Nguyên lí chủ nghĩa Mác - Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Tham khảo tài liệu 'nguyên lí chủ nghĩa mác - lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất', khoa học xã hội, chính trị - triết học phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
A. lời nói đầu
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất là qui luật hết sức phổ biến trong công cuộc
xây dựng đất nước của mỗi quốc gia. Sự mâu thuẫn hay phù hợp giữa
quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất đều có ảnh hưởng rất lớn tới
nền kinh tế. Sự tổng hoà mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất tạo nên một nền kinh tế có lực lượng sản xuất phát triển kéo
theo một quan hệ sản xuất phát triển.
Nói cách khác quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất là một điều kiện tất yếu để phát triển
một nền kinh tế.
Do vậy, nghiên cứu về quy luật này sẽ giúp cho mỗi sinh viên
chúng ta, đặc biệt là sinh viên khối kinh tế, có thêm những hiểu biết ban
đầu và sâu sắc hơn về sự phát triển của nước ta cũng như trên thế giới;
hiểu được quy luật vận động của nền kinh tế từ đó có thể góp một phần
nhỏ bé của mình vào sự nghiệp xây dựng nước nhà sau này.
B. NỘI DUNG
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Với tính cách là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử phương
thức sản xuất biểu thị cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất
vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. Dưới
sự vận động của lịch sử loài người, cũng như sự vận động của mỗi xã
hội cụ thể, sự thay đổi về phương thức sản xuất bao giờ cũng là sự thay
đổi có tính chất cách mạng. Trong sự thay đổi đó, các quá trình kinh tế, xã
hội được chuyển sang một chất mới. Phương thức sản xuất là cái mà nhờ
nó người ta có thể phân biệt được sự khác nhau của những thời đại kinh
tế khác nhau. Mà phương thức sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực
lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng.
Đó cũng chính là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Do vậy, quy luật trên trước hết là quy luật kinh tế nhưng hơn thế
nữa nó còn là quy luật cơ bản nhất của toàn bộ đời sống xã hội của lịch
sử nhân loại bởi vì nó là quy luật của bản thân phương thức sản xuất. Sự
tác động của quy luật này dẫn tới sự thay đổi của phương thức sản xuất
và kéo theo sự thay đổi cua toàn bộ đời sống xã hội.
Với những lý do trên, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất có ý nghĩa hết sức to
lớn. Tuy nhiên, việc nắm bắt được quy luật này không phải là đơn giản,
nhận biết được một quan hệ sản xuất có phù hợp với tính chất và trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất hay không hoàn toàn phải phụ thuộc
vào thực tiễn của sản xuất và kinh nghiệm bản thân. Với những chính
sách, đường lối và chủ trương đúng đắn, nắm bắt tốt quy luật của Đảng
và Nhà nước, nền kinh tế, đặc biệt là kinh tế nhiều thành phần đã phát
triển mạnh mẽ, đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu phát triển
thành nước sản xuất nông nghiệp tiên tiến; góp phần đẩy nhanh nền kinh
tế nước nhà đi sang một hướng khác, sánh vai cùng các nước trong khu
vực và trên thế giới.
II- GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
A/ KHÁI NIỆM VỀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT:
1/ Lực lượng sản xuất:
Để tiến hành sản xuất thì con người phải dùng các yếu tố vật chất
và kỹ thuật nhất định. Tổng thể các nhân tố đó là lực lượng sản xuất. Lực
lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên.
Nghĩa là trong quá trình thực hiện sản xuất xã hội con người chinh phục
tự nhiên bằng các sức mạnh hiện thực của mình sức mạnh đó được chủ
nghĩa duy vật lịch sử khái quát trong khái niệm lực lượng sản xuất. Trình
độ lực lượng sản xuất biểu hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con
người. Lực lượng sản xuất nói lên năng lực thực tế của con người trong
quá trình sản xuất tạo nên của cải cho xã hội đảm bảo sự phát triển của
con người.
Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động và kỹ năng lao động
và tư liệu sản xuất. Trong quá trình sản xuất công cụ lao động tác động
vào đối tượng lao động để tạo ra của cải vật chất thì tư liệu lao động
được hoàn thiện nhằm đạt được năng suất lao động cao. Còn trong tư liệu
lao động tức là tất cả các yếu tố vật chất mà con người sử dụng để tác
động vào đối tượng lao động thì công cụ lao động là yếu tố quan trọng
nhất linh hoạt nhất. Bởi vậy khi công cụ lao động đã đạt đến trình độ tin
học hoá được tự động hoá thì vai trò của nó lại càng quan trọng. Trong
mọi thời đại công cụ sản xuất luôn là yếu tố đông nhất của lực lượng
sản xuất. Chính sự chuyển đổi cải tiến và hoàn thiện không ngừng của nó
đã gây lên những biến đổi sâu sắc trong toàn bộ tư liệu sản xuất. Trình độ
phát triển công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của
con người. Có thể coi yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất
chính là con người. Trong thời đại ngày nay khoa học đã phát triển tới
mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản
xuất và đời sống nó đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Nó vừa là
ngành sản xuất riêng vừa thâm nhập vào các yếu tố cấu thành lực lượng
sản xuất đem lại thay đổi về chất cho lực lượng sản xuất.
Khoa học và công nghệ hiện đại chính là đặc điểm thời đại của sản
xuất nó hoàn toàn có thể coi là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện
đại.
2/ Khái niệm về quan hệ sản xuất:
Để tiến hành quá trình sản xuất, nhất định con người phải có mối
quan hệ với nhau. Tổng thể những mối quan hệ này gọi là quan hệ sản
xuất. Nói cách khác quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người
trong sản xuất.
Trong đời sống xã hội của mình con người dù muốn hay không cũng
buộc phải duy trì những quan hệ nhất định với nhau để trao đổi hoạt động
sản xuất cũng như kết quả lao động những quan hệ sản xuất này mang
tính tất yếu. Như vậy quan hệ sản xuất do con người tạo ra song nó được
hình thành một cách khách quan không phụ thuộc vào ý muốn của bất kỳ
ai. Việc phải thiết lập các mối quan hệ trong sản xuất tự nó đã là vấn đề
có tính quy luật tất yếu, khách quan của sự vận động xã hội.
Với tính chất là những quan hệ kinh tế khách quan không phụ thuộc
vào ý muốn của con người, quan hệ sản xuất là những quan hệ mang tính
vật chất của đời sống xã hội. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của
lực lượng sản xuất và là cơ sở của đời sống xã hội.
Quan hệ sản xuất gồm 3 mặt:
- Quan hệ sở hữu về tư liêu sản xuất tức là quan hệ giữa người với
tư liệu sản xuất. Tính chất của quan hệ sản xuất trước hết được quy định
bởi quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất – Biểu hiện thành chế độ sở
hữu. trong hệ thống các quan hệ sản xuất thì quan hệ sở hữu về tư liệu
sản xuất có vai trò quyết định đối với các quan hệ xã hội khác.
- Quan hệ tổ chức và quản lý kinh doanh sản xuất: Tức là quan hệ
giưã người với người trong sản xuất và trong trao đổi vật chất của cải.
Trong hệ thống các quan hệ sản xuất các quan hệ về mặt tổ chức quản lý
sản xuất là các quan hệ có khả năng quyết định một cách quy mô tốc độ
hiệu quả và xu hướng mỗi nền sản xuất cụ thể đi ngược lại các quan hệ
quản lý và tổ chức có thể làm biến dạng quan hệ sở hữu ảnh hưởng tiêu
cực đến kinh tế xã hội.
- Quan hệ phân phối sản xuất sản phẩm: tức là quan hệ chặt chẽ
với nhau cùng mục tiêu chung là sử dụng hợp lý và có hiệu qủa tư liệu
sản xuất để làm cho chúng không ngừng được tăng trưởng, thúc đẩy tái
sản xuất mở rộng nâng cao phúc lợi cho người lao động. Bên cạnh các
quan hệ về mặt tổ chức quản lý, trong hệ thống quan hệ sản xuất, các
quan hệ về mặt phân phối sản phẩm lao động cũng là những nhân tố có ý
nghĩa hết sức to lớn đối với sự vận động của toàn bộ nền kinh tế. Quan
hệ phân phối có thể thúc đẩy tốc độ và nhịp điệu của sản xuất nhưng
ngược lại nó có khả năng kìm hãm sản xuất kìm hãn sự phát triển của xã
hội
Nêu xét riêng trong phạm vi một quan hệ sản xuất nhất định thì tính
chất sở hữu quyết định tính chất của quản lý và phân phối. Mặt khác
trong mỗi hình thái kinh tế xã hội nhất định quan hệ sản xuất thống trị
bao giờ cũng giữ vai trò chi phối các quan hệ sản xuất khác, ít nhiều cải
biến chúng để chẳng những chúng không đối lập mà phục vụ đắc lực cho
sự tồn tại và phát triển của kinh tế xã hội mới.
B/ QUY LUẬT VỀ QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TÍNH CHẤT VÀ
TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT:
1/ Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất:
a/ Tính chất:
Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của tu liệu sản xuất
và lao động. Khi nền sản xuất được thực hiện với những công cụ ở trình
độ phổ thông, lực lượng sản xuất chủ yếu mang tính chất cá nhân. Khi
trình độ sản xuất đạt tới trình độ cơ khí hoá, lực lượng sản xuất đòi hỏi
phải được vận động cho sự hợp tác xã hội rộng rãi trên cơ sở chuyên môn
hoá. Tính chất tự cấp tự túc cô lập của nền sản xuất nhỏ lúc đó phải
được thay thế bởi tính chất xã hội hoá.
b/ Trình độ của lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất là yếu tố có tác dụng quyết định đối với sự
phát triển của phương thức sản xuất: Trình độ của lực lượng sản xuất
trong từng giai đoạn của lịch sử loài người thể hiện trình độ chinh phục
tự nhiên của loài người trong giai đoạn đó. Khái niệm trình độ của lực
lượng sản xuất nói lên khả năng của con người thông qua việc sử dụng
công cụ lao động thực hiện quá trình cải biến tự nhiên nhằm đảm bảo
cho sự sinh tồn và phát triển của mình. Trình độ lực lượng sản xuất thể
hiện ở: Trình độ công cụ lao động, trình độ quản lý xã hội trình độ ứng
dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, kinh nghiệm và kỹ năng của con
người và trình độ phân công lao động.
Trên thực tế tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất không
tách biệt nhau
2/ Quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất:
Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là hai mặt của phương
thức sản xuất, sự tác động lẫn nhau giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất biểu hiên mối quan hệ mang tính chất biện chứng. Chính sự
thống nhất và tác động giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất đã
hình thành nên quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính
chất và trìng độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất là nhân tố thường xuyên biến đổi và phát triển.
Ngược lại quan hệ sản xuất thường có tính ổn định trong một thời gian
dài.
Sự biến đội của lực lượng sản xuất có nhiều nguyên nhân:
- Bản thân người lao động thì những kỹ năng và kinh nghiệm không
ngừng tích luỹ và tăng lên.
- Bản thân tri thức khoa học trí thức công nghệ trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp.
- Sự ổn định của quan hệ sản xuất là nhu cầu khách quan để có thể
sản xuất được.
Chính vì vậy mà sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một giới
hạn nhất định sẽ đặt ra nhu cầu xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ và hiện có.
Việc xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ thay nó bằng một quan hệ sản xuất mới
cũng có nghĩa là diệt vong cả một phương thức sản xuất lỗi thời và sự ra
đời của một phương thức sản xuất mới. Những quan hệ sản xuất cũ và
hiện có từ chỗ là hình thức kinh tế cần thiết để đảm bảo duy trì khai thác,
phát triển của lực lượng sản xuất giờ đây trở thành những hình thức kìm
hãm sự phát triển đó. Đó cũng chính là nội dung quy luật về sự phù hợp
của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản
xuất.
Thực tiễn cho thấy rằng lực lượng sản xuất chỉ có thể phát triển
khi có một quan hệ sản xuất hợp lý đồng bộ phù hợp với nó. quan hệ sản
xuất lạc hậu hơn hoặc tiên tiến hơn một cách giả tạo cũng sẽ kìm hãm sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Khi mâu thuẫn giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất đã bộc lộ gay gắt đòi hỏi phải giải quyết nhưng
còn lực lượng sản xuất người không phát hiện được cũng như mâu thuẫn
được phát hiện mà không giải quyết được hoặc giải quyết một cách sai
lầm thì tác dụng kìm hãm của quan hệ sản xuất sẽ trở thành nhân tố phá
hoại đối với lực lượng sản xuất.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chứng minh vai trò quyết định của lực
lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất song nó cũng chỉ rõ rằng quan
hệ sản xuất bao giờ cũng thể hiện tính độc lập tương đối với lực lượng
sản xuất. Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất , nó là
yếu tố quyết định là tiền đề cho lực lượng sản xuất phát triển khi nó phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Nó làm nhiệm vụ chỉ
ra mục tiêu bước đi và tạo quy mô thích hợp cho lực lượng sản xuất hoạt
động, cũng như đảm bảo lợi ích chính đáng cho người lao động phát huy
tính tích cực sáng tạo cho con người là nhân tố quan trọng và quyết định
trong lực lượng sản xuất.
Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với
lực lượng sản xuất vì nó quyết định mục đích sản xuất, quy định hệ
thống quản lý sản xuất và quản lý xã hội quy định phân phối và phần của
cải ít hay nhiều mà người lao động được hưởng. Do đó nó tạo ra những
điều kiện hoặc kích thích hoặc hạn chế sự phát triển của công cụ sản
xuất áp dụng thành tựu khoa học và sản xuất hợp tác phân công lao động.
C/ SỰ VẬN DỤNG QUY LUẬT CỦA CÔNG TY BÊ TÔNG VÀ XÂY
DỰNG VĨNH TUY VÀO SẢN XUẤT:
Trước yêu cầu đổi mới để phát triển , đồng thời nhằm cải thiện
điều kiện sống và làm việc cho CNLĐ, năm 2002, Cty đã đầu tư trên 11 tỉ
đồng để trang bị các dây chuyền sản xuất hiện đại có công suất cao như
dây chuyền bê tông thương phẩm, máy trộn bê tông 120m3/giờ, 10 xe trộn
bê tông thương phẩm 6,5m3/xe, dây chuyền sản xuất ống cống li tâm. Cty
đầu tư cho Xí nghiệp Cơ khí Vận tải hệ thống máy cắt dập tôn làm
khuôn và hộp đầu cọc. Hiện tại CTy đã tự sản xuất hộp đầu cọc các loại.
Dự kiến năm 2003, CTy sẽ đầu tư thêm một máy trộn bê tông 120m3/giờ
và dây chuyền sản xuất cọc ống bê tông ứng xuất trước.
Trong bộn bề lo toan cùng chuyên môn nâng cao chất lượng sản
phẩm để khẳng định vị thế, tạo công ăn việc làm cho NLĐ, BCH Công
đoàn vẫn làm tốt chức năng bảo vệ quyền lợi hợp pháp chính đáng của
NLĐ. Công đoàn phối hợp với chuyên môn thực hiện mọi chế độ chính
sách đối với NLĐ như ký TƯLĐTT, đóng BHXH, BHYT, đảm bảo tiền
lương , tiền thưởng kịp thời, công bằng. Hàng năm CNLĐ được trang bị
BHLĐ, được khám sức khoẻ định kỳ, có y tế theo dõi sức khỏe thường
xuyên, được giao lưu văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao, tham quan , nghỉ
mát... Ngoài ra Công đoàn còn tổ chức nhiều đợt tuyên truyền giáo dục
phòng chống ma tuý và các TNXH trong CNVC-LĐ; vận động CNVC-LĐ
xây dựng nếp sống văn hoá công nghiệp, xây dựng gia đình văn hoá
mới…. Hiện Cty đang hoàn thiện nhà ăn tập thể ( tháng 1-2003 đưa vào
sử dụng) phục vụ bữa ăn giữa ca cho trên 300 CNLĐ; nâng cấp toàn bộ
nhà điều hành cũng như nhà nghỉ trưa cho công nhân. Chính vì vậy NLĐ
yên tâm công tác và gắn bó với công ty. Công đoàn CTy được LĐLĐ thành
phố Hà Nội tặng bằng khen đã có thành tích tốt trong công tác vận động
tổ chức phong trào thi đua, năm 2002 là Công đoàn vững mạnh xuất sắc.(1)
III/ KẾT LUẬN VÀ GIẢI PHÁP
1/ KẾT LUẬN:
Quy luật của quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật hết sức phổ biến. Tuy nhiên
không phải bất cứ lúc nào cũng có sự phù hợp đó. Do vậy, phải nắm bắt
tốt quy luật chúng ta có thể áp dụng vào từng trường hợp cụ thể. Quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất còn là quy luật
phổ biến trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế phát triển
đi lên của lịch sử loài người từ chế độ công xã nguyên thuỷ qua chế độ
chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã
hội cộng sản tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã
hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất. Lực lượng sản xuất là
nhân tố thường xuyên biến đổi, ngược lại quan hệ sản xuất lại thường có
tính ổn định song sự ổn định đó chỉ là tạm thời và cũng cần có sự thay đổi
cho phù hợp. Nếu quan hệ sản xuất không có những sự thay đổi cho phù
hợp thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của sản xuất.
Như vậy, trong việc xác lập hoàn thiện, thay đổi quan hệ sản xuất
cần phải căn cứ vào thực trạng của các lực lượng sản xuất hiện có về
mặt tính chất và trình độ của chúng (đây là cơ sở lý luận trực tiếp của
việc xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay của quá
trình cải cách của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay).
2/ GIẢI PHÁP:
Cải tạo xã hội chủ nghĩa phải luôn luôn thấu suốt đặc điểm của
quá trình tiến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa là quan
hệ sản xuất và lực lượng sản xuất luôn luôn gắn bó với nhau, thúc đẩy
nhau cùng phát triển. Phải coi trọng những hình thức kinh tế trung gian,
quá độ từ thấp lên cao, từ quy mô nhỏ lên quy mô lớn. Trên mỗi bước đi
phải đẩy mạnh xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, tạo ra lực lượng sản
xuất mới trên cơ sở đó tiếp tục đưa quan hệ sản xuất lên hình thức, quy
mô thích hợp để cho lực lượng sản xuất phát triển.
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Giáo trình triết học Mác-LêNin (Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia).
- Tạp trí triết học (2002).
- (1)
Báo Lao Động Thủ đô.