hoá của các mặt đối lập thường diễn ra một cách tự phát,
còn trong xã hội, chuyển hoá của các mặt đối lập nhất thiết phải thông
qua hoạt động có ý thức của con người.
Do đó, không nên hiểu sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt đối
lập chỉ là sự hoán đổi vị trí một cách dơn giản máy móc. Thông thường thì
mâu thuẫn chuyển hoá theo hai phương thức:
+ Phương thức thứ nhất: Mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt
đối lập kia nhưng ở trình độ cao hơn xét về phương diện chất của sự vật.
Ví dụ: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội phong kiến
đấu tranh chuyển hoá lẫn nhau để hình thành quan hệ sản xuất mới là
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và lực lượng sản xuất mới ở trình độ
cao hơn.
+ Phương thức thứ hai: Cả hai mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau để
thành hai mặt đối lập mới hoàn toàn.
6
Ví dụ: Nền kinh tế Việt Nam chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá
tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ những mâu thuẫn trên cho ta thấy trong thế giới hiện thực, bất
kỳ sự vật hiện tượng nào cũng chứa đựng trong bản thân nó những mặt,
những thuộc tính có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau. Sự đấu
tranh chuyển hoá của các mặt đối lập trong điều kiện cụ thể tạo thành
mâu thuẫn. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan, phổ biến trên thế giới.
Mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũng mất đi sự vật mới hình thành.
Sự vật mới lại nảy sinh các mặt đối lập và mâu thuẫn mới.
Các mặt đối lập này lại đấu tranh chuyển hoá và phủ định lẫn nhau
để tạo thành sự vật mới hơn. cứ như vậy mà các sự vật, hiện tượng trong
thế giới khách quan thường xuyên và biến đổi không ngừng. Vì vậy, mâu
thuẫn là nguồn gốc và động lực của mọi quá trình phát triển.
II. TÍNH TẤT YẾU CỦA QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG Ở VIỆT NAM .
1.Kinh tế thị trường và những đặc điểm :
*Khái niệm “kinh tế thị trường” Có hai ý kiến khác nhau về kinh
tế thị trường :
Một là xem “kinh tế thị trường “ là phương thức vận hành kinh tế
lấy thị trường hình thành do trao đổi và lưu thông hàng hoá làm người
phân phối các nguồn lực chủ yếu ;lấy lợi ích ,cung cầu thị trường và mua
bán giữa hai bên làm cơ chế khuyến khích hoạt động kinh tế. nó là
phương thức tổ chức vận hành kinh tế –xã hội .kinh tế thị trường là
phương thức ,phương tiện ,công cụ vận hành nền kinh tế có hiệu quả .tự
nó không mang tính giai cấp –xã hội , không tốt mà cũng không xấu .tốt
hay xấu là do người sử dụng nó. Quan niệm này kinh tế thị trường là vật
“trung tính “;là công nghệ sản xuất ai sử dụng cũ được .
7
Hai là xem “kinh tế thị trường “là một quan hệ kinh tế- xã hội-
chính trị ,nó in đậm dấu ấn của lực lượng xã hội làm chủ trị trường .kinh
tế thị trường là một phạm trù kinh tế hoạt động ,có chủ thể của quá trình
hoạt động đó ,có sự tác động lẫn nhau của các chủ thể hoạt động .trong
xã hội có giai cấp ,chủ thể hoạt động trong kinh tế thị trường không phải
là cái nhân riêng lẻ ,đó còn là những tập đoàn xã hội, những giai cấp. Sự
tác động qua lại của các chủ thể hoạt động đó có thể có lợi cho người
này, tầng lớp hay giai cấp này; có hại cho tầng lớp hay giai cấp khác. Cho
nên, kinh tế thị trường có mặt tích cực, có mặt tiêu cực nhất định. Không
thể nhấn mạnh chỉ một mặt trong hai mặt đó.
Kinh tế thị trường có sự phát triển từ thấp lên cao, đỉnh cao nhất
trong sự phát triển của nó ở giai đoạn đã qua đạt được trong chủ nghĩa tư
bản, được xã hội đó sử dụng triệt để. Đó là cơ sở để trước đây nhiều
người đồng nhất nền kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản. Quan điểm
đó được củng cố thêm còn do quáư trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trước
đây, hầu hết các nước Xã hội chủ nghĩa đều kỳ thị với kinh tế thị trường,
tuyệt đối hoá nền kinh tế kế hoạch mang tính tập trung quan liêu. Do vậy
có sự đối lập giữa kinh tế thị trường với chủ nghĩa xã hội. Kết quả
nghiên cứu lý luận và hoạt động thực tiễn trong những năm gần đây đã
cho phép khẳng định rằng, nền kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội phải là nền kinh tế thị trường. Sự ra đời và tồn tại của nền kinh tế
thị trường trong thời kỳ quá độ trước hết và chủ yếu do trong thời kỳ này
còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế, do có sự tách rời giữa quyền sở hữu
và quyền kinh doanh ngay trong một thành phần kinh tế, do còn có sự
phân công lao động… làm cho các đơn vị kinh tế trở thành những người
sản xuất hàng hoá và những người kinh doanh hàng hoá độc lập( hoặc
tương đối độc lập). Vì th, trong nền kinh tế nhất định sẽ hình thành quan
hệ hàng hoá và trao đổi hàng hoá, làm cho nền kinh tế đó vận hành trong
môi trường kinh tế thị trường.
8
2. Chuyển sang nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách
quan trong quá trình phát triển của nền kinh tế đất nước.
Thực tiễn vận động của nền kinh tế thế giới những năm gần đây
cho thấy, mô hình phát triển nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô
từ trung tâm, trong bối cảnh ngày nay, là mô hình hợp lý hơn cả. Mô hình
này, về đại thể có thể đáp ứng những thách thức của sự phát triển.
Nước ta, việc thực hiện mô hình này, trong thực tế, chẳng những là
nội dụng của công cuộc đổi mới mà hơn thế nưa còn là công cụ, là
phương thức để nước ta đi tới mục tiêu xây dựng CNXH.
Nền kinh tế nước ta hiện nay chỉ có thể nó đang trong giai đoạn quá
đô, chuyển tiếp từ nền kinh tế tập trung, hành chính, bao cấp sang nền
kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng
XHCN. Do vậy, những đặc điểm của giai đoạn quá độ trong nền kinh tế
nước ta, đương nhiên là một vấn đề rất có ý nghĩa, rất cần được nghiên
cứu, xem xét. Nhận thức được những đặc điểm phức tạp của giai đoạn
quá độ, chi phối những đặc điểm đó, chúng ta sẽ tránh được những sai
lầm chủ quan nóng vội, duy ý chí hoặc những khuynh hướng cực đoan,
máy móc,sao chép, chấp nhận nguyên bản kinh tế thị trường từ bên ngoài
vào.
Như chúng ta đã biết, trong nền kinh tế tập trung , bao cấp, mọi
chức năng kinh tế- xã hội của nền kinh tế đều được triển khai trong quá
trình kế hoạch hoá ở cấp độ quốc gia. Tính bao cấp của nhà nước đối
với các hoạt động của sản xuất lưu thông, phân phối… khá nặng nề, ở
nước ta trước đây, chế độ hạch toán, trên thực tế còn nặng về hình thức.
Lợi ích kinh tế, đặc biệt là lợi ích cá nhân người lao động, một động lực
trực tiếp của hoạt động xã hội chưa được quan tâm đúng mức. Vì thế, sự
vận động của nền kinh tế nhìn chung là chậm chạp, kém năng động.
Kể từ đại hội Đảng lần thú VI (12/1986) đến nay, theo đường lối
đổi mới, đất nước ta đã từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường
9
với định hướng Xã hội chủ nghĩa. Và điều đó có ý nghĩa là chúng ta đã đạt
được những thành tựu hết sức quan trọng, những thành tựu cho phép
chúng ta “ điều chỉnh và bổ sung nhận thức, làm cho quan nịêm về chủ
nghĩa xã hội ngày càng cụ thể: đường lối chủ trương, chính sách ngày
càng đồng bộ, có căn cứ khoa học và thực tiễn”. Những thành tựu đó,
trong một chừng mực nhất định cũng gián tiếp khả năng của nền kinh tế
thị trường trong việc năng động hoá nền kinh tế đất nước.
Kinh tế thị trường, như chúng ta đã biết là một quan hệ kinh tế – xã
hội mà trong đó sản xuất và tái sản xuất gắn liền với thị trường, tức là
gắn chặt với quan hệ hàng hoá- tiền tệ, với quan hệ cung- cầu … Trong
nền kinh tế thị trường , nét biểu hiện có tính chất bề mặt của đời sống xã
hội quan hệ hàng hoá.
Nếu như trước đây, nền kinh tế nước ta chỉ có một kiểu sở hữu
tương đối thuần nhất với hai thành phần tập thể và quốc doanh, thì nay,
cùng với thành phần sở hữu chủ đạo là sở hữu Nhà nước, còn tồn tại
nhiều hình thức sở hữu khác. Những hình thức sở hữu đó, trong thực tế
vận hành của nền kinh tế, không hẳn đã đồng bộ với nhau, đôi khi chúng
còn có mâu thuẫn với nhau. Song về tổng thể, chúng là những bộ phận
khách quan của nền kinh tế, có khả năng đáp ứng những đòi hỏi đa dạng
và năng động của nền kinh tế thị trường.
Trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá, việc chúng ta bước
đầu sử dụng thị trường như là một công cụ, phương thức, trên thực tế đã
đem lại những kết quả tích cực cả về phượng thức, trên thực tế đã đem
lại những kết quả tích cực cả về phương diện thực tiễn và phương diện
nhận thức.
Mỗi hành trang có ý nghĩa mà công cuộc đổi mới trang bị cho chúng
ta sản xuất hàng hoá cùng với nền kinh tế nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường, hiện đã được chúng ta hiểu là không đối lập với
CNXH. Với tính cách là sản phẩm của văn minh nhân loại, một cơ hội để
10
các cộng đồng mở cửa, tiếp xúc với bên ngoài, kinh tế thị trường rõ ràng
là cái khách quan và tất yếu đối với công cuộc xây dựng CNXH ở nước
ta.
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta, thị trường là căn
cứ, vừa là đối tượng của công tác kế hoạch hoá. Việc điều tiết vĩ mô đối
với thị thường, một mặt làm cho nền kinh tế nước ta thực sự trở thành
một thị trường thống nhất- thống nhất trong cả nước và thống nhất với
thị trường thế giới- mặt khác còn có tác dụng làm cho mỗi đơn vị kinh tế
phải tự khẳng định khả năng và vai trò của mình trong thị trường.
Tuy nhiên, nhận ra sức mạnh của cơ chế thị trường bao nhiêu,
chúng ta lại cũng hiểu rõ hơn bấy nhiêu mặt trái của nó đối với sự vận
động của đởi sống xã hội. Sự tăng trưởng kinh tế đương nhiên là một
mục tiêu của phát triển xã hội; nó có khả năng tạo ra điều kiện để giải
quyết các vấn đề xã hội. Nhưng tăng trưởng kinh tế không nhất thiết đi
liền với xã hội. Do vây, những quan niệm của Đảng ta, để thực hiện sự
nghiệp xây dựng CNXH với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng văn minh, nền kinh tế thị trường nhất thiết phải có sự quản lý của
nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa.
3. Định hướng xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta
hiện nay.
Chúng ta đang phấn đấu xây dựng một nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa đạt trình độ kinh tế thị trường phát triển với đặc
trưng:
- Hệ thống thị trường được phát triển đầy đủ :thị trường hàng hoá
và dịch vụ ;thị trường công nghệ , các dịch vụ thông tin ,tư vấn ,tiếp thị ,
pháp lý, tài chính, ngân hàng, kiểm toán, bảo hiểm, bảo lãnh; thị trường
sức lao động; thị trường lao động, thị trường khoa học, kỹ thuật, công
nghệ, thị trường bất động sản, thị trường vốn, thị trường chứng khoán ….
Tất cả các loại thị trường đó liên kết chặt chẽ với nhau tạo thành một
11
chỉnh thể hữu cơ. Hệ thống này trở thành đầu mối mọi tác động qua lại
của hoạt động kinh tế-xã hội.
- Mỗi thực thể kinh tế có lợi ích riêng (bao gồm xí nghiệp, tập
đoàn xã hội và cá nhân) và là chủ thể của thị trường, tham gia hoạt động
của thị trường và cạnh tranh với nhau.
- Việc vận hành kinh tế-xã hội được thực hiên trong sự kết hợp
giữa đường lối chủ trương, chính sách, kế hoạch …. Với việc sử dụng
các loại tín hiệu kinh tế mà thị trường cung cấp, việc lưu thông tài
nguyên được điều tiết bởi thông tin thị trường và kế hoạch cân đối sản
xuất.
- Dựa trên quy luật thị trường thống nhất mà hình thành một trật tự
thị trường, sản xuất xã hội lưu thông, phân phối và tiêu dùng với sự liên
hệ và điều tiết của đầu mối thị trường, hình thành mạng lưới sản xuất xã
hội có trật tự.
- Dựa vào đường lối, hiến pháp, pháp luật và quy luật vận hành
của kinh tế thị trường, chính phủ thực hiện việc điều chỉnh và khống chế
vĩ mô cần thiết, hữu hiệu; vận hành chính sách kinh tế, pháp luật kinh
tế,chỉ đạo kế hoạch và phương pháp hành chính cần thiết để hướng dẫn
sự phát triển của kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường có vai trò to lớn trong sự phát triển kinh tế –xã
hội ,không vì thế mà “kinh tế thị trường” là tất cả. thực tế đổi mới 12
năm qua cho thấy ,bên cạnh tác động tích cực là cơ bản,những tác động
tiêu cực do mặt trái của kinh tế thị trường gây ra cũng hết sức nghiêm
trọng, đặc biệt trên phương diện tư tưởng, đạo đức, lối sống. Không xem
trọng cuộc đấu tranh nhằm hạn chế; khắc phục những tác động tiêu cực
của kinh tế thị trường, không làm rõ giới hạn cần có của lĩnh vực có thể
“thị trường hoá” cũng là chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
*Về nội dung dữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực
kinh tế và nội dung khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
12
nghĩa ở nước ta hiện nay,có thể suy ra đặc điểm của kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là: mọi thành phần kinh tế đều
bình đẳng trước pháp luật; nền kinh tế ấy lấy các thành phần kinh tế dựa
trên sở hữu xã hội và sở hữu tập thể làm nền tảng, lấy kinh tế nhà nước
làm chủ đạo; lấy việc thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng và văn minh làm mục tiêu. Muốn vậy nền kinh tế
ấy phải đảm bảo:
- Có tăng trưởng kinh tế cao, bền vững, ổn định
- Giải quyết vấn đề công bằng xã hội phù hợp từng bước với sự
tăng trưởng kinh tế;.
- Đặt giơi sự lãnh đạo của đảng cộng sản giơi sự quản lý của một
nhà nước thực sự của dân;
- Lấy việc giải phóng sức sản xuất làm căn cứ chủ yếu để hoạch
định cơ cấu thành phần kinh tế, hình thức sở hữu;
- Làm cho kinh tế nhà nước phát triển trước hết là về chất để đóng
vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế hợp tác dần dần trở
thành nền tảng;
- Xác lập, củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao động
trong nền kinh tế thị trường, thực hiện công bằng xã hội ngày càng tốt
hơn. trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, điều chủ
yếu là tạo điều kiện công bằng trong phát triển con người; vừa không
bình quân, vừa phải chú trọng đến tầng lớp dễ tổn thương, những vùng
khó khăn;
-Thực hiện nhiều hình thức phân phối,lấy phân phối theo kết quả
lao động và hiệu quả kinh tế làm chủ yếu.
Hơn nữa nền kinh tế đó phải góp phần phát huy mọi tiềm năng,
mọi sức lực xã hội; tạo điều kiện cho mỗi cá nhân làm giàu cho mình và
cho toàn xã hội; chấp hành mọi pháp luật,kinh doanh có văn hoá; cạnh
tranh và hợp tác một cách văn minh…
13
Qua nội dung trên cho thấy,tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong
sự phát triển kinh tế ở nước ta liên quan tới cả kiến trúc thượng tầng lẫn
cơ sở hạ tầng,liên qua tới cả quan hệ sản xuất lẫn lực lượng sản xuất
…..
Để dữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển
kinh tế thị trường ở nước ta, nhân tố nào có ý nghĩa quyết định ? trả lời
vấn đề này có người cho rằng nhà nước là yếu tố chủ đạo trong sự phát
triển của kinh tế thị trường. Bởi vì không thể lấy cái bộ phận (kinh tế
nhà nước) của cái toàn thể (nền kinh tế thị trường nhiều thành phần) để
định hướng sự phát triển của cái toàn thể đó. Bằng hệ thống pháp luật,
chính sách, hệ thống động lực kích thích mà nhà nước thực hiện vai trò
chủ đạo đối với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Trong hệ thống
công cụ để nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo đối với sự vận động của
kinh tế, kinh tế nhà nước chỉ là một công cụ, dù có thể được xem là công
cụ qua trọng nhất. Do vậy không nên xem kinh tế nhà nước là chủ đạo.
Trong giai đoạn ngày nay của thời đại, mọi nhà nước đều tham gia
quản lý kinh tế, định hướng phát triển kinh tế,cho nên nói vai trò chủ đạo
của nhà nước là xoá nhoà ranh giới giữa kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
Thiết nghĩ, phải tìm yếu tố chủ đạo trong sự phát triển chung của
nền kinh tế (có vai trò dẫn dắt sự phát triển của các thành phần kinh tế,
định hướng sự phát triển của chúng…) ngay trên lĩnh vực kinh tế. Bởi vì,
trong khi không phủ nhận vai trò tác động mạnh mẽ của nhà nước tơi
kinh tế, nhưng suy cho cùng sức mạnh nhà nước cũng do sức mạnh của
kinh tế quyết định. Trong điều kiện cụ thể ở nước ta, bộ phận chủ đạo
đó là kinh tế nhà nước, Vấn đề căn bản nhất, chủ chốt nhất và khó khăn
nhất là làm sao kinh tế nhà nước vươn lên năm được vai trò chủ đạo ?
điều đó được đặt ra trong khi kinh tế nhà nước hiện nay vẫn còn yếu kém
ngay cả trên những phương diện chủ yếu nhất cuả nó: năng suất, chất
14
lượng, hiệu quả. Để góp phần khắc phục tình hình đó, kinh tế nhà nước
phải làm sao kết hợp được trong bản thân mình cái mạnh của tập thể,
của cộng đồng và cái mạnh của cá nhân xét cả với tư cách động lực lợi
ích kinh tế, cả với tư cách thực thể-con người kinh tế. then chốt của vấn
đề này là tìm một cơ chế thích hợp vơi nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và có một đội ngũ cán bộ có đủ đức đủ tài.
“vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước” được hiểu là : làm đòn bẩy đẩy
nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội ;mở đường,
hướng dẫn,hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển; làm lực
lượng vật chất để nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quả lý vĩ
mô;tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới.
4. Thực trạng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay
Chúng ta đã chuyển một bước quan trọng sang kinh tế thị trường,
nhưng chưa kết thúc bước chuyển đó. Do vậy còn đan xen những yếu tố
của nền kinh tế chuyển đổi. Những yếu tố của nền kinh tế thị trường
văn minh còn ít hơn là yếu tố sơ khai. Mặt khác trong xã hội chủ đã xuất
hiện một số yếu tố đi quá xa(vượt khỏi giới hạn )khuôn khổ của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Những nhân tố của nền
kinh tế maphia, tính trạng thương mại hoá giáo dục, nhân phẩm …là
những thí dụ cho sự quá đà như vậy.
Trình độ thấp kém, chưa đạt tới trình độ hoàn chỉnh của kinh tế thị
trường ở nước ta hiện nay biểu hiện ở chỗ : giá cả hàng hoá dịch vụ bị
bóp méo, độc quyền còn quá lớn, tỷ giá chưa phải do trị thường quy định;
tiền lương chưa có tính thị trường …quyền kinh doanh trên thị trường còn
hạn chế nhiều nên mất khả năng cạnh tranh. Các loại thị trường còn
thiếu và chưa đồng bộ, trước hết là thiếu thị trường lao động, thị trường
tiền tệ theo đúng nghĩa của nó. Các thể chế cho thị trường quá thiếu ;
không it những thể chế đã có chưa phù hợp, thậm chí trái với yêu cầu
15
của thị trường, sự can thiệp của nhà nước vào thị trường chưa thật phù
hợp thậm chí trái với yêu cầu của thị trường, có tình trạng liên kết giữa
bộ phận thoái hoá trong bộ máy nhà nước với những yếu tố tiêu cực của
thị trường gây ra tham nhũng, nợ nần chồng chất.
III.NHỮNG MÂU THUẪN PHÁT SINH TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG THEO ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở
NƯỚC TA :
1.một số vấn đề lý luận chung của chủ nghĩa Mác- Lênin về quan hệ
giữa kinh tế với chính trị:
Theo các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác- Lênin thì kinh tế quyết định chính
trị: “ chínhtrị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế”. Trong lịch sử phát
triển xã hội loài người không phải bao giờ cũng có vấn đề về chính trị.
Xã hội nguyên thuỷ chưa có giai cấp, chưa có vấn đề chính trị. Từ khi xã
hội xuất hiện giai cấp và đấu tranh giai cấp và Nhà nước thì vấn đề chính
trị mới hình thành. Vấn đề chính trị là vấn đề thuộc đấu tranh giai cấp và
đấu tranh giai cấp. Trung tâm của chính trị là đấu tranh giai cấp giữa các
giai cấp, các lức lượng xã hội nhằm giành và giữ chính quyền nhà nước
và sử dụng công cụ đó làm công cụ để xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội
phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền. Bản thân vấn đề chính trị ra
đời hoàn toàn là do kinh tế quyết định. Chính trị không phải là mục đích,
mà chỉ là phương tiện để thực hiện mục đích kinh tế, F.Engen
Đã khẳng định “bạo lực chỉ là phương tiện, còn lợi ích kinh tế là mục
đích”. Trong tác phẩm “Lútvích Phoibăc và báo cáo chung của triết học cổ
điển Đức”, F.Engen đã chỉ rõ “để thoả thuận lợi ích kinh tế thì quyền lực
chính trị chỉ được sử dụng là một phương tiện đơn thuần.
Quyền lực chính trị là công cụ mạnh mẽ nhất để bảo vệ chế độ xã hội.
Sự thốngtrị về chính trị của một giai cấp nhất định là điều kiện đảm bảo
cho giai cấp đó thực hiện được sự thống trị về kinh tế. Đấu tranh giai
cấp, về thực chất là đấu tranh vì lợi ích kinh tế, được thông qua đấu tranh
16
chính trị. Theo F.Engen, “ bất cứ cuộc đấu tranh giai cấp nào cũng đều là
đấu tranh chính trị, xét đến cùng, đều xoay quanh vấn đề giải phóng về
kinh tế”. Để nhấn mạnh vai trò của chính trị V.I.Lênin đã khẳng định “
chính trị không thể chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế”. Khẳng định đó
của Lênin không có nghĩa là phủ nhân hoàn toàn vai trò quyết định của
kinh tế đối với chính trị, mà muốn nhấn mạnh tác động tích cực của chính
trị đối với kinh tế. Vấn đề kinh tế không thể tách rời với chính trị mà nó
được xem xét giải quyết theo một lập trường chính trị nhất định. Giai cấp
nào cầm quyền cũng hướng kinh tế phát triển theo lập trường chính trị
riêng của giai cấp đó nhằm phục vụ cho mục tiêu kinh tế xã hội nhất
định. Và lập trường chính trị đúng hay sai sẽ thúc đẩy hoặc kìm hãm sự
phát triển của nền kinh tế, V.I.Lênin còn khẳng định “ không có một lập
trường chính trị đúng thì một giai cấp nhất định nào đó không thể nào giữ
vững được sự thống trị của mình và do đó cũng không thể nào giữ vững
được sự thống trị của mình và do đó cũng không thể hoàn thành được
nhiệm vụ cuả mình trong lĩnh vực sản xuất”. Khi thể chế chính trị không
phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thì kinh tế tất yếu sẽ mở đường
đi. Khi đó việc thay đổi thể chế chính trị cho phù hợp với yêu cầu phát
triển của kinh tế là điều kiện quyết định để thúc đẩy kinh tế phát triển.
Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng kinh tế và chính trị là thống
nhất và biện chứng với nhau trên nền tảng quyết định là kinh tế. Đây là
cơ sở phương pháp luận quan trọng trong việc nhận thức xã hội nói
chung, nhận thức công cuộc đổi mới ở Việt Nam nói riêng.
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII( tháng 6 năm 1991). Đảng ta
đã khẳng định: “ về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị,
phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp
bách của nhân dân về đời sống, việc làm và nhu cầu xã hội khác, xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuận của CNXH, coi đó là điều kiện quan trọng
để tiến hành đổi mới tổ chứcvà phương thức hoạt động của hệ thống
17
chính trị, phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của
nhân dân trên các lĩnh vực chính trị kinh tế, văn hoá, xã hội. Vì chính trị
đụng chạm đến tất cả các mối quan hệ đặc biệt nhạy cảm và phức tạp
trong xã hội, nên việc đổi mới hệ thống chính trị nhất thiết phải trên cơ
sở nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc, không cho phép gây mất ổn
định chính trị dẫn đến rối loạn. Nhưng không vì thế mà tiến hành chậm
trễ đổi mới chính trị, nhất là về tổ chức bộ máy và các bộ, các mối quan
hệ giữa Đảng và Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, bởi đó là điều kiện
thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội và thực hiện dân chủ”. Điều đó cho
thấy Đảng ta đã không tách rời đổi mới kinh tế và đồng thời đổi mới
chính trị. Đảng ra khẳng định rằng phải tập trung sức làm tốt đổi mới
kinh tế và đồng thời với đổi kinh tế phải tiến hành từng bứơc đổi mới
chính trị, những phải thận trọng không gây mất ổn định về chính trị.
Tư tưởng đã được tiếp tục phát triển một cách rõ ràng hơn ở Đại hội đại
biểu của toàn quốc lần thứ VIII( tháng 7 năm 1996) của Đảng ta. Khi
tổng kết các bài học của 10 năm đổi mới, Đảng ta khẳng định phải kết
hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Đây là
một bải học khái quát mới, hoàn toàn khoa học. Nó vừa phù hợp với lý
luận của chủ nghĩa Mác- Lênin vừa phù hợp với thực tiễn công cuộc đổi
mới ở nước ta.
Trong khi đề ra đổi mới chính trị, Đảng ta luôn nhấn mạnh phải ổn định
chính trị, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Điều này tưởng
như một nghịch lý nhưng hoàn toàn có lý và khoa học.
ôn định về chính trị, nói cách khái quát là giai cấp cầm quyền phải tăng
cường quyền lực chính trị của mình; Nhà nước của giai cấp đó phải
mạnh và có hiệu lực, luật pháp phải nghiêm minh; chế độ xã hội đã xác
lập phải được giữ vững. Đối với nước ta hiện nay, ổn định về chính trị
thực chất là giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng , tăng
18
cường vai trò củ Nhà nước XHCN, bảo vệ và xây dựng thành công
CNXH.
Thực tiễn thế giới cho thấy, ổn định chính trị là điều kiện hết sức cơ bản
để phát triển kinh tế. Nó tạo ra môi trường để thu hút nguồn đầu tư trong
nước và trên thế giới, tạo điều kiện phát triển sản xuất kinh doanh.
Những thành tựu trong 10 năm đổi mới vừa qua ở nước ta cũng khẳng
định điều đó. Những thành tựu đó không thể tách rời việc chúng ta giữ
được ổn định về chính trị.
Ổn định về chính trị lại không thể tách rời đổi mới về chính trị. Nhưng
đổi mới chính trị không phải đổi mới vô nguyên tác, mà đổi mới là để giữ
vững ổn định về chính trị, giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của
Đảng, vai trò tổ chức quản lý của Nhà nước XHCN. Đổi mới chính trị
phải gắn liền với đổi mới về kinh tế, phù hợp với yêu cầu về phát triển
kinh tế thì mới có thể tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò tổ
chức quản lý của Nhà nước XHCN, và nhờ đó mới giữ vững ổn định về
chính trị. Song đổi mới về kinh tế cũng không phải là đổi mới một cách
tuỳ tiện mà phải theo một định hướng nhất định. Đó là chuyển nền kinh
tế kế hoạch hoá tập trung sang “ nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
XHCN” hay là nói ngắn gọn là kinh tế thị trường theo định hướng CNXH.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là nhằm thực
hiện mục tiêu “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”, và đó
cũng là cơ sở để giữ vững ổn định về chính trị.
Tóm lại: ổn định và đổi mới về chính trị là hai mặt đối lập nhưng thống
nhất biện chứng với nhau. Có ổn định thì mới đổi mới và đổi mới là điều
kiện để ổn định. Hai mặt đó tác động qua lại với nhau và gắn bó chặt chẽ
với đổi mới kinh tế, trên nền tảng của đổi mới kinh tế.
Như vậy, chúng ta thấy trong quá trình đổi mới ở nước ta, đổi mới kinh
tế và đổi mới chính trị luôn gắn bó chặt chẽ với nhau, thống nhất với
19
nhau, trong đó đổi mới kinh tế là trọng tâm, đổi mới chính trị phải tiến
hành từng bước phù hợp với đổi mới kinh tế, đáp ứng yêu cầu của đổi
mơi kinh tế.
Điều khẳng định đó là sự khái quát kinh nghiệm của 10 năm đổi mới vừa
qua là kết quả của việc vận động sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều
kiện cụ thể ở Việt Nam. Khái quát đó hoàn toàn khoa học và có giá trị
định hướng cho giai đoạn phát triển tiếp theo- giai đoạn đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
2. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất:
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo
định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, vấn đề lực lượng sản xuất- quan
hệ sản xuất là một vấn đề hết sức phức tạp, mâu thuẫn giữa hai lực
lượng này và những biểu hiện của nó xét trên phương diện triết học Mác-
Lênin, theo đó lực lượng sản xuất là yếu tố động, luôn luôn thay đổi. Khi
lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định thị quan hệ sản
xuất sẽ không còn phù hợp nữa và trở thành yếu tố kìm hãm lực lượng
sản xuất phát triển. Để mở đường cho lực lượng sản xuất mới phù hợp
với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Chính quan hệ sản xuất
tự phát triển để phù hợp với lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất phù
hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, đó là quy luật chung
cho sự phát triển xã hội.
Quá trình mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiến tiến với quan hệ sản
xuất lạc hậu kìm nó diễn ra gay gắt, quyết liệt và cần được giải quyết.
Nhưng giải quyết nó bằng cách nào? đó chính là các cuộc cách mạng xã
hội, chuyển đổi nền kinh tế mà cuộc chuyển đổi nền kinh tế ở nước ta
là một ví dụ. Khi một mục tiêu, một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, thể
hiện tính chất cách mạng của công cuộc đổi mới hiện nay ở Việt Nam là
20