Câu 1;
* Những đặc trưng cơ bản của xã hội XHCN gồm có 6 đặc trưng:
- Cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH là nền sản xuất công nghiếp với trình độ công nghệ
hiện đại.Cả mặt thực tế, cả logic – lý luận khoa học đều chứng minh rằng, xã hội xã hội chủ
nghĩa là sự kế tiếp sau xã hội TBCN, có nhiệm vụ giải quyết mâu thuẫn mà CNTB đã không giải
quyết triệt để.Do đó, lực lượng sản xuất của XHCN, khi nó hoàn thiện, phải cao hơn so với
CNTB.
- Về chế độ sở hữu ko con chế độ chiếm hữu tư nhân đối với nhưnhx tư liệu sx chủ
yếu.Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mac – Lênin đã chỉ rõ, CNXH không xóa bỏ chế độ tư hữu
nói chung mà chủ yếu xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.Do chế độ tư
hữu đã nô dịch, áp bức bóc lột giá trị thặng dư đối với đại đa số nhân dân lao động, đem lại lợi
nhuận ngày càng cao cho tiểu số các tập đoàn tư bản lũng đoạn và giai cáp thống trị xã hội.
- Các hình thức, phương páp, tổ chức và kỷ luật lao động mang tính xã hội hóa ngày càng
cao.Quá trình xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội là 1 quá trình hoạt động tự giác cuả đại đa
số nhân dân, vì lợi ích của đa số nhân dân.
- XH XHCN thực hiện nguyên tăc phân phối theo lao động, nguyên tắc phân phối cơ bản
nhất.Trong quá trình lao động cụ thể, mỗi người lao động sẽ nhận được từ xã hội 1 số lượng
sản phẩm tiêu dùng có giá trị tương đương số lượng, chất lượng và hiệu quả lao động của họ
đã tạo ra cho xã hội.
- Nhà nước XHCN mang bản chất giai cấp công nhân ,tính nhân dân rộng rãi và tính dân
tộc sâu sắc thực hiện quyền lực và lợi ích của nhân dân.Khi đề cập đến hệ thống chuyên chính
vô sản, chủ nghĩa Mac-Lênin đã xác định rõ bản chất, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước
chuyên chính vô sản.Thực chất nhà nước đó là do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo nhân
dân tổ chức ra.
- Xã hội xã hội chủ nghĩa là chế độ giải phóng con người thoát khỏi áp bức bóc lột,thực
hiện công bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội, tạo những điều kiện cơ bản để con người phát triển
toàn diện.Việc giành chính quyền , độc lập tự do,dân chủ - giải phóng con người về chính trị suy
cho cùng cũng là để giải phóng con người về kinh tế, về đời sống vật chất và tinh thần.
* Đặc trưng mô hình CNXH ở việt nam được nêu ra trong “cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ”(6-1991).
Cương lĩnh nêu lên những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng như sau:
- Do nhân dân lao động làm chủ;
- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu
về tư liệu sản xuất chủ yếu;
- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc;
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao
động, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân;
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ;
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Cương lĩnh xác định những phương hướng và giải pháp cơ bản trong quá trình xây dựng
CNXH và bảo vệ tổ quốc. Mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng
xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của CNXH, với kiến trúc tượng tầng về chính trị và tư
tưởng, văn hóa phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước XHCN phồn vinh.
Quá độ lên CNXH ở nước ta là quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường. Mục tiêu của
chặng đường đầu là: Thông qua đổi mới toàn diện, xã hội đạt tới trạng thái ổn định vững chắc,
tạo thế phát triển nhanh ở chặng sau.
Cương lĩnh nêu rõ những định hướng lớn về chính sách kinh tế -xã hội, an ninh -quốc
phòng, đối ngoại, kiện toàn tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của
Đảng. Cương lĩnh khẳng định: "Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiền phong của giai cấp công
nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của
cả dân tộc. Đảng lấy Chủ nghĩa Mác -Lênnin và tư tưởng Hồ Chí minh làm nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Cương lĩnh là
ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi của sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam từng bước quá độ
lên CNXH, định hướng cho mọi hoạt động của đảng và nhân dân ta hiện tại và trong những thập
kỷ tới.
Câu 2;
* Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Gồm có 2 nội dung:
- sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ
người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi
mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh.
- Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phải lãnh đạo cuộc cách mạng đó thông qua
đội tiên phong của mình là đảng cộng sản việt nam, đấu tranh giành chính quyền, thiết lập nền
chuyên chính dân chủ nhân dân.trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, giai cấp công
nhân từng bước lãnh đạo nhân dân lao động xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, không có
người bóc lột người, giải phóng nhân dân lao động khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, bất công.
* phân tích những cơ sở khách quan để giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử
ấy:
Học thuyết C.Mác và Ph.Angghen về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là luân
chứng khoa học về địa vị kinh tế xã hội và vai trò lịch sử của giai cấp công nhân ,về mục tiêu và
con đường để giai cấp đó hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.Học thuyết đã chứng minh sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được quy định bởi những điều kiện kinh tế, xã hội khách
quan.
Thứ nhất là về địa vị kinh tế xã hội khách quan của giai cấp công nhân: Dưới chủ
nghĩa tư bản, giai cấp công nhân là sản phẩm của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, nó ra
đời và phát triển cùng với sự hình thành phát triển của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa,
được nền sản xuất công nghiệp hiện đại rèn rũa tổ chức lại thành một lực lượng xã hội hùng
mạnh.
Dưới chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân là bộ phận quan trọng nhất trong các bộ
phận tiêu biểu cấu thành của lực lượng sản xuất của xã hội tư bản. Họ đại diện cho lực lượng
sản xuất tiên tiến nhất với trình độ xã hội hoá ngày càng cao, họ tạo ra phần lớn của cải cho xã
hội, lao động thặng của họ là nguồn gốc chủ yếu đem lại sự giàu có cho xã hội.
Do không có tư liệu sản xuất, giai cấp công nhân phải bán sức lao động làm thuê, bị nhà
tư bản chiếm đoạt giá trị thặng dư, bị lệ thuộc hoàn toàn vào quá trình phân phối các kết quả
lao động của chính họ. Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân bị toàn bộ giai
cấp tư sản bóc lột, là giai cấp trực tiếp đối kháng với giai cấp tư sản, không có quyền trong tổ
chức, điều hành lao động, phân phối sản phẩm lao động. Do đó giai cấp công nhân là giai cấp
không được làm chủ trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Họ bị bần cùng hoá so với giai cấp tư sản
(bị bóc lột trong quá trình sản xuất, ngoài quá trình sản xuất )
Thứ hai là về kinh tế chính trị xã hội của giai cấp công nhân: từ địa vị kinh tế xã
hội của giai cấp công nhân, điều đó cũng quy định những đặc điểm xã hội chính trị của giai cấp
công nhân, do vậy giai cấp công nhân có vai trò sứ mệnh cao cả.
Giai cấp công nhân bị giai cấp tư sản bóc lột, áp bức rất nặng nề. Đề tăng giá trị thặng
dư cho giai cấp tư sản: đã tăng thêm giờ làm. Tăng lao động và biến người công nhân thành
công cụ phụ thuộc máy móc, giai cấp công nhân bị bần cùng hóa… theo sự khách quan: đã có
áp bức tất có đấu tranh.
Giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất: Giai cấp công nhân là đại diện cho phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa– phương thức sản xuất tiên tiến nhất và là lực lượng sản xuất
có trình độ xã hội hoá cao, là lực lượng quyết định sự phá vỡ phương thức sản xuất tư bản, thiết
lập phương thức sản xuất mới.
Giai cấp công nhân có hệ tư tưởng độc lập, được vũ trang bởi lý luận tiền phong và có
chính đảng của mình là đảng Cộng Sản.Do đó, có khả năng tổ chức, lãnh đạo giai cấp tư sản vì
lợi ích giaic cấp công nhân phù hợp với lọi ích của nhân dân lao động.
Giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để, do bị áp bức bóc lột
nặng nề dưới CNTB và các chế độ áp bức bốc lột khác, đồng thời sứ mệnh lịch sử của họ chỉ
giành được thắng lợi hoàn toàn khi xã hội thoát khỏi tình trạng áp bức, bất công.Do vậy, muốn
tự giải phóng mình,giai cấp công nhân phải đồng thời tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng toàn
xã hội.
Giai cấp công nhân là giai cấp có tính tổ chức kỷ luật cao: do được tôi luyện trong môi
trường lao động công nghiệp ngày càng hiện đại,có tính tổ chức và kỷ luật cao, tác phong công
nghiệp.Trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản thống trị, giai cấp công nhân phải đoàn
kết lại, tổ chức chặt chẽ và có tính cách mạng cao vì cách mạng đòi hỏi đúng thời điểm, thời cơ
thuận lợi mới có thể thành công.
Giai cấp công nhân là giai cấp có bản chất quốc tế: do địa vị kinh tế xã hội của họ trên
toàn thế giới giống nhau, họ có khả năng đoàn kết để thực hiện được mục tiêu chung là xoá bỏ
chế độ áp bức, bóc lột, bất công để xây dựng CNXH.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân tuy đang đứng trước những thử thách
hết sức nặng nề, nhưng xem xét toàn cảnh của sự phát triển xã hội, giai cấp công nhân, lực
lượng sản xuất tiến bộ vẫn đang chuẩn bị những tiền đề khách quan cho thực hiện sứ mệnh lịch
sử của minh dù có trải qua những bước thăng trầm, quanh co, nhưng nó vẫn tiếp tục diễn ra
theo quy luật khách quan của lịch sử.
Câu 3:
* Thời đại là : một khái niệm khoa học dùng để phân kỳ lịch sử xã hội, phân biệt những nấc
thang phát triển xã hội loài người.
* Phân tích những đặc điểm cơ bản và xu thế vận động chủ đạo của thời đại hiện
nay.
Thứ nhất về đặc điểm cơ bản của thời đại ngày nay
Đấu tranh giai cấp và dân tộc diễn ra gay gắt trên phạm vi thế giới: Cuộc đấu tranh giai cấp
giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản vẫn diễn ra quyết liệt trên thế giới. Giai cấp tư sản
tìm nhiều biện pháp để chia rẽ, phá hoại phong trào công nhân, bằng cách giành được quyền
đặc lợi cho đội ngũ công nhân có trình độ cao, “ công nhân cổ cồn, công nhân áo trắng “.
Nguy cơ chiến tranh thế giới đã bị đẩy lùi, nhưng xung đột sắc tộc, tôn giáo xảy ra gay go,
quyết liệt và diễn biến phức tạp trên thế giới. Chạy đua vũ trang, chủ nghĩa khủng bố đang gây
ra hậu quả rất lớn làm tổn thất về người và của cho nhiều dân tộc.
Cách mạng khoa học và công nghệ đang gây ra những thay đổi to lớn trên thế giới: Cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ tạo ra điều kiện nhanh chóng phát triển lực lượng sản xuất
trên thế giới. Trung bình 10 - 15 năm của cải nhân loại tăng gấp đôi, do vậy, nhìn chung mức
sống của con người không ngừng được nâng cao.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang tạo ra những thay đổi trong nhiều quan niệm
và xu hướng toàn cầu hóa trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội từ kinh tế tới chính trị, văn
hoá, v.v., đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu, nắm vững và thích ứng.
Những vấn đề toàn cầu đòi hỏi sự hợp tác giải quyết của các quốc gia: Hiện nay, cộng đồng
quốc tế đang đứng trước những vấn đề có tính toàn cầu, đòi hỏi các quốc gia, các tổ chức quốc
tế phải cùng nhau giải quyết, không phân biệt chế độ xã hội, biên giới như: khoảng cách chênh
lệch giữa các nhóm nước giàu và nước nghèo ngày càng tăng; sự gia tăng dân số cùng với các
luồng dân di cư; tình trạng khan hiếm nguồn năng lượng, cạn kiệt tài nguyên; môi trường sinh
thái bị huỷ hoại; khí hậu trái đất diễn biến ngày càng xấu, thay đổi thất thường kèm theo những
thiên tai khủng khiếp; các bệnh dịch lớn, các tội phạm xuyên quốc gia có chiều hướng phát
triển.
Khu vực châu á - Thái Bình Dương đang là khu vực phát triển năng động, khả năng phát triển
với tốc độ cao, đồng thời cũng đang tiềm ẩn một số nhân tố có nguy cơ gây mất ổn định. Khu
vực này có khả năng phát triển với tốc độ cao, vì tài nguyên của khu vực chưa bị khai thác
nhiều, giá lao động rẻ tạo điều kiện cho các nước trong khu vực thu hút nguồn vốn đầu tư nước
ngoài. Song, trong khu vực luôn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định như những tranh
chấp về ảnh hưởng và quyền lực, về biên giới, lãnh thổ, biển đảo, tài nguyên giữa các nước;
những bất ổn về kinh tế, chính trị, xã hội ở từng nước...
Thứ hai là về xu thế chủ yếu của thế giới hiện nay
Toàn cầu hoá: Cách mạng khoa học và công nghệ là một động lực xuyên quốc gia, nó đang
tạo cơ sở vật chất cho quá trình toàn cầu hoá, thúc đẩy sự chuyển dịch kinh tế, cơ cấu kinh tế,
làm thay đổi nhiều quan niệm cũ về nhiều lĩnh vực trên phạm vi quốc gia và quốc tế. Toàn cầu
hoá là một xu thế khách quan, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực đang bị các quốc gia
phát triển và các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia chi phối. Toàn cầu hoá buộc các quốc gia chủ
động xác định lộ trình hội nhập vào mọi mặt đời sống nhất là lĩnh vực kinh tế của thế giới.
Hoà bình, ổn định để cùng phát triển: Từ những hậu quả các cuộc chiến tranh trên thế giới,
các quốc gia đều nhận thấy được tầm quan trọng của hoà bình, ổn định để phát triển. Trong
thực tế không một nước nào có thể phát triển được trong hoàn cảnh có chiến tranh, do vậy, hoà
bình đã trở thành nhu cầu bức xúc của các dân tộc.
Như vậy, tình hình thế giới hiện nay đang đan xen những yếu tố phức tạp, phát triển và suy
thoái, hợp tác và đấu tranh, ổn định và mất ổn định. Tuy sự vận động của thế giới diễn ra phức
tạp nhưng chúng ta cần phải thấy được những xu thế chủ yếu và đề ra những đường lối chính
sách cho đúng nhằm tranh thủ những thuận lợi, vượt qua những thách thức để nhanh chóng đưa
đất nước ta phát triển lâu bền.
Câu 4:
* Dân chủ là : Một thể chế mà quyền thay đổi luật pháp và cơ cấu chính quyền thuộc về người
dân. Trong hệ thống này, luật pháp được đặt ra do người dân hay những dân biểu được người
dân bầu ra và mọi hoạt động xã hội đều tuân theo luật pháp.
* Bản chất của nền dân chủ XHCN:
Bản chất chính trị:
- Dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng của giai cấp công nhân trên mọi lĩnh vực, thực hiện
quyền lực của nhân dân, thể hiện qua các quyền dân chủ, làm chủ quyền con người, thỏa mãn
ngày càng cao hơn các nhu cầu về lợi ích của toàn thể nhân dân chứ không phải chỉ riêng của
giai cấp công nhân.
- Chế độ dân chủ XHCN, nhà nước XHCN thực chất là của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân.
- Nền dân chủ XHCN là chế độ mà nhân dân tham gia ngày càng nhiều vào công việc của
nhà nước. Nó vừa có bản chất giai cấp công nhân vừa có tinh thần nhân dân rộng rãi và tinh
thần dân tộc sâu sắc.
Ban Chat kinh tế
- Nền dân chủ XHCN dựa trên chế đọ công hữu về TLSX chủ yếu của toàn XH đáp ứng sự
phát triển ngày càng cao của LLSX dựa trên cơ sở KH CN hiện đại nhằm thỏa mãn nhu cầu
ngày càng cao những nhu cầu vật chất và tinh thần của toàn thể nhân dân lao động
- Bản chất kinh tế chỉ bộc lộ khi có sự ổn định chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự
quản lý của nhà nước XHCN.
- Bản chất kinh tế của nền dân chủ XHCN dù khác nhau về bản chất kinh tế của các chế độ
tư hữu trước đây, song nó cũng có sự kế thừa và phát triển mọi thành tựu nhân loại đã đạt được
đồng thời lọc bỏ các nhân tố tiêu cực, kìm hãm của các chế độ kinh tế trước.
Bản chất tư tưởng văn hóa:
- Nền dân chủ XHCN lấy hệ tư tưởng Mác - Lênin làm nền tảng chủ đạo đối với mọi hình
thức, ý thức khác trong XH mới như: văn học, giáo dục, đạo đức.
- Đồng thời, nền dân chủ XHCN kế thừa phát huy những tinh hoa văn hóa truyền thống của
các dân tộc, tiếp thu các tiến bộ XH mà nhân loại đã tạo ra. Chính vì vậy, đời sống văn hóa tư
tưởng của nền dân chủ XHCN rất phong phú, đa dạng và ngày càng trở thành một nhân tố quan
trọng hàng đầu, trở thành mục tiêu, động lực cho quá trình xây dựng XHCN.
* Đảng và nhà nước ta đã có những chủ trương và biện pháp gì nhằm thực hiện
chế độ dân chủ XHCN ở nước ta.
* Đảng và nhà nước ta đã có những chủ trương.
- Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân
dân.
- Phấn đấu cho quyền làm chủ thật sự của nhân dân được thực hiện, nhân dân là chủ thể của
quyền lực, mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân, Nhà nước là người nhận quyền lực xã hội do
nhân dân ủy giao phó để tổ chức và thực hiện đường lối chính trị của Đảng, hành động vì quyền
lợi của nhân dân, làm điều lợi, tránh điều hại cho dân, chăm lo phát triển sức dân, bồi dưỡng và
tiết kiệm sức dân theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
* Đảng và nhà nước ta đã có những có những biện pháp.
Câu 5:
* Những cơ sở khẳng định tính tất yếu của liên minh công nông - trí thức trong
thời kỳ quá độ ở việt nam?
+Chủ nghĩa Mác-lênin về tính tất yếu của liên minh trong xây dựng chủ nghĩa xã hội
Trong điều kiện đã phát triển cao của CNTB Lênin đã vận dụng và phát triển lý luận của
Mác, Ăngghen và tổ chức liên minh công ,nông và các tầng lớp khác trong cách mạng xã hội chủ
nghĩa tháng mười nga(1917),Lênin khẳng định “chuyên chính vô sản là một hình thức đặc biệt
của của liên minh giai cấp ,giữa gai cấp vô ản,đội tiên phong của những người lao động,với
đông đảo các tầng lớp không phải vô sản (tiểu tư sản,tiểu chuẩn, nông dân, trí thức…)”
+Tính tất yếu của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp công nhân và tầng lớp
trí thức trong chủ nghĩa xã hội.
lênin đã chỉ ra:giai cấp công nhân phải liên minh đông đảo với đông đảo những tầng lớp lao
động không phải vô sản,,trong một nước nông nghiệp đại đa số dân cư là nông dân thì vấn đề
giai cấp công nhân liên minh đối với họ là điều tất yếu. Lênin đặc biệt lưu ý mối liên minh công,
nông trong giai đoạn xây dựng CNXH: Nguyên tắc cao nhất của chuyên chính là duy trì khối liên
minh giữa giai cấp vô sản và nông dân để giai cấp vô sản có giữ được vai trò lãnh đạo và chính
quyền nhà nước.
Đây là điều kiện để giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo, đó chính là tất yếu về mặt chính
trị - xã hội, là yếu tố tiên quyết.
*Nội dung cơ bản của sự liên minh đó?
+Nội dung chính trị của liên minh:
Nhu cầu,lợi ích chính tri cơ bản của công nhân,nông dân ,trí thứcvaf của cả dân tộc là độc
lập dân tộcvaf CNXH.mỗi giai cấp ,tầng lớp ở mỗi giai đoạn đều có tư tưởng –chính trị của mình
Nguyên tắc về chính trị của liên minh là do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo,để thực
hiện từng bước mục tiêu lợi ích chính trị cơ bản của liên minh trên lập trường tư tưởng chính trị
của giai cấp công nhân thì liên minh này phải do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
Trong thời kỳ quá độ,công nông trí thức là nền tàng chính trị -xã hội và kinh tế của nhà nước
XHCN,là nòng cốt của mặt trận tổ quốc để xây dựng và bảo vệ xã hội chủ nghĩa.
+Nội dung kinh tế của liên minh
Nội dung kinh tế là nội dung cơ bản,quyết định nhất,là cơ sở vật chất vững chắc của liên
minh trong thời kỳ qua độ.Trong thời kỳ này ,nhiệm vụ cách mạng chuyển trọng tâm sang lĩnh
vực kinh tế cho nên nội dung kinh tế mà thực chất là kết hợp đúng đắn các lợi ích kinh tế của
các giai tâng xã hội được lấy làm trọng tâm.
Nội dung kinh tế của liên minh ở nước ta còn thể hiện ở vai trò nhà nước đó là vai trò của nhà
nước đối với nông dân được thể hiện qua chính sách khuyến nông, qua bộ máy nhà nước, các
tổ chức khuyến nông, các cơ sở kinh tế nhà nước, tạo điều kiện cho liên minh phát triển.
Thanh niên, sinh viên có vai trò gì trong quá trình thực hiện liên minh công – nông
– trí thức?
Câu 6:
Dân tộc được hiểu theo 2 nghĩa khác nhau;
Theo nghĩa hẹp: Dân tộc là 1 cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững, có sinh
hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ riêng và những nét văn hóa đặc thù.
Theo nghĩa rộng: Dân tộc là 1 cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân 1 nước, có lãnh
thổ, quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất văn hóa và
truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước.
Phân tích những đặc trưng cơ bản của dân tộc việt nam.
Thứ nhất là có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế.Đây là đặc trưng quan trọng nhất
của dân tộc. Các mối quan hệ kinh tế là cơ sở liên kết các bộ phận, các thành viên của dân tộc,
tạo nên nền tảng vững chắc của cộng đồng dân tộc.
Thứ hai là có thể cư trú tập trung trên một vùng lãnh thổ của một quốc gia, hoặc cư trú đan
xen dân tộc anh em. Vận mệnh dân tộc môt phần rất quan trọng gắn với việc xác lập và bảo vệ
lãnh thổ đất nước.
Thứ ba là có ngôn ngữ riêng và có thể có chữ viết riêng ( trên cơ sở ngôn ngữ chung của
quốc giai) làm công cụ giao tiếp trên mọi lĩnh vực: kinh tế, văn hóa, tình cảm…
Thứ tư là có nét tâm lý riêng biểu hiện kết tinh trong nền văn hóa dân tộc và tạo nên bản
sắc riêng của nền văn học dân tộc, gắn bó với nền văn hóa cuả cả cộng đồng các dân tộc
Như vậy, cộng đồng người ổn định chỉ trở thành dân tộc khi có đủ các đặc trưng trên, các
đặc trưng của dân tộc là một chỉnh thể gắn bó chặt chẽ với nhau, đồng thời mỗi đặc trưng có
một vị trí xác định.Sự tổng hợp của các đặc trưng nêu trên làm cho các cộng đồng dân tộc được
đè cập ở đây về thực chất là một cộng đồng xã hội – tộc người, trong đó những nhân tố tộc
người đan kết, hòa quyện vào nhân tố xã hội.
Chính sách của đảng và nhà nước ta hiện nay?giống câu 9
Câu 7:
* Tôn giáo là: Một hình thái ý thức – xã hội ra đời và biến đổi theo sự biến động của điều kiện
kinh tế xã hội.Trong quá trình xây dựng CNXH, tôn giáo còn tồn tại và có những biến đổi nhất
định.
* Vì sao dưới CNXH tôn giáo vẫn còn tồn tại?
Các tôn giáo vẫn còn tồn tại lâu dài trong các nước XHCN là do các nguyên nhân chủ yếu sau :
Nguyên nhân nhận thức: Trong quá trình xây dựng CNXH và trong chế độ XHCN trình độ
dân trí của nhân dân chưa thật cao; nhiều hiện tượng tự nhiên và XH đến nay KH chưa giải thích
được. Hiện nay, nhân loại đã được những thành tựu to lớn về khoa học và công nghệ, với những
tiến bộ vượt bậc của công nghệ thông tin, sinh học, vật liệu mới.....đã giúp con người có thêm
những khả năng để nhận thức XH và làm chủ tự nhiên. Song thế giới khách quan là vô cùng, vô
tận, tồn tại đa dạng và phong phú, nhận thức của con người là một quá trình và có giới hạn, thế
giới còn nhiều vấn đề mà hiện tại khoa học chưa thể làm rõ. Do vậy, tâm lý sợ hãi, trông chờ,
nhờ cậy và tin tưởng vào Thần, Thánh, Phật.... chưa thể gạt bỏ khỏi ý thức của con người trong
XH, trong đó có nhân dân các nước XHCN.
Nguyên nhân tâm lý: Tôn giáo đã tồn tại lâu đời trong lịch sử loài người, ăn sâu vào trong
tiềm thức của nhiều người dân. Trong mối quan hệ giữa tồn tại XH và ý thức XH, thì ý thức XH
bảo thủ hơn so với tồn tại XH, trong đó tôn giáo lại là một trong những hình thái ý thức XH bảo
thủ nhất. Tín ngưỡng, tôn giáo đã in sâu vào đời sống tinh thần, ảnh hưởng khá sâu đậm đến
nếp nghĩ, lối sống của một bộ phận nhân dân qua nhiều thế hệ đến mức rở thành một kiểu sinh
hoạt văn hóa tinh thần không thể thiếu của cuộc sống.
Nguyên nhân chính trị - xã hội: Trong các nguyên tắc tôn giáo có những diểm còn phù hợp
với CNXH, với đường lối chính sách của Nhà nước XHCN. Đó là mặt giá trị đạo dức văn hóa của
tôn giáo, đáp ứng được nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Dưới CNXH, tôn giáo
cũng có khả năng tự biến đổi để thích nghi theo xu hướng "đồng hành với dân tộc" sống "tốt đời,
đẹp đạo.Nhà nước không ngừng nâng cao địa vị, tính tích cực XH của những người có đạo
bằng cách tạo điều kiện để họ tham gia ngày càng nhiều vao các hoạt động thực tiễn.
Nguyên nhân kinh tế: Trong CNXH, nhất là giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ còn nhiều
thành phần KT vận hành theo cơ chế thị trường với những lợi ích khác nhau của các giai tầng
XH, sự bất bình đẳng về KT, CT, Vh, XH.... Vẫn là một thực tế; đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân chưa cao, thì con người càng chịu tác động mạnh mẽ của những yếu tố ngẫu nhiên,
may rủi. Điều đó đã làm cho con người có tâm lý, thụ động, nhờ cậy, cầu mong vào những lực
lượng siêu nhiên.
Nguyên nhân về văn hóa: Sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo có khả năng đáp ứng ở một mức độ
nào đó nhu cầu văn hóa tinh thần và có ý nghĩa nhất định về giáo dục ý thức cộng đồng, đạo
dức, phong cách, lối sống. Vì vậy, việc kế thừa , bảo tồn và phát huy văn hóa (có chọn lọc) của
nhân loại, trong đó có đạo đức tôn giáo là cần thiết.
* Quan điểm giải quyết vấn đề tôn giáo dưới CNXH?
Một là, chủ nghĩa Mác- Lênin, hệ tư tưởng chủ đạo của xã hội xã hội chủ nghĩa và hệ tư
tưởng tôn giáo có sự khác nhau cơ bản về thế giới quan, nhân sinh quan và con đường mưu cầu
hạnh phúc cho nhân dân. Vì vậy, khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo trong
đời sống xã hội phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới; là yêu cầu
khách quan của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hai là, một khi tín ngưỡng tôn giáo còn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần chúng
nhân dân, thì chính sách nhất quán của nhà nước xã hội chủ nghĩa là tôn trọng và bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do không tín ngưỡng của công dân. Mọi công dân theo tôn
giáo hoặc không theo tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, đều có quyền lợi và nghĩa vụ như
nhau. Cần phát huy những nhân tố tích cực của tôn giáo, đặc biệt là những giá trị đạo đức; chủ
nghĩa nhân đạo và tinh thần yêu nước. Nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm tự do tín ngưỡng
của công dân.
Ba là, thực hiện đoàn kết giữa những người theo với những người không theo một tôn giáo
nào, đoàn kết các tôn giáo hợp pháp, chân chính, đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Nghiêm cấm mọi hành vi chia rẽ vì lý do tín ngưỡng tôn giáo. Thông qua quá trình cùng
nhau đoàn kết xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao mức sống, lối sống và trình độ
kiến thức của quần chúng, những người lao động có tín ngưỡng, tôn giáo sẽ dần dần đến với
chủ nghĩa xã hội.
Bốn là, phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo. Mặt
tư tưởng thể hiện sự tín ngưỡng trong tôn giáo. Khắc phục mặt này là nhiệm vụ thường xuyên,
lâu dài, gắn liền với quá trình xâydựng chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của đồng bàocó tín ngưỡng. Mặt chính trị thể hiện sự lợi dụng tôn giáo để chống lại sựnghiệp
đấu tranh cách mạng, xây dựng chủ nghĩa xã hội của những phần tửphản động đội lốt tôn giáo.
Năm là, phải có quan điểm lịch sử khi giải quyết vấn đề tôn giáo: ở những thời kỳ lịch sử
khác nhau, vai trò, tác động của từng tôn giáo đối với đời sống xã hội không giống nhau. Quan
điểm thái độ của các giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về các lĩnh vực của đời sống xã hội luôn có sự
khác biệt. Vì vậy, cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử đối với
những vấn đề có liên quan đến tôn giáo.
Câu 8:
Phân tích các mqh cơ bản của gia đình
Giai đình là 1 hình thức tổ chức đời sống cộng đồng của con người, 1 thiết chế xã hội văn hía
đặc thù, được hình thành tồn tại cà phát triển trên cơ sở của quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết
thống và quan hệ nuôi dưỡng giáo dục giữa các thế hệ thành viên.
Thứ nhất là Hôn nhân và quan hệ hôn nhân là mối quan hệ cơ bản của sự hình thành, tồn tại
và phát triên gia đình. Hôn nhân là 1 hình thức quan hệ tính giao giữa nam và nữ nhằm thỏa
mãn nhu cầu tâm sinh lý, tinh cảm đảm bảo tái sản xuất ra con người, nhằm duy trì, phát triển
nò giống.
Hôn nhân là hình thức quan hệ tính giao của con người, chỉ có ở con ngườ, nên ngay từ đầu
hôn nhân đã mang bản chất ngưoif, nhân văn và nhân đạo.Sự phù hợp về tâm lý, sức khỏe và
nhất là trạng thái tình cảm, ngay từ đầu đã là cơ sở trực tiếp của hôn nhân, mang lại bản sắc
đặc thù của quan hệ hôn nhân.Tuy nhiên, như mọi quan hệ xã hội khác, hôn nhân luôn sự chịu
chi phối của các quan hệ kinh tế và bản chất chế độ xã hội mà trên đó nó được hình thành và
phát triển.
Vì vậy, hôn nhân trong bất cứ thời đại nào cũng có thể và được xã hội thừa nhận, ở những
mức độ, trình độ khác nhau.
Thứ hai là về huyết thống, quan hệ huyết thống là quan hệ cơ bản đặc trưng của gia đình.Do
nhu cầu hết sức tự nhiên cần duy trì và phát triển nòi giống, con người đã sáng tạo ra gia đình
với tính cách 1 thiết chế xh.Trong gia đình cùng với qh hôn nhân, quan hệ huyết thống được coi
là quan hệ cơ bản nhất.Tuy nhiên, ngay cả quan niệm về qh này cũng có những thay đổi theo
tiến trình lịch sử.Những thay đổi ấy được quy định, chịu sự chi phối của các điều kiện k.tế,
v.hóa, c.trị xh.Mặt khác, quan hệ huyết thống ấy cũng gia nhập, đan xen vào các quan hệ k.tế -
xh và c.trị của mỗi thời đại.
Thứ ba là về quan hệ nuôi dưỡng giữa các thành viên và thế hệ thành viên trong gia đình.Nuôi
dưỡng là một nghĩa vụ, 1 trách nhiệm, đồng thời còn là quyền lợi thiêng liêng của gia đình,của
các thành viên gia đình đối với nhau.Nuôi dưỡng không đơn thuần là các bậc cha me, ông bà
nuôi dưỡng con cháu, mà còn là hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng của con cháu đối với cha mẹ,
ông bà giữa các thành viên khỏe mạnh có thuận lợi trong làm ăn sinh sống đối với các thành
viên gặp những khó khăn, những rủi ro về s.khỏe, về làm ăn sinh sống.
Mối qh nào là cơ bàn: quan hệ huyết thống được coi là quan hệ cơ bản nhất.
Để xd gia đình hạnh phúc cần những yếu tố ?
câu 9:
Nội dung cơ bản trong cương lĩnh dân tộc của CN Mác – lênnin:
- Các dân tộc có quyền bình đẳng: Bình đẳng dân tộc là quyền của mỗi dân tộc, không
phân biệt đa số hay thiểu số, trình độ văn hóa cao hay thấp, không phân biệt màu da hay chủng
tộc. Các dân tộc đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội, không dân tộc nào được giữ đặc quyền, đặc lợi về kinh tế, chính trị, văn hóa.
- Các dân tộc có quyền tự quyết: Mỗi dân tộc đều có quyền tự quyết, quyền tự chủ đối với
vận mệnh của dân tộc mình, quyền lựa chọn chế độ chính trị và con đường phát triển của dân
tộc.Quyền tự quyết bao gồm: quyền phân lập thành lập 1 quốc gia dân tộc độc lập, hoặc tự
nguyện liên hiệp với dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng .Tự quyết là quyền của dân tộc nhưng
khi thực hiện phải đảm bảo những nguyên tắc: bình đẳng cung có lợi, đáp ứng nhu cầu, nguyện
vọng của đa số nhân dân lao động, các dân tộc vì mục tiêu phát triển hòa bình, ổn định phồn
vinh và hữu nghị.
- Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc: Để thực hiện có hiệu quả quyền bình đẳng và tự
quyết của các dân tộc phải đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc, các quốc gia. Đoàn kết giai
cấp công nhân các dân tộc chính là đoàn kết gắn bó lực lượng lòng cốt của phong trào đấu
tranh cho tiến bộ, hòa bình và phát triển với bản chất quốc tế và địa vị kinh tế - Xh, giai cấp
công nhân vừa đại diện cho lợi ích của nhân dân lao động và lợi ích của dân tộc.
Chính sách dân tộc của đảng và nhà nước ta hiện nay.
Trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính
sách dân tộc là nhất quán, theo nguyên tắc: Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ nhau
cùng phát triển. Đây vừa là nguyên tắc, vừa là mục tiêu chính sách dân tộc của Đảng và nhà
nước ta.
- Bình đẳng giữa các dân tộc là một nguyên tắc cơ bản có ý nghĩa quan trọng hàng đầu của
chính sách dân tộc về quyền của các dân tộc thiểu số. Các dân tộc không phân biệt đa số hay
thiểu số, trình độ phát triển cao hay thấp đều ngang nhau về quyền lợi và nghĩa vụ trong mọi
lĩnh vực hoạt động cuả đời sống xã hội và được bảo đảm bằng Hiến pháp và pháp luật. Quyền
bình đẳng giữa các dân tộc, trước hết là quyền bình đẳng về chính trị, chống mọi biểu hiện chia
rẽ kỳ thị dân tộc, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, tự ty dân tộc,… Quyền bình đẳng về kinh
tế, đảm bảo sự bình đẳng trong quan hệ lợi ích giữa các dân tộc. Nhà nước có trách nhiệm giúp
các dân tộc có kinh tế chậm phát triển để cùng đạt được trình độ phát triển chung với các dân
tộc khác trong cả nước.
- Tôn trọng lợi ích, truyền thống văn hóa, ngôn ngữ, tập quán, tín ngưỡng của đồng bào các
dân tộc, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá của các dân tộc, làm phong phú và đa dạng nền
văn hoá Việt Nam thống nhất .
- Phát huy truyền thống đoàn kết và đấu tranh là quý báu của dân tộc, Đảng và Nhà nước ta
đã xác định đoàn kết dân tộc là một nguyên tắc cơ bản trong chính sách dân tộc xuyên suốt quá
trình cách mạng Việt Nam. Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các dân tộc đang phát huy
truyền thống đoàn kết tốt đẹp, cùng nhau xây dựng đất nước với mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng dân chủ văn minh và tiến bộ. Tất cả các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam
đều phải có trách nhiệm chăm lo, vun đắp, củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc theo
lời dạy của Bác Hồ kính yêu:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”.
- Bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, đồng thời giáo dục tinh thần đoàn kết
cho cán bộ các dân tộc.Bởi vì, chỉ tinh thần đó mới đòi hỏi khách quan của công cuộc phát triển
dân tộc và xây dựng đất nước.
Như vây, chính sách dân tộc của đảng và nhà nước ta mang tính toàn diện tổng hợp, phát
triển kinh tế xã hội là nền tảng để tăng cường đoàn kết và thực hiện quyền bình đẳng dân tộc, là
cơ sở để từng bước khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các dân tộc. Chính
sách dân tộc còn mang tính cách mạng và tiến bộ đồng thời còn mang tính nhân đạo,nó tôn
trọng quyền làm chủ của mỗi con người và quyền tự quyết của các dân tộc.mặt khác, nó nhằm
phát huy nội lực của mỗi dân tộc kết hợp với sự giúp đỡ của các dân tộc anh em trong cả nước.