Nghị định số 1342003NĐ-CP
Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
CHÍNH PHỦ VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
_____
Số: 134/2003/NĐ-CP -----------------
Hà Nội, ngày 14 tháng 11 năm 2003
NGHỊ ĐỊNH CỦA CHÍNH PHỦ
Quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Xử lý
vi phạm hành chính năm 2002
CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính ngày 02 tháng 7 năm 2002;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp,
NGHỊ ĐỊNH:
Chương I
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Nghị định này quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi
phạm hành chính năm 2002 (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh) về một số nguyên tắc
chung, hình thức, thẩm quyền, thủ tục và việc áp dụng một số biện pháp ngăn
chặn và bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính.
Điều 2. Thẩm quyền quy định hành vi vi phạm hành chính
Thẩm quyền quy định hành vi vi phạm hành chính tại Điều 2 của Pháp lệnh bao
gồm thẩm quyền quy định hành vi vi phạm hành chính cụ thể, hình thức xử phạt
chính, hình thức xử phạt bổ sung, biện pháp khắc phục hậu quả áp dụng đối với
từng hành vi vi phạm hành chính; quy định khung và mức tiền phạt trong trường
hợp phạt tiền; quy định các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm việc xử lý vi phạm
hành chính.
Việc xác định khung và mức tiền phạt đối với hành vi vi phạm hành chính được
căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi đó.
Điều 3. Một số nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính
Một số nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính tại các khoản 2, 3 và 4 Điều 3 của
Pháp lệnh được quy định cụ thể như sau:
1. Cá nhân, tổ chức chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm
hành chính do pháp luật quy định:
Cá nhân, tổ chức chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm hành
chính được quy định cụ thể trong các văn bản luật của Quốc hội, pháp lệnh của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội và nghị định của Chính phủ. Các văn bản do Thủ
tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Hội đồng nhân
dân, Ủy ban nhân dân ban hành để chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức thực hiện xử lý
vi phạm hành chính theo thẩm quyền không được quy định hành vi vi phạm hành
chính và hình thức, mức xử phạt;
2. Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt hành chính một lần:
a) Một hành vi vi phạm đã được người có thẩm quyền xử phạt ra quyết định xử
phạt hoặc đã lập biên bản để xử phạt thì không được lập biên bản, ra quyết định
xử phạt lần thứ hai đối với chính hành vi đó nữa. Trong trường hợp hành vi vi
phạm vẫn tiếp tục được thực hiện mặc dù đã bị người có thẩm quyền xử phạt
ra lệnh đình chỉ thì bị áp dụng tình tiết tăng nặng quy định tại khoản 8 Điều 9
của Pháp lệnh;
b) Một hành vi vi phạm hành chính đã được người có thẩm quyền xử phạt ra
quyết định xử phạt thì không đồng thời áp dụng biện pháp xử lý hành chính khác
quy định tại Điều 22 của Pháp lệnh đối với hành vi đó;
c) Trong trường hợp hành vi vi phạm có dấu hiệu tội phạm bị chuyển hồ sơ đề
nghị truy cứu trách nhiệm hình sự mà trước đó đã có quyết định xử phạt vi phạm
hành chính thì người đã quyết định xử phạt phải hủy bỏ quyết định xử phạt; nếu
chưa ra quyết định xử phạt thì không xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi
đó;
3. Nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì mỗi người vi
phạm đều bị xử phạt về hành vi đó và người có thẩm quyền xử phạt căn cứ vào
tính chất, mức độ vi phạm, nhân thân người vi phạm, tình tiết tăng nặng, giảm
nhẹ mà ra quyết định xử phạt đối với từng người cùng thực hiện vi phạm hành
chính;
4. Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính thì bị xử phạt về từng
hành vi vi phạm theo quy định tại khoản 2 Điều 56 của Pháp lệnh.
Điều 4. Những trường hợp không xử lý vi phạm hành chính
Những trường hợp không xử lý vi phạm hành chính theo khoản 6 Điều 3 của
Pháp lệnh được quy định cụ thể như sau:
1. Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh một nguy cơ đang thực
tế đe dọa lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức, quyền, lợi ích chính đáng
của mình hoặc của người khác mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt
hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa;
2. Phòng vệ chính đáng là hành vi của một người vì bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, của cơ quan, tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của
người khác, mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm
phạm các lợi ích nói trên;
3. Người thực hiện hành vi do sự kiện bất ngờ, tức là trong trường hợp không
thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó;
4. Trường hợp người thực hiện vi phạm hành chính trong khi đang mắc bệnh tâm
thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều
khiển hành vi của mình.
Điều 5. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hành chính của
người chưa thành niên gây ra
Người chưa thành niên vi phạm hành chính mà gây thiệt hại thì trách nhiệm bồi
thường được thực hiện theo quy định tại Điều 40 của Luật Hôn nhân và Gia đình
và các khoản 2, 3 Điều 611 của Bộ luật Dân sự.
Điều 6. Tình tiết tăng nặng
Những tình tiết tăng nặng tại các khoản 1 và 2 Điều 9 của Pháp lệnh được quy
định cụ thể như sau:
1. Vi phạm có tổ chức là trường hợp có hai người trở lên câu kết chặt chẽ với
nhau, cố ý cùng thực hiện hành vi vi phạm hành chính;
2. Vi phạm nhiều lần trong cùng lĩnh vực là trường hợp thực hiện vi phạm hành
chính trong lĩnh vực mà trước đó đã vi phạm nhưng chưa bị xử phạt và chưa hết
thời hiệu xử phạt;
3. Tái phạm trong cùng lĩnh vực là trường hợp đã bị xử phạt nhưng chưa hết thời
hạn một năm kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hoặc kể từ ngày
hết thời hiệu thi hành của quyết định xử phạt mà lại thực hiện vi phạm hành
chính trong lĩnh vực đã bị xử phạt;
"Lĩnh vực" quy định tại khoản này được hiểu là các lĩnh vực quản lý nhà nước
được quy định tại từng nghị định của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính.
Điều 7. Thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính
Thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính theo khoản 1 Điều
11 của Pháp lệnh được quy định như sau:
Cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính, nếu qua một năm, kể từ ngày
chấp hành xong quyết định xử phạt (tức là từ ngày thực hiện xong các nghĩa vụ
yêu cầu ghi trong quyết định xử phạt hoặc từ ngày quyết định xử phạt được
cưỡng chế thi hành) hoặc kể từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt
quy định tại Điều 69 của Pháp lệnh mà không thực hiện hành vi vi phạm trong
cùng lĩnh vực trước đây đã bị xử phạt thì được coi như chưa bị xử phạt vi phạm
hành chính về hành vi đó.
Điều 8. Thời hạn để được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành
chính khác
Thời hạn để được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính khác theo
khoản 2 Điều 11 của Pháp lệnh được quy định như sau:
Cá nhân đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào
trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục, đưa vào cơ sở chữa bệnh, quản chế
hành chính, nếu qua hai năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử lý (tức là
từ ngày hết hạn giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc hết hạn chấp hành tại
trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh và quản chế hành chính)
hoặc từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử lý quy định tại các Điều 73,
82, 91, 100 và Điều 108 của Pháp lệnh mà không thực hiện hành vi vi phạm
thuộc đối tượng bị áp dụng một trong các biện pháp xử lý hành chính khác quy
định tại khoản này thì được coi như chưa bị áp dụng biện pháp đó.
Điều 9. Cách tính thời hạn, thời hiệu trong xử lý vi phạm hành chính
1. Thời hạn, thời hiệu trong Pháp lệnh được quy định theo tháng hoặc theo năm
thì khoảng thời gian đó được tính theo tháng, năm dương lịch, bao gồm cả ngày
nghỉ theo quy định của Bộ luật Lao động.
2. Thời hạn trong Pháp lệnh được quy định theo ngày thì khoảng thời gian đó
được tính theo ngày làm việc, không bao gồm ngày nghỉ theo quy định của Bộ
luật Lao động.
Điều 10. Trách nhiệm của người có thẩm quyền trong việc xử lý vi phạm
hành chính
1. Khi phát hiện vi phạm hành chính, người có thẩm quyền xử phạt vi phạm
hành chính phải ra lệnh đình chỉ ngay hành vi vi phạm và ra quyết định xử phạt
theo thẩm quyền; trong trường hợp vụ việc vi phạm không thuộc thẩm quyền
hoặc vượt quá thẩm quyền, thì có trách nhiệm lập biên bản theo đúng mẫu quy
định và chuyển kịp thời tới người có thẩm quyền xử phạt.
2. Người có thẩm quyền xử phạt hành chính lạm dụng chức vụ, quyền hạn, sách
nhiễu, dung túng, bao che, không xử lý hoặc xử lý không nghiêm minh vi phạm
hành chính; thiếu trách nhiệm để quá thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính;
không tuân thủ nghiêm ngặt các quy định trong việc áp dụng các biện pháp ngăn
chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính; ra quyết định xử lý vi phạm hành
chính trái pháp luật, có lỗi trong việc không ra quyết định xử phạt vi phạm hành
chính trong thời hạn quy định tại Điều 56 của Pháp lệnh, nếu chưa đến mức bị
truy cứu trách nhiệm hình sự thì bị xử lý kỷ luật theo quy định của pháp luật về
cán bộ, công chức.
Chương II
HÌNH THỨC, THẨM QUYỀN XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
Điều 11. Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề
Việc tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề theo Điều 16 của
Pháp lệnh được quy định như sau:
1. Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề là hình thức xử phạt bổ
sung, được áp dụng kèm theo hình thức xử phạt chính trong trường hợp cá nhân,
tổ chức vi phạm nghiêm trọng quy định sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề.
Giấy phép, chứng chỉ hành nghề là các loại giấy tờ do cơ quan nhà nước, người
có thẩm quyền cấp cho các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật để cho
phép tổ chức, cá nhân đó kinh doanh, hoạt động, hành nghề trong một lĩnh vực
nhất định hoặc sử dụng một loại công cụ, phương tiện nhất định. Giấy phép,
chứng chỉ hành nghề quy định tại Điều này không bao gồm giấy đăng ký kinh
doanh, các loại chứng chỉ gắn với nhân thân người được cấp không có mục đích
cho phép hành nghề;
2. Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề được áp dụng có thời
hạn hoặc không thời hạn và được quy định đối với hành vi vi phạm hành chính
cụ thể, tùy thuộc vào tính chất, mức độ của hành vi vi phạm đó. Thời hạn bị
tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề và các trường hợp cụ thể bị
áp dụng tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề được quy định tại
các nghị định của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực
quản lý nhà nước.
Điều 12. Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành
chính
Việc tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính theo
Điều 17 của Pháp lệnh được quy định như sau:
1. Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính là hình
thức xử phạt bổ sung, được áp dụng kèm theo hình thức xử phạt chính. Thủ tục
và các trường hợp cụ thể bị áp dụng tịch thu tang vật, phương tiện được quy
định tại các nghị định của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong từng
lĩnh vực quản lý nhà nước;
2. Không áp dụng hình thức xử phạt tịch thu tang vật phương tiện trong trường
hợp tang vật, phương tiện bị tổ chức, cá nhân vi phạm chiếm đoạt, sử dụng trái
phép mà phải trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý, người sử dụng hợp
pháp. Trong trường hợp tang vật là văn hóa phẩm độc hại, hàng giả không có giá
trị sử dụng, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng thì bị
xử lý theo quy định tại khoản 2 Điều 61 của Pháp lệnh.
Điều 13. Xác định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
Nguyên tắc xác định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo Điều 42 của
Pháp lệnh được quy định cụ thể như sau:
1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp có thẩm quyền xử phạt đối với các hành vi
vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước ở địa phương;
2. Các chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của các cơ quan
quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực có thẩm quyền xử phạt đối với những
hành vi vi phạm hành chính được quy định cụ thể tại các nghị định của Chính
phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước;
3. Thẩm quyền xử phạt của các chức danh theo quy định của Pháp lệnh trong
từng trường hợp cụ thể được xác định như sau:
a) Thẩm quyền phạt tiền được xác định căn cứ vào mức tối đa của khung tiền
phạt quy định cho mỗi hành vi vi phạm hành chính;
b) Thẩm quyền áp dụng hình thức tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành
chính được xác định căn cứ vào văn bản quy phạm pháp luật về xử phạt vi phạm
hành chính trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước quy định cho chức danh có thẩm
quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đối với một hành vi vi
phạm cụ thể. Trường hợp Pháp lệnh quy định thẩm quyền tịch thu theo trị giá
của tang vật, phương tiện vi phạm thì phải căn cứ vào giá trị thực tế của tang
vật, phương tiện vi phạm để xác định thẩm quyền;
c) Thẩm quyền áp dụng hình thức tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ
hành nghề được xác định căn cứ vào văn bản quy phạm pháp luật về xử phạt vi
phạm hành chính trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước. Đối với hành vi vi phạm
có quy định áp dụng hình thức xử phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ
hành nghề thì chức danh nào có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với
hành vi đó cũng có quyền xử phạt tước quyền sử dụng giấy phép hoặc chứng chỉ
hành nghề đối với người vi phạm; trường hợp luật có quy định khác thì theo quy
định của luật. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày quyết định xử phạt vi phạm
hành chính, người đã ra quyết định xử phạt phải thông báo bằng văn bản cho cơ
quan cấp giấy phép, chứng chỉ hành nghề về việc đã áp dụng hình thức xử phạt
tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề;
d) Thẩm quyền áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả được xác định căn cứ
vào Pháp lệnh quy định chức danh đó có thẩm quyền áp dụng các biện pháp
khắcphục hậu quả; đồng thời căn cứ vào hành vi vi phạm cụ thể có quy định
việc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả được quy định trong các nghị định
của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực quản lý nhà
nước;
đ) Trong trường hợp mức tiền phạt, trị giá tang vật phương tiện bị tịch thu hoặc
một trong các hình thức xử phạt hoặc biện pháp khắc phục hậu quả không thuộc
thẩm quyền hoặc vượt quá thẩm quyền thì người đang thụ lý vụ việc vi phạm
phải kịp thời chuyển vụ việc vi phạm đó đến người có thẩm quyền xử phạt.
Điều 14. Ủy quyền xử lý vi phạm hành chính
Việc ủy quyền xử lý vi phạm hành chính theo Điều 41 của Pháp lệnh được quy
định như sau:
1. Việc ủy quyền xử lý vi phạm hành chính do các chức danh quy định tại Điều
41 của Pháp lệnh chỉ được thực hiện đối với cấp phó trực tiếp. Việc ủy quyền
chỉ được thực hiện bằng văn bản và trong trường hợp cấp trưởng vắng mặt;
2. Cấp phó được cấp trưởng ủy quyền có quyền xử lý vi phạm hành chính theo
thẩm quyền của cấp trưởng mà mình được ủy quyền và phải chịu trách nhiệm
về quyết định xử lý vi phạm hành chính do mình thực hiện. Người được ủy
quyền không được ủy quyền tiếp cho bất kỳ cá nhân nào khác.
Chương III
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
VÀ BẢO ĐẢM XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
Điều 15. Khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính
Việc khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính theo Điều 49
của Pháp lệnh được quy định như sau:
1. Việc khám nơi cất giấu tang vật phương tiện vi phạm hành chính chỉ do
những người có thẩm quyền tiến hành theo đúng quy định tại Điều 49 của Pháp
lệnh;
2. Nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là địa điểm mà tại đó,
người vi phạm cất giấu hiện vật, tiền, hàng hóa, phương tiện vi phạm hành
chính. Nếu người vi phạm cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính
trong người thì áp dụng biện pháp khám người theo quy định tại Điều 47 của
Pháp lệnh;
3. Trong trường hợp nơi cất giấu tang vật phương tiện vi phạm hành chính là nơi
ở thì người có thẩm quyền quy định tại Điều 45 của Pháp lệnh chỉ được tiến
hành khám sau khi đã có sự đồng ý bằng văn bản của Chủ tịch Ủy ban nhân dân
cấp huyện nơi có tang vật, phương tiện được cất giấu.
Nơi ở quy định tại Điều này là địa điểm dùng để cư trú thường xuyên cho cá
nhân hoặc hộ gia đình có hộ khẩu thường trú hoặc đăng ký tạm trú; có đăng ký
phương tiện, nếu phương tiện là nơi cư trú thường xuyên của cá nhân, hộ gia
đình;
4. Mọi trường hợp khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện đều phải lập biên
bản theo đúng mẫu quy định.
Điều 16. Thủ tục bảo lãnh hành chính
Thủ tục bảo lãnh hành chính theo Điều 50 của Pháp lệnh được quy định như sau:
1. Bảo lãnh hành chính do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định trong
thời gian xem xét việc áp dụng một trong các biện pháp đưa vào trường giáo
dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh. Bảo lãnh hành chính được giao
cho gia đình hoặc tổ chức xã hội nơi đối tượng cư trú thực hiện. Trong trường
hợp người được bảo lãnh là người chưa thành niên thì bảo lãnh hành chính được
giao cho cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đó thực hiện;
2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện ra quyết định về việc giao việc bảo lãnh
hành chính cho gia đình, tổ chức xã hội nơi đối tượng cư trú; trong quyết định
phải ghi rõ: ngày, tháng, năm quyết định; họ, tên, chức vụ của người quyết định;
họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của người được giao bảo lãnh hoặc tên,
địa chỉ của tổ chức xã hội được giao bảo lãnh; họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi
cư trú của người được bảo lãnh; lý do của việc giao bảo lãnh; thời hạn bảo lãnh;
trách nhiệm của người được bảo lãnh, trách nhiệm của người hoặc tổ chức
nhận bảo lãnh và trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đối tượng cư trú;
chữ ký của người quyết định giao bảo lãnh. Trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày
ra quyết định, quyết định giao bảo lãnh được gửi cho người hoặc tổ chức nhận
bảo lãnh, người được bảo lãnh và Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người được bảo
lãnh cư trú để tổ chức thực hiện;
3. Thời hạn bảo lãnh hành chính do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết
định, tối đa không quá 35 ngày đối với trường hợp người được bảo lãnh thuộc
đối tượng đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở chữa bệnh và tối đa không
quá 50 ngày đối với trường hợp người được bảo lãnh thuộc đối tượng đưa vào
cơ sở giáo dục. Việc bảo lãnh hành chính chấm dứt khi hết thời hạn ghi trong
quyết định giao bảo lãnh. Trong trường hợp chưa hết thời hạn bảo lãnh mà đã có
quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính thì thời hạn bảo lãnh chấm dứt
vào thời điểm đối tượng được đưa đi chấp hànhbiện pháp xử lý hành chính tại
trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh.
Điều 17. Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong thời gian bảo lãnh hành
chính
1. Trong thời gian bảo lãnh hành chính, gia đình, tổ chức xã hội được giao bảo
lãnh hành chính có trách nhiệm:
a) Giám sát, quản lý không để người được bảo lãnh tiếp tục vi phạm pháp luật;
b) Bảo đảm sự có mặt của người được bảo lãnh tại nơi cư trú khi có quyết định
đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục, đưa vào cơ sở chữa bệnh;
c) Báo cáo kịp thời với Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người được giao
bảo lãnh để Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã báo cáo với Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp huyện trong trường hợp người được bảo lãnh bỏ trốn hoặc có các hành
vi vi phạm pháp luật trong thời gian bảo lãnh.
2. Trong thời gian bảo lãnh hành chính, người được bảo lãnh hành chính có trách
nhiệm:
a) Chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về tạm trú, tạm vắng. Khi
đi ra khỏi địa bàn xã, phường, thị trấn phải thông báo cho gia đình, tổ chức xã hội
được giao bảo lãnh biết về địa chỉ nơi đến, thời gian tạm trú tại đó;
b) Có mặt kịp thời tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã khi được Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp xã yêu cầu.
3. Trong thời gian bảo lãnh hành chính, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi
người được bảo lãnh hành chính cư trú có trách nhiệm:
a) Thông báo cho gia đình, tổ chức xã hội được giao bảo lãnh và người được bảo
lãnh về quyền và nghĩa vụ của họ trong thời gian bảo lãnh;
b) Thực hiện các biện pháp hỗ trợ gia đình, tổ chức xã hội được giao bảo lãnh
trong việc quản lý, giám sát người được bảo lãnh tại nơi cư trú;
c) Khi được thông báo về việc người được bảo lãnh bỏ trốn khỏi nơi cư trú
hoặc có hành vi vi phạm pháp luật, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã phải báo
cáo ngay cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi đã ra quyết định bảo lãnh
để có biện pháp xử lý kịp thời theo quy định của pháp luật.
Chương IV
THỦ TỤC XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
Điều 18. Đình chỉ hành vi vi phạm
Đình chỉ hành vi vi phạm theo Điều 53 của Pháp lệnh được quy định như sau:
Khi phát hiện vi phạm hành chính, người có thẩm quyền xử phạt phải ra quyết
định đình chỉ ngay hành vi vi phạm. Quyết định đình chỉ có thể là quyết định
bằng văn bản hoặc quyết định thể hiện bằng lời nói, còi, tín hiệu hoặc các hình
thức khác tùy từng trường hợp vi phạm cụ thể.
Điều 19. Thủ tục xử phạt đơn giản
Việc áp dụng thủ tục xử phạt đơn giản theo Điều 54 của Pháp lệnh được quy
định như sau:
1. Xử phạt theo thủ tục đơn giản quy định tại Điều 54 của Pháp lệnh là trường
hợp xử phạt, theo đó người có thẩm quyền xử phạt không lập biên bản mà ra
quyết định xử phạt tại chỗ. Những trường hợp được tiến hành xử phạt theo thủ
tục đơn giản bao gồm:
a) Hành vi vi phạm hành chính mà mức phạt quy định là cảnh cáo hoặc phạt tiền
đến 100.000 đồng;
b) Nhiều hành vi vi phạm hành chính do một người thực hiện mà hình thức và
mức phạt quy định đối với mỗi hành vi này đều là phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền
đến 100.000 đồng.
2. Trong trường hợp xử phạt theo thủ tục đơn giản, người có thẩm quyền không
lập biên bản mà quyết định xử phạt tại chỗ. Quyết định xử phạt phải thể hiện
bằng văn bản theo mẫu quy định. Cá nhân, tổ chức bị xử phạt có thể nộp tiền
phạt tại chỗ cho người có thẩm quyền xử phạt và được nhận biên lai thu tiền
phạt do Bộ Tài chính phát hành. Trong trường hợp không nộp tiền phạt tại chỗ,
cá nhân, tổ chức vi phạm nộp tiền phạt tại Kho bạc Nhà nước trong thời hạn
được quy định tại khoản 1 Điều 58 của Pháp lệnh.
Điều 20. Lập biên bản vi phạm hành chính
Việc lập biên bản vi phạm hành chính theo khoản 1 Điều 55 của Pháp lệnh được
quy định như sau:
1. Người có thẩm quyền đang thi hành công vụ có trách nhiệm lập biên bản theo
đúng mẫu quy định đối với vi phạm hành chính mà mình phát hiện và chuyển kịp
thời tới người có thẩm quyền xử phạt. Biên bản phải có đầy đủ chữ ký theo quy
định tại khoản 3 Điều 55 của Pháp lệnh;
2. Trong trường hợp người lập biên bản không có thẩm quyền xử phạt thì thủ
trưởng của người đó là người có thẩm quyền xử phạt cũng phải ký tên vào biên
bản; trường hợp cần thiết thì tiến hành xác minh trước khi ký biên bản.
Điều 21. Thời hạn ra quyết định xử phạt
Thời hạn ra quyết định xử phạt theo Điều 56 của Pháp lệnh được quy định như
sau:
1. Đối với vụ việc đơn giản, hành vi vi phạm rõ ràng, không cần xác minh thêm
thì phải ra quyết định xử phạt trong thời hạn không quá 10 ngày, kể từ ngày lập
biên bản về hành vi vi phạm hành chính.Quyết định xử phạt vi phạm hành chính
phải theo đúng mẫu quy định;
2. Đối với vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp như tang vật, phương tiện cần
giám định, cần xác định rõ đối tượng vi phạm hành chính hoặc những tình tiết
phức tạp khác thì thời hạn ra quyết định xử phạt là 30 ngày, kể từ ngày lập biên
bản;
3. Trong trường hợp xét thấy cần có thêm thời gian để xác minh, thu thập chứng
cứ thì chậm nhất là 10 ngày, trước khi hết thời hạn được quy định tại khoản 2
Điều này, người có thẩm quyền xử phạt phải báo cáo thủ trưởng trực tiếp của
mình bằng văn bản để xin gia hạn; việc gia hạn phải bằng văn bản; thời gian gia
hạn không quá 30 ngày;
4. Trừ quyết định áp dụng hình thức xử phạt trục xuất, người có thẩm quyền
không được ra quyết định xử phạt trong các trường hợp sau đây:
a) Đã hết thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này;
b) Đã hết thời hạn ra quyết định xử phạt quy định tại khoản 2 Điều này mà
không xin gia hạn hoặc đã xin gia hạn nhưng không được cấp có thẩm quyền cho
phép gia hạn;
c) Đã hết thời hạn được cấp có thẩm quyền gia hạn;
5. Trong trường hợp không ra quyết định xử phạt thì người có thẩm quyền vẫn
có thể ra quyết định áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả được quy định
tại khoản 3 Điều 12 của Pháp lệnh và tịch thu tang vật vi phạm hành chính thuộc
loại cấm lưu hành, lưu thông.
Điều 22. Chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính
Việc chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo Điều 64 của Pháp
lệnh được quy định như sau:
1. Cá nhân, tổ chức bị xử phạt phải chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành
chính trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày được giao quyết định xử phạt, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác. Sau khi ra quyết định xử phạt, người có
thẩm quyền xử phạt phải giao quyết định cho người bị xử phạt hoặc thông báo
cho họ đến nhận; thời điểm người bị xử phạt nhận được quyết định xử phạt
được coi là thời điểm được giao quyết định quy định tại Điều 64 của Pháp lệnh;
2. Nếu cá nhân, tổ chức bị xử phạt không tự nguyện chấp hành trong thời hạn
quy định tại khoản 1 Điều này thì bị cưỡng chế thi hành;
3. Trường hợp đã qua một năm, mà người có thẩm quyền không thể giao quyết
định xử phạt đến người bị xử phạt do người đó không đến nhận và không xác
định được địa chỉ của họ hoặc lý do khách quan khác thì người đã ra quyết định
xử phạt ra quyết định đình chỉ thi hành các hình thức xử phạt và biện pháp khắc
phục hậu quả ghi trong quyết định đối với người đó, trừ hình thức tịch thu tang
vật, phương tiện vi phạm hành chính; đối với tang vật, phương tiện vi phạm
đang bị tạm giữ thì áp dụng theo quy định tại khoản 4 Điều 61 của Pháp lệnh;
nếu cần áp dụng biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan
dịch bệnh hoặc tiêu hủy vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây
trồng, thì người có thẩm quyền phải tổ chức thực hiện các biện pháp này. Ngân
sách nhà nước chi trả cho việc thực hiện các biện pháp này hoặc được trừ vào
tiền bán tang vật, phương tiện bị tịch thu (nếu có).
Điều 23. Quyết định buộc khắc phục hậu quả trong trường hợp không ra quyết
định xử phạt vi phạm hành chính
Quyết định buộc khắc phục hậu quả trong trường hợp không ra quyết định xử
phạt vi phạm hành chính được quy định như sau:
1. Trong trường hợp quá thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính được quy định tại
Điều 10 của Pháp lệnh hoặc quá thời hạn ra quyết định xử phạt quy định tại
Điều 21 của Nghị định này, người có thẩm quyền không được ra quyết định xử
phạt, nhưng vẫn có thể quyết định áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả;
2. Quyết định buộc khắc phục hậu quả phải bằng văn bản theo đúng mẫu quy
định. Trong quyết định phải ghi rõ: ngày, tháng, năm quyết định: họ, tên, chức vụ
của người quyết định; họ, tên, địa chỉ, nghề nghiệp của người vi phạm hoặc tên,
địa chỉ của tổ chức vi phạm; hành vi vi phạm hành chính; những tình tiết liên
quan đến việc giải quyết vụ vi phạm; điều khoản của văn bản pháp luật được
áp dụng; lý do không áp dụng hình thức xử phạt; các biện pháp khắc phục hậu
quả được áp dụng; thời hạn thi hành quyết định khắc phục hậu quả; chữ ký của
người ra quyết định.
Điều 24. Xác định mức trung bình của khung tiền phạt
Việc xác định mức trung bình của khung tiền phạt theo khoản 2 Điều 57 của
Pháp lệnh được quy định như sau:
Khi phạt tiền, mức tiền phạt cụ thể đối với một hành vi vi phạm hành chính
không có tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ là mức trung bình của khung tiền
phạt được quy định đối với hành vi đó. Mức trung bình của khung tiền phạt
được xác định bằng cách chia đôi tổng số của mức tối thiểu cộng với mức tối
đa.
Điều 25. Nơi nộp tiền phạt
Nơi nộp tiền phạt theo Điều 58 của Pháp lệnh được quy định như sau:
1. Cá nhân, tổ chức bị xử phạt phải nộp tiền phạt tại Kho bạc Nhà nước theo
quy định tại Điều 57 của Pháp lệnh, trừ trường hợp đã nộp tiền phạt tại chỗ và
những trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này;
2. Tại những vùng xa xôi, hẻo lánh, trên sông, trên biển, những vùng mà việc đi
lại gặp khó khăn hoặc ngoài giờ hành chính thì cá nhân, tổ chức bị xử phạt có thể
nộp tiền phạt cho người có thẩm quyền xử phạt.
"Vùng xa xôi, hẻo lánh" là những vùng thuộc miền núi, hải đảo và những nơi
khác không có hoặc cách quá xa Kho bạc Nhà nước;
3. Bộ Tài chính quy định cụ thể việc thu và nộp tiền phạt trong những trường
hợp được quy định tại khoản 2 Điều này.
Điều 26. Trả lại giấy tờ hoặc tang vật, phương tiện đã bị tạm giữ để bảo đảm
thi hành quyết định phạt tiền trong trường hợp được hoãn chấp hành quyết định
Việc trả lại giấy tờ hoặc tang vật, phương tiện đã bị tạm giữ để bảo đảm thi
hành quyết định phạt tiền trong trường hợp được hoãn chấp hành quyết định
theo khoản 4 Điều 65 của Pháp lệnh được quy định như sau:
1. Trong trường hợp cá nhân được hoãn chấp hành quyết định phạt tiền theo quy
định tại Điều 65 của Pháp lệnh thì người đó được nhận lại giấy phép lưu hành
phương tiện, giấy phép lái xe, giấy tờ cần thiết khác có liên quan hoặc tang vật,
phương tiện đã bị tạm giữ để bảo đảm thi hành quyết định phạt tiền theo quy
định tại khoản 3 Điều 57 của Pháp lệnh;
2. Người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm trả lại cho người được hoãn
chấp hành quyết định phạt tiền các giấy tờ hoặc tang vật, phương tiện bị tạm
giữ quy định tại khoản 1 Điều này khi quyết định hoãn chấp hành quyết định
phạt tiền có hiệu lực thi hành.
Điều 27. Chuyển quyết định xử phạt vi phạm hành chính để thi hành
Việc chuyển quyết định xử phạt vi phạm hành chính để thi hành theo Điều 68
của Pháp lệnh được quy định như sau:
1. Trong trường hợp cá nhân, tổ chức thực hiện vi phạm hành chính ở đơn vị
hành chính thuộc tỉnh này nhưng cư trú, đóng trụ sở ở tỉnh khác và không có điều
kiện chấp hành quyết định xử phạt tại nơi bị xử phạt thì quyết định được
chuyển đến cơ quan cùng cấp nơi cá nhân cư trú, tổ chức đóng trụ sở để tổ chức
thi hành; nếu nơi cá nhân cư trú, tổ chức đóng trụ sở không có cơ quan cùng cấp
thì quyết định xử phạt được chuyển đến Ủy ban nhân dân cấp huyện để tổ chức
thi hành;
2. Trong trường hợp vi phạm xảy ra ở địa bàn cấp huyện thuộc phạm vi một tỉnh
ở miền núi, hải đảo hoặc những vùng xa xôi, hẻo lánh khác mà việc đi lại gặp
khó khăn và cá nhân, tổ chức vi phạm không có điều kiện chấp hành quyết định
xử phạt tại nơi bị xử phạt thì quyết định được chuyển đến cơ quan cùng cấp nơi
cá nhân cư trú, tổ chức đóng trụ sở để tổ chức thi hành.
Điều 28. Việc đóng dấu quyết định xử phạt vi phạm hành chính
1. Quyết định xử phạt vi phạm hành chính của người có thẩm quyền xử phạt
được đóng dấu cơ quan của người có thẩm quyền xử phạt đối với hành vi đó.
2. Đối với quyết định xử phạt của người có thẩm quyền xử phạt quy định tại
Điều 41 của Pháp lệnh thì dấu được đóng lên 1/3 (một phần ba) chữ ký về phía
bên trái chữ ký của người có thẩm quyền quyết định xử phạt.
3. Đối với quyết định xử phạt của những người có thẩm quyền xử phạt mà
không có quyền đóng dấu trực tiếp thì quyết định xử phạt được đóng dấu cơ
quan của người ra quyết định xử phạt vào góc trái tại phần trên cùng của quyết
định, nơi ghi tên cơ quan xử phạt và số, ký hiệu của quyết định xử phạt.
Điều 29. Trả lại hồ sơ vụ vi phạm để xử phạt hành chính
Trả lại hồ sơ vụ vi phạm để xử phạt hành chính theo Điều 63 của Pháp lệnh
được quy định như sau:
1. Trong trường hợp hồ sơ vụ vi phạm đã được chuyển cho cơ quan tiến hành tố
tụng hình sự có thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 62 của Pháp lệnh,
nhưng xét thấy hành vi vi phạm không đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm mà có
dấu hiệu vi phạm hành chính thì người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố
tụng hình sự phải ra quyết định trả lại hồ sơ vụ vi phạm cho người có thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính và trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra
quyết định phải gửi trả hồ sơ vụ vi phạm đó cùng với quyết định cho người có
thẩm quyền xử phạt;
2. Người có thẩm quyền xử phạt phải ra quyết định xử phạt đối với vụ việc vi
phạm quy định tại khoản 1 Điều này trong thời hạn sau đây:
a) Nếu trước khi chuyển vụ việc vi phạm cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự
mà người có thẩm quyền xử phạt đã xin gia hạn thời hạn xử phạt theo quy định
tại khoản 3 Điều 21 của Nghị định này thì thời hạn ra quyết định xử phạt tối đa
là 10 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định trả lại hồ sơ vụ vi phạm;
b) Nếu trước khi chuyển vụ việc vi phạm cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự
mà người có thẩm quyền xử phạt chưa xin gia hạn thời hạn xử phạt theo quy
định tại khoản 3 Điều 21 của Nghị định này, thì thời hạn ra quyết định xử phạt
tối đa là 15 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định trả lại hồ sơ vụ việc vi
phạm. Trong trường hợp xét thấy cần có thêm thời gian để xác minh, thu thập
chứng cứ thì người đang thụ lý vụ việc vi phạm có thể xin gia hạn thời hạn ra
quyết định xử phạt theo quy định tại khoản 3 Điều 21 của Nghị định này.
Điều 30. Chuyển hồ sơ đối tượng thuộc vụ án hình sự không bị khởi tố bị
can để xử lý vi phạm hành chính
Việc chuyển hồ sơ của người thuộc vụ án hình sự không bị khởi tố bị can để xử
lý vi phạm hành chính theo Điều 65 của Pháp lệnh được quy định như sau:
Trong trường hợp người có hành vi vi phạm thuộc vụ án hình sự đã bị khởi tố
nhưng không bị khởi tố bị can mà hành vi vi phạm có dấu hiệu vi phạm hành
chính, thì người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự đang thụ
lý vụ án đó phải ra quyết định chuyển hồ sơ vụ vi phạm đến người có thẩm
quyền xử lý vi phạm hành chính. Hồ sơ vụ vi phạm bao gồm: bản sao biên bản
về vụ vi phạm, quyết định đình chỉ điều tra đối với đối tượng, tang vật, phương
tiện được sử dụng để vi phạm (nếu có) và bản sao các tài liệu khác liên quan
trực tiếp đến người vi phạm đó.
Điều 31. Xác định trị giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính
1. Sau khi tiến hành tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, nếu xét
thấy cần áp dụng biện pháp tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm thì người đã
ra quyết định tạm giữ phải mời đại diện cơ quan tài chính cùng cấp để xem xét,
định giá tang vật phương tiện vi phạm. Trường hợp tang vật, phương tiện vi
phạm hành chính thuộc loại khó định giá hoặc chưa có ý kiến thống nhất giữa
người có thẩm quyền quyết định tịch thu và đại diện cơ quan tài chính thì người
đã có thẩm quyền quyết định tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm phải lập hội
đồng định giá tang vật, phương tiện vi phạm với sự tham gia của đại diện Trung
tâm dịch vụ bán đấu giá cấp tỉnh và đại diện các cơ quan có liên quan để định
giá.
Nếu trị giá tang vật, phương tiện vi phạm thuộc thẩm quyền tịch thu của người
đã ra quyết định tạm giữ thì người đó quyết định tịch thu; trong trường hợp trị giá
tang vật, phương tiện vi phạm vượt quá thẩm quyền tịch thu của người đã quyết
định tạm giữ tang vật thì phải chuyển vụ việc vi phạm đến người có thẩm
quyền.
Trị giá tang vật, phương tiện bị tịch thu được xác định theo quy định tại Điều này
cũng là căn cứ để xem xét, quyết định việc chuyển giao tang vật, phương tiện vi
phạm cho Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản cấp tỉnh hoặc giao cho cơ quan
tài chính cấp huyện bán đấu giá theo quy định tại Điều 33 của Nghị định này.
2. Việc xác định giá trị tang vật, phương tiện vi phạm quy định tại khoản 1 Điều
này phải theo hướng dẫn của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
Điều 32. Xử lý tang vật, phương tiện tịch thu sung quỹ Nhà nước do vi
phạm hành chính
1. Trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày ra quyết định tịch thu sung quỹ Nhà nước
đối với tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, cơ quan ra quyết định phải
gửi quyết định tịch thu và thông báo đến cơ quan tài chính cùng cấp. Riêng đối
với tang vật vi phạm hành chính là hàng hóa, vật phẩm dễ bị hư hỏng thì người
có thẩm quyền tịch thu phải xử lý theo quy định tại khoản 3 Điều 61 của Pháp
lệnh và theo hướng dẫn của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
2. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày ra quyết định tịch thu tang vật, phương
tiện vi phạm hành chính, cơ quan đã ra quyết định tịch thu chủ trì, phối hợp với
cơ quan tài chính và các ngành liên quan tổ chức xử lý tang vật, phương tiện vi
phạm hành chính đó như sau:
a) Đối với tang vật là tiền Việt Nam, ngoại tệ, chứng chỉ có giá, vàng, bạc, đá
quý, kim loại quý thì chuyển giao cho kho bạc nhà nước; những giấy tờ, tài liệu,
chứng từ liên quan tới tài sản thì chuyển giao cho cơ quan tài chính cấp tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương;
b) Đối với các tang vật, phương tiện khác như: vũ khí; công cụ hỗ trợ; vật có giá
trị lịch sử, văn hóa; bảo vật quốc gia; cổ vật; hàng lâm sản quý hiếm và các tài
sản khác thì chuyển giao cho cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành để quản lý,
xử lý theo quy định của pháp luật;
c) Đối với các tang vật, phương tiện đã được cấp có thẩm quyền ra quyết định
chuyển giao cho cơ quan nhà nước có chức năng quản lý, sử dụng thì cơ quan đã
ra quyết định tịch thu chủ trì, phối hợp với cơ quan tài chính tổ chức chuyển giao
cho cơ quan nhà nước có chức năng quản lý, sử dụng.
Việc bàn giao và tiếp nhận các tang vật phương tiện theo quy định tại các điểm
a, b và c khoản 2 Điều này phải được tiến hành theo quy định của pháp luật về
bàn giao và tiếp nhận tài sản nhà nước;
d) Đối với các tang vật, phương tiện là hàng hóa, vật phẩm không được bán đấu
giá thì xử lý theo đúng quy định về loại hàng hóa, vật phẩm đó;
e) Đối với các tang vật, phương tiện bị tịch thu, bán sung quỹ nhà nước, thì phải
chuyển giao để bán đấu giá theo quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản.
Việc chuyển giao tang vật, phương tiện quy định tại các khoản 1 và 2 Điều này
phải được lập thành biên bản. Biên bản bàn giao tang vật, phương tiện phải ghi
rõ: ngày, tháng, năm bàn giao; người bàn giao; người nhận; chữ ký của người
giao, người nhận; số lượng, tình trạng (chất lượng) tang vật, phương tiện bị tịch
thu; trách nhiệm bảo quản tang vật, phương tiện bị tịch thu.
Hồ sơ bàn giao tang vật, phương tiện vi phạm hành chính cho cơ quan tiếp nhận,
xử lý tài sản và Trung tâm dịch vụ bán đấu giá cấp tỉnh gồm: quyết định tịch thu
sung quỹ nhà nước; các giấy tờ, tài liệu liên quan đến quyền sở hữu, quyền sử
dụng hợp pháp (nếu có) và các tài liệu khác có liên quan.
Điều 33. Chuyển giao tang vật, phương tiện vi phạm hành chính để bán
đấu giá
Đối với tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu để sung công quỹ
theo quy định tại khoản 1 Điều 61 của Pháp lệnh thì người đã ra quyết định tịch
thu có trách nhiệm bảo quản tang vật phương tiện đó. Căn cứ vào giá trị tang vật,
phương tiện được xác định theo quy định tại Điều 31 của Nghị định này, trong
thời hạn 10 ngày, kể từ ngày quyết định tịch thu, người đã quyết định tịch thu
phải chuyển giao tang vật, phương tiện vi phạm hành chính cho cơ quan có trách
nhiệm để bán đấu giá theo quy định sau đây:
1. Nếu tang vật, phương tiện của một vụ vi phạm có giá trị dưới 10.000.000
đồng thì người đã quyết định tịch thu phải giao cho cơ quan tài chính cấp huyện
để tổ chức bán đấu giá;
2. Nếu tang vật, phương tiện của vụ việc vi phạm có giá trị từ 10.000.000 đồng
trở lên thì người quyết định tịch thu phải giao cho Trung tâm dịch vụ bán đấu giá
cấp tỉnh nơi có tang vật, phương tiện bị tịch thu để tổ chức bán đấu giá.
Việc định giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính để chuyển giao bán đấu
giá phải phù hợp với giá thị trường có tang vật, phương tiện bị tịch thu, xử lý Bộ
trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn việc xác định giá khởi điểm để bán đấu giá các
tang vật, phương tiện quy định tại khoản 1 và 2 Điều này;
3. Việc chuyển giao tang vật, phương tiện cho cơ quan có trách nhiệm bán đấu
giá phải được lập thành biên bản. Trong biên bản phải ghi rõ: ngày, tháng, năm
bàn giao; người bàn giao; người nhận; chữ ký của người giao, người nhận; số
lượng, tình trạng tang vật, phương tiện bị tịch thu; trách nhiệm bảo quản tang
vật phương tiện bị tịch thu để bán đấu giá. Hồ sơ bàn giao tang vật, phương tiện
vi phạm hành chính cho cơ quan có trách nhiệm bán đấu giá bao gồm: quyết định
tịch thu tang vật, phương tiện; các giấy tờ tài liệu có liên quan đến quyền sở
hữu, quyền sử dụng hợp pháp (nếu có); văn bản định giá tang vật, phương tiện
và biên bản bàn giao tang vật, phương tiện đó;
4. Trong trường hợp tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là hàng hóa cồng
kềnh hoặc có số lượng lớn mà Trung tâm dịch vụ bán đấu giá cấp tỉnh hoặc cơ
quan tài chính cấp huyện không có nơi cất giữ thì sau khi thực hiện xong thủ tục
chuyển giao có thể ký hợp đồng bảo quản tài sản với nơi đang giữ tang vật
phương tiện đó. Chi phí cho việc thực hiện hợp đồng được thanh toán từ số tiền
bán đấu giá tang vật, phương tiện thu được sau khi bán đấu giá theo quy định tại
khoản 5 Điều này;
5. Khi tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu đã được chuyển giao
cho cơ quan có trách nhiệm bán đấu giá thì thủ tục bán đấu giá tài sản đó được
thực hiện theo quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản.
Điều 34. Quản lý số tiền thu được từ bán đấu giá tang vật, phương tiện
tịch thu sung quỹ Nhà nước do vi phạm hành chính
1. Số tiền thu được từ việc bán đấu giá tang vật, phương tiện tịch thu sung quỹ
Nhà nước phải được nộp vào tài khoản tạm giữ của cơ quan tài chính tại kho
bạc nhà nước cùng cấp sau khi trừ các khoản chi phí cho vận chuyển, giao nhận,
bảo quản và phí bán đấu giá theo quy định của pháp luật.
2. Cơ quan tài chính các cấp có trách nhiệm thanh toán các khoản chi phí hợp lý,
hợp lệ liên quan đến công tác xác minh, điều tra, mua tin, bắt giữ, cung cấp tin
phát hiện, xử lý vi phạm, xử lý tài sản (phân loại, định giá) và các chi phí khác có
liên quan đến quản lý xử lý tài sản. Số tiền còn lại được nộp vào ngân sách Nhà
nước theo quy định của pháp luật về phân cấp ngân sách Nhà nước hiện hành.
Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện quy định tại các khoản 1 và 2
Điều này.
Chương V
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 35. Hiệu lực của Nghị định
Nghị định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo. Ra
kèm theo Nghị định này Phụ lục 05 mẫu biên bản và 09 mẫu quyết định để sử
dụng trong quá trình xử phạt vi phạm hành chính.
Điều 36. Tổ chức thi hành
Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính
phủ, Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm tổ chức thi hành Nghị định này.
TM. Chính phủ
Thủ tướng
PHAN VĂN KHẢI
-------------------------------
Phụ lục
DANH MỤC MỘT SỐ MẪU BIÊN BẢN VÀ QUYẾT ĐỊNH SỬ DỤNG
TRONG XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
(ban hành kèm theo Nghị đinh số 134/2003/NĐ-CP
ngày 14 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ)
1. Mẫu Biên bản số 01: Biên bản về vi phạm hành chính.
2. Mẫu Biên bản số 01.B; Biên bản về vi phạm hành chính.
3. Mẫu Biên bản số 02: Biên bản tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành