logo

MÔI TRƯỜNG PHÁP LÝ TRONG KINH DOANH


MÔI TRƯỜNG PHÁP LÝ TRONG KINH DOANH Delta Publishing Company 1 Copyright © 2003 by DELTA PUBLISHING COMPANY P.O. Box 5332, Los Alamitos, CA 90721-5332 All rights reserved. No part of this course may be reproduced in any form or by any means, without permission in writing from the publisher. 2 MỤC LỤC Trang CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VỀ LUẬT VÀ HỆ THỐNG 4 LUẬT................................... CHƯƠNG 2: TỘI PHẠM HÌNH SỰ VÀ TRÁCH NHIỆM DÂN 7 SỰ.......................... CHƯƠNG 3: GIỚI THIỆU VỀ HỢP ĐỒNG VÀ CHÀO 8 HÀNG................................. CHƯƠNG 4: SỰ CHẤP NHẬN VÀ TÍNH XÁC THỰC CỦA SỰ ĐỒNG 10 Ý............. CHƯƠNG 5: VẬT ĐỐI 14 ỨNG........................................................................................ CHƯƠNG 6: NĂNG LỰC CỦA CÁC BÊN VÀ TÍNH KHÔNG HỢP 15 PHÁP............. CHƯƠNG 7: VĂN BẢN VÀ QUYỀN CỦA BÊN THỨ 20 BA........................................ CHƯƠNG 8: THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG VÀ NHỮNG CÁCH THỨC BỒI THƯỜNG THIỆT 21 HẠI............................................................................ CHƯƠNG 9: SỰ ĐẠI 23 DIỆN......................................................................................... CHƯƠNG 10: SỰ HỢP 25 DOANH.................................................................................. CHƯƠNG 11: TỔ CHỨC VÀ THÀNH LẬP CÔNG 26 TY............................................. CHƯƠNG 12: ĐIỀU HÀNH CÔNG 27 TY....................................................................... CHƯƠNG 13: CHỨNG KHOÁN CÔNG TY VÀ CÔNG TY NƯỚC 29 NGOÀI........... CHƯƠNG 14: QUYỀN LỢI VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA CỔ 30 ĐÔNG........................... CHƯƠNG 15: TÀI SẢN 31 RIÊNG................................................................................... CHƯƠNG 16: BẤT ĐỘNG 34 SẢN................................................................................... CHƯƠNG 17: MẪU, ĐIỀU KHOẢN, QUYỀN LỢI, VÀ RỦI 35 RO.............................. CHƯƠNG 18: TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ VỀ HÀNG 36 HÓA...................................... CHƯƠNG 19: THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG VÀ NHỮNG CÁCH THỨC BỒI 3 THƯỜNG THIỆT HẠI........................................................................ 37 CHƯƠNG 20: KHẢ NĂNG LƯU 38 THÔNG................................................................... CHƯƠNG 21: LƯU THÔNG VÀ NGƯỜI GIỮ PHIẾU HỢP 40 LỆ................................ CHƯƠNG 22:TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC BÊN; SÉC; CÁC CHỨNG TỪ SỞ 41 HỮU CHƯƠNG 23: GIAO DỊCH CÓ BẢO 42 ĐẢM................................................................. CHƯƠNG 24: SỰ PHÁ 44 SẢN......................................................................................... CHƯƠNG 25: MỐI QUAN HỆ KINH TẾ VÀ PHÁP 45 LUẬT....................................... 4 MÔI TRƯỜNG PHÁP LÝ TRONG KINH DOANH CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VỀ LUẬT VÀ HỆ THỐNG LUẬT Bản chất của Pháp Luật. Không thể tìm được một định nghĩa đơn lẻ nào về luật pháp mà có thể bao hàm hết được các khía cạnh cũng như tính chất hay thay đổi của nó. Hàng thế kỷ qua, các triết gia đã tranh luận rất nhiều về bản chất và các khái niệm liên quan đến Pháp luật. Mặc dù đã có rất nhiều các khái niệm về luật pháp nhưng đến nay vẫn còn rất nhiều người trăn trở về bản chất của nó. Có thể kể ra ít nhất bốn khái niệm cơ bản làm tiền đề hỗ trợ cho những người muốn nghiên cứu về hệ thống luật pháp của chúng ta. Các khái niệm cơ bản đó là: 1. LUẬT PHÁP LÀ QUAN NIỆM VỀ ĐÚNG SAI. Theo khái niệm này, có một tập hợp các quy tắc quan trọng và phổ biến về những gì được coi là đúng và sai. Ý thức đạo đức những điều đúng và sai có thể bắt nguồn từ chính con người hoặc từ những giá trị linh thiêng trong cuộc sống của họ. 2. LUẬT PHÁP LÀ THÓI QUEN. Theo khái niệm này, luật pháp là tập hợp các phong tục và các thói quen của một xã hội, nó phản ánh sự tương tác trong môi trường sống của xã hội đó. 3. LUẬT PHÁP LÀ MỆNH LỆNH. Theo khái niệm này, luật pháp là các quy định do chính quyền đưa ra và bắt buộc phải tuân theo thông qua các hình phạt. 4. LUẬT PHÁP LÀ PHƯƠNG TIỆN ĐIỀU HÀNH XÃ HỘI. Theo khái niệm này, luật pháp được coi là một phương tiện để điều hành xã hội nhằm điều hoà các giá trị và các lợi ích mâu thuẫn và đối kháng nhau trong một xã hội. Tuỳ theo các quan điểm khác nhau về Luật pháp mà các trường học có các mức độ chú trọng khác nhau về các khái niệm cơ bản trên. Những trường luật cơ bản thì chú trọng đến khái niệm Luật pháp là quan điểm về đúng sai. Các trường về lịch sử lại nhấn mạnh đến các phong tục và thói quen trong khi các trường theo quan điểm chứng thực học lại ủng hộ khái niệm Luật pháp là mệnh lệnh. Các trường chú trọng đến khái niệm coi Luật pháp là phương tiện điều hành xã hội là những trường luật theo quan điểm xã hội học. Một nhóm các trường khác được gọi là các trường theo trường phái Luật hiện thực thì lại phản đối và cho rằng không bao giờ tìm được khái niệm hay tập hợp các khái niệm có thể định nghĩa được Luật pháp vì nó là một quá trình năng động và hay biến đổi. HỆ THỐNG TOÀ ÁN LIÊN BANG. Hiến pháp của Hợp chủng quốc Hoa kỳ có quy định về việc thành lập nên Toà án tối cao và trao cho nó những thẩm quyền 5 nhất định xét xử các vụ án sơ thẩm và phúc thẩm. Hiến pháp cũng trao quyền cho Quốc hội thiết lập nên một hệ thống các toà án cấp dưới. Nhìn chung, các toà án Liên bang này có thẩm quyền xét xử các vụ án ảnh hưởng trực tiếp đến Chính quyền Liên bang, các vụ án có tính liên bang và các vụ án giữa công dân của các bang hoặc giữa công dân của một bang với một bên nước ngoài khi có số tiền tranh chấp trên 10.000 đôla Mỹ. Hệ thống Toà án Liên bang bao gồm: Toà án tối cao: Toà án tối cao có thẩm quyền xét xử chính với các vụ án mà các tiểu bang, các Bộ trưởng, hay các đại diện ngoại giao là một bên đương sự. Toà án tối cao cũng có thẩm quyền xét xử phúc thẩm cuối cùng với các vụ án được đưa lên từ các Toà án Liên bang cấp dưới và các vụ án yêu cầu được phúc thẩm từ các toà án tiểu bang có liên quan đến việc giải thích Hiến pháp và Luật pháp Liên bang. Đã thành một quy định chung là không phải vụ án nào cũng được đưa ra xét xử phúc thẩm tại đây, Toà án tối cao có quyền quyết định việc có hay không thụ lý hồ sơ xin phúc thẩm của bất kỳ vụ án nào. Toà phúc thẩm: Thẩm phán của Toà phúc thẩm thường được lập thành các ban gồm ba người để xét xử lại các tranh chấp được đưa lên từ các Toà sơ thẩm Quận hoặc từ các toà hành chính khác. Toà phúc thẩm không có chức năng xét xử các vụ án sơ thẩm. Toà sơ thẩm Quận: Trong hệ thống Toà án Liên bang, Toà sơ thẩm Quận là toà án chỉ có chức năng xét xử sơ thẩm. Các Toà sơ thẩm Quận có thẩm quyền xét xử các vụ khiếu kiện liên quan đến chính quyền Hoa kỳ khi số tiền đòi bồi thường không quá 10.000 đôla Mỹ. Trong trường hợp cần ra lệnh thực thi một đạo luật của Chính quyền Liên bang, một phiên toà gồm 3 vị thẩm phán sẽ được thành lập. Các biệt phái viên của Toà phá sản, Toà Công lý và các Uỷ viên hội đồng địa phương sẽ được gửi xuống Toà sơ thẩm Quận và là một bộ phận ở đây. Những người này sẽ thực hiện các chức năng khác nhau của mình. Toà khiếu tố: Toà khiếu tố cũng là một toà có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ khiếu nại chống lại chính phủ Hoa kỳ. Nếu số tiền đòi bồi thường không quá 10.000 đôla Mỹ, thì vụ kiện có thể được đưa ra Toà khiếu tố hoặc Toà sơ thẩm Quận. Kháng cáo đối với các quyết định của Toà khiếu tố sẽ được chuyển thẳng lên Toà án tối cao. Toà phúc thẩm về Thuế quan và Quyền sở hữu công nghiệp: Toà này có chức năng tiếp nhận các kháng cáo từ Toà sơ thẩm về Thuế quan và kháng cáo đối với các quyết định của các cơ quan hành chính về Quyền sở hữu công nghiệp. Quyền phúc thẩm lại các quyết định của Toà này thuộc về Toà án Tối cao. 6 Toà sơ thẩm về Thuế quan: Toà sơ thẩm về Thuế quan nằm ngay tại cảng NewYork. Toà này có thẩm quyền xét xử sơ thẩm đối với các khiếu nại liên quan đến Thuế nhập khẩu. Toà phúc thẩm về Thuế và Quân pháp: Các toà này có chức năng gần giống như một cơ quan luật pháp với những quyền hạn pháp lý nhất định. Các cơ quan hành chính Liên bang: Các cơ quan hành chính Liên bang nằm ngoài hệ thống toà án thông thường nhưng trong nhiều trường hợp họ lại có những quyền hạn pháp lý nhất định. Các cơ quan này có đầy đủ các chức năng điều tra, công tố và xét xử trong phạm vi hoạt động được pháp luật cho phép. Về lý thuyết, các cơ quan này có chuyên môn sâu về lĩnh vực họ quản lý và có thể giải quyết các vấn đề xảy ra trong lĩnh vực của mình một cách linh hoạt và nhanh chóng. Các cơ quan hành chính Liên bang có thể kể đến là Uỷ ban Thương mại Liên bang, Uỷ ban Chứng khoán và Giao dịch, Uỷ ban Điều tiết Năng lượng hạt nhân, Uỷ ban Thương mại giữa các tiểu bang, Cục Quan hệ Lao động Quốc gia và Uỷ ban Thông tin Liên bang Hệ thống toà án tiểu bang: Mặc dù mỗi tiểu bang đều có một hệ thống toà án của riêng mình nhưng các đặc điểm cơ bản của các hệ thống này đều có xu hướng giống nhau. Tất cả các bang đều có một hệ thống các toà án cấp dưới. Ví dụ như các toà hoà giải, toà vi cảnh, toà giao thông hay toà án hạt và các toà án giải quyết các khiếu kiện nhỏ khác, chúng đều có đặc điểm chung là thẩm quyền xét xử hạn chế và đều được coi là những toà mà chứng thư chỉ có tín lực khi có bằng chứng ngược lại. Bên cạnh đó cũng có một hệ thống các toà án có thẩm quyền xét xử tổng quát hoặc chuyên biệt, ví dụ như các toà lưu động, toà hình sự, toà dân sự, toà án dành cho vị thành niên phạm pháp và toà án chứng cứ…đó là những toà án mà chứng thư có tín lực cho đến khi có đăng cáo giả mạo. Tất cả các tiểu bang đều có một số các toà phúc thẩm. Các bang đông dân thường có thêm các toà phúc thẩm trung gian và tất cả các bang đều có toà chung thẩm. Quyền được kháng cáo lên toà phúc thẩm là quyền lợi của các bên liên quan chứ không phải là đặcquyền của bất kỳ bên nào cả 7 CHƯƠNG 2: TỘI PHẠM HÌNH SỰ VÀ TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ Trách nhiệm dân sự: Theo luật Anh-Mỹ, khi một người được coi là có nghĩa vụ với những người khác thì ngoài việc anh ta không được có những hành vi cố ý gây hại cho những người đó và tài sản của họ, anh ta còn phải thể hiện sự cẩn trọng thích đáng trong hành động của mình nhằm tránh những tổn hại có thể lường trước được do những hành vi vô ý của mình gây ra. Nếu một người gây tổn hại cho ai đó hoặc tài sản của họ do không thực hiện đúng các nghĩa vụ của mình thì người có lỗi đó phải có trách nhiệm bồi thường những tổn thất do anh ta gây ra trừ khi anh ta có thể chứng minh được là mình được miễn trách hoặc anh ta đã hành động vì lợi ích chung của xã hội. Một sự vi phạm bổn phận xã hội được coi là trách nhiệm dân sự. Trách nhiệm dân sự thường được chia thành các lỗi vi phạm cố ý và vi phạm vô ý. Các vi phạm cố ý lại được chia thành lỗi vi phạm cố ý với người và lỗi vi phạm cố ý với tài sản. Sự vi phạm cố ý đối với quyền sở hữu: Sự vi phạm cố ý đối với quyền sở hữu bao gồm sự xâm phạm đất đai, xâm phạm tài sản cá nhân, biển thủ và lừa gạt. Xâm phạm quyền sở hữu đối với đất đai của người khác, ví dụ như tiến vào đất của người khác, chôn dấu hoặc để lại những vật thể ở đó mà không được phép của người chủ sở hữu sẽ bị coi là một sự xâm phạm mà có thể phải bồi thường thiệt hại. Thậm chí khi không đưa ra được số tiền bồi thường thực tế thì bên xâm phạm vẫn phải trả một khoản bồi thường tượng trưng. Và nếu vẫn cứ tiếp tục, toà án sẽ ra lệnh đình chỉ hoặc cưỡng chế di dời thực tế. Tương tự như vậy, sự xâm phạm cố ý đối với quyền sở hữu tài sản cá nhân cũng có thể bị coi là sự xâm hại phải được bồi thường cho bất kỳ thiệt hại nào gây ra. Kiểu xâm phạm có chủ ý đối với quyền sở hữu tài sản phổ biến nhất là biển thủ. Biển thủ là hành vi chiếm hữu bất hợp pháp hoặc tự biến thành của riêng một tài sản thuộc sở hữu của người khác. Một người lấy cắp tài sản của một người khác, sau đó chuyển đổi và bán nó cho một người thứ ba thì người thứ ba này sẽ không bị coi là người cầm giữ tài sản bất hợp pháp nhưng người đã bán tài sản này sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường cho người chủ sở hữu tài sản thực tế về những tổn hại do anh ta gây ra. Số tiền bồi thường sẽ được xác định dựa trên giá trị hợp lý của tài sản đã chuyển đổi. Trách nhiệm dân sự về sự lừa gạt: Một người có được một lợi thế kinh tế không chính đáng so với một người khác đều có thể bị coi là sự lừa gạt. Có năm yếu tố căn bản để đòi bồi thường thiệt hại do hành vi lừa gạt gây ra bao gồm: (1) Xuyên tạc sự thật, (2) Sự việc được tạo ra một cách cố ý hoặc do khinh xuất, (3) Chủ ý đánh lừa và có hành vi xui khiến, (4) Nó được dựa trên những lý lẽ chính đáng và (5) Nó gây tổn hại 8 9 CHƯƠNG 3: GIỚI THIỆU VỀ HỢP ĐỒNG VÀ CHÀO HÀNG Phân loại hợp đồng: Dựa vào đặc điểm, hợp đồng có thể được chia thành nhiều loại; Song các cách phân loại hợp đồng này không hoàn toàn triệt để mà cùng một hợp đồng có thể đưa vào loại này hoặc loại khác tuỳ thuộc vào các đặc điểm được quyết định bởi mục đích phân loại. Hợp đồng có thể là đơn phương hoặc song phương. Hợp đồng đơn phương là hợp đồng mà trong đó chỉ có một bên đưa ra cam kết, trong khi hợp đồng song phương là hợp đồng mà các bên đều phải thể hiện cam kết của mình. Một ví dụ về hợp đồng đơn phương là A chuyển cho B một chiếc rađiô và B cam kết sẽ trả cho A 15 đôla vào tuần sau. Còn ở hợp đồng song phương, C cam kết sẽ trả cho D 10 đôla vào tuần sau để đổi lại lời hứa của D sẽ may một bộ đồ cho C. Hợp đồng cũng có thể là loại có hiệu lực, vô hiệu lực, có thể mất hiệu lực hoặc là loại không thực hiện được. Một hợp đồng có hiệu lực là một giao kèo thoả mãn đầy đủ các yêu cầu pháp lý cho một hợp đồng và sẽ bị buộc phải thi hành. Một hợp đồng không thực hiện được là một giao kèo nói chung thoả mãn các yêu cầu cơ bản của một hợp đồng có hiệu lực nhưng lại bị cấm thực hiện bởi một văn bản hay một quy định pháp luật nào đó. Ví dụ, theo Luật Thương mại thông nhất (UCC), các hợp đồng mua bán hàng hoá có giá trị trên 500 đôla phải được thể hiện bằng văn bản. Hợp đồng có thể mất hiệu lực là một hợp đồng trói buộc một bên tham gia vào giao dịch nhưng lại cho phép một bên thứ hai có quyền tuỳ chọn hoặc có thể đơn phương rút khỏi hợp đồng hoặc tiếp tục thực hiện các quy định theo hợp đồng. Hợp đồng vô hiệu là một hợp đồng không có hiệu lực pháp lý và thực chất không có giá trị như một hợp đồng. Ví dụ ở một số tiểu bang, khế ước cá cược hay giấy ghi nợ cờ bạc đều bị coi là không có giá trị và không được công nhận trước toà. Một hợp đồng chỉ được coi là đã được thực hiện khi tất cả các bên liên quan đều đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình theo hợp đồng. Hợp đồng cũng có thể thuộc loại được quy định rõ ràng hoặc mặc nhiên. Hợp đồng được quy định rõ ràng là một hợp đồng mà tất cả các điều kiện, điều khoản và trách nhiệm các bên đều được ghi rõ thành văn bản; trong khi ở hợp đồng mặc nhiên, các điều khoản cơ bản này có thể không được thể hiện thành văn bản nhưng lại được quyết định bởi hoàn cảnh, cách diễn đạt chung hay đạo đức kinh doanh của các bên. Chấm dứt chào hàng: Một khi đã được đưa ra, một lời chào hàng đã trao cho người được chào quyền được ký kết hợp đồng bằng việc chấp nhận nó. Nhưng chào hàng không phải là có giá trị vô thời hạn; Nó sẽ chấm dứt hiệu lực trong các trường hợp sau đây: (1) bởi một điều khoản được quy định ngay trong bản chào hàng, (2) hết hạn hiệu lực trong một khoảng thời gian hợp lý, (3) bằng sự huỷ bỏ, (4) bằng sự từ chối, (5) người chào hàng hay người được chào hàng chết hoặc mất khả năng tư duy, (6) đối tượng được chào hàng bị tiêu huỷ, hoặc (7) việc thực hiện hợp đồng dự kiến sẽ dẫn đến vi phạm pháp luật. Nếu chào hàng quy định nó phải được chấp nhận trong một khoảng thời gian nhất định thì nó phải được chấp nhận trong khoảng thời gian đó; Một chấp nhận muộn 10 sẽ không có giá trị ràng buộc người chào hàng trừ khi anh ta đồng ý với chấp nhận đó. Nếu chào hàng không quy định thời gian chấp nhận thì việc chấp nhận sẽ vẫn có hiệu lực trong một khoảng thời gian hợp lý. Việc xác định thế nào là khoảng thời gian hợp lý sẽ phụ thuộc vào từng trường hợp và hoàn cảnh cụ thể. Trong điều kiện giá cả thị trường thay đổi liên tục, thì khoảng thời gian được coi là hợp lý thường rất ngắn. Thông thường, người chào hàng có quyền huỷ bỏ chào hàng bất kỳ lúc nào trước khi nó được chấp nhận. Nhưng nếu chào hàng quy định nó có giá trị trong một khoảng thời gian nào đó thì người chào hàng không thể huỷ bỏ nó được. Cũng như vậy, nếu người chào hàng biết được hoặc có lý do nào biết được người được chào hàng sẽ thay đổi ý kiến của mình về chào hàng, thì bản chào hàng vẫn không thể bị huỷ bỏ theo quan điểm của thuyết giữ lời hứa (sẽ được bàn ở những chương sau) cho dù người được chào hàng thực chất đã thay đổi ý kiến của mình với bản chào hàng đó. Nếu người chào hàng muốn huỷ bản chào hàng, anh ta phải thông báo việc huỷ bỏ đến người được chào hàng. Ở phần lớn các tiểu bang việc huỷ bỏ chào hàng chỉ có hiệu lực khi người được chào hàng đã thực sự nhận được thông báo huỷ bỏ này. Các chào hàng công khai như những lời hứa thưởng hay quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng chỉ có thể được huỷ bỏ theo đúng cách nó được đưa ra. Nếu chào hàng được đưa ra để ký hợp đồng đơn phương thì chấp nhận chào hàng phải thực hiện như được yêu cầu. Với chào hàng loại này việc huỷ bỏ thường không có hiệu lực nếu như vào thời điểm đưa ra huỷ bỏ người được chào hàng đã bắt đầu thực hiện hợp đồng và kết thúc việc thực hiện hợp đồng của mình trong một khoảng thời gian hợp lý. Nếu người được chào hàng từ chối chào hàng thì chào hàng đó sẽ bị huỷ ngay lập tức, mọi cố gắng để chấp nhận lại chào hàng này đều vô hiệu. Việc hoàn giá hoặc chấp nhận có điều kiện đều bị coi là từ chối chào hàng ban đầu. Thế nhưng, một yêu cầu giải thích thêm về các điều khoản trong chào hàng sẽ không bị coi là một sự hoàn giá và không làm chấm dứt chào hàng. Nếu người chào hàng hoặc người được chào hàng chết hoặc không có năng lực pháp lý (ví dụ như bị mất trí nhớ) thì chào hàng sẽ tự động chấm dứt mà không bên nào có lỗi cả, điều này cũng tương tự như là khi đối tượng chào hàng bị tiêu huỷ. Hơn nữa, nếu trước khi chấp nhận mà có một đạo luật được đưa ra quy định việc thực hiện hợp đồng là trái pháp luật thì chào hàng cũng tự động chấm dứt. 11 CHƯƠNG 4: SỰ CHẤP NHẬN VÀ TÍNH XÁC THỰC CỦA SỰ ĐỒNG Ý Chấp nhận: Hợp đồng là sự thoả thuận của các bên, vì thế điều kiện tiên quyết để đi đến một hợp đồng là người được chào hàng phải thể hiện sự tự nguyện ràng buộc vào các điều kiện của chào hàng, đây chính là sự chấp nhận. Theo Thông luật, sự chấp nhận chỉ hợp lệ khi nó phù hợp với tất cả các chi tiết đưa ra trong chào hàng; Một chấp nhận có tính yêu cầu là một chấp nhận không phù hợp, nó không có giá trị gì hơn một sự hoàn giá hay một chấp nhận có điều kiện và nó mong muốn phía bên kia chấp nhận lại các yêu cầu mới để đi đến ký kết hợp đồng. Nếu chào hàng yêu cầu một cam kết bằng hành động (với hợp đồng đơn phương) thì chấp nhận chỉ có giá trị khi hành động đó được thực hiện. Nhưng trong một số trường hợp, khi mà người được chào hàng bắt đầu thực hiện hợp đồng thì chào hàng không thể bị huỷ ngang trước khi người đó đã có một khoảng thời gian hợp lý để thực hiện hợp đồng. Nếu một sự cam kết được yêu cầu để trao đổi lại với một sự cam kết ( như với hợp đồng song phương) thì chào hàng được chấp nhận bằng cách thực hiện sự cam kết đã được yêu cầu. Khi các bên liên quan đã đi đến một thoả thuận và đồng ý chuyển nó thành văn bản, sau đó một bản giao kèo được lập ra và thậm chí có thể có một vài điểm bất đồng giữa các bên về các điều khoản của bản giao kèo này thì điều này cũng sẽ không làm thay đổi được một thực tế là sẽ không có hợp đồng nào được ký kết trừ khi nó được làm thành văn bản và có sự đồng thuận của cả hai bên. Một bên sẽ không bị ràng buộc vào hợp đồng nếu như anh ta không thể hiện sự đồng thuận của mình một cách rõ ràng hay mặc nhiên. Như vậy, sự im lặng trước một chào hàng không được coi là sự đồng ý trừ khi: (1) có bằng chứng chứng tỏ sự im lặng đó là có chủ ý chấp nhận chào hàng, hoặc (2) các trường hợp hay các giao dịch trước đó đã bắt buộc người được chào hàng phải có trách nhiệm hồi âm khi không chấp nhận chào hàng. Các trường hợp này có thể bao gồm tình huống người được chào hàng được hưởng một lợi ích nào đó khi chấp nhận chào hàng với điều kiện là các ưu đãi này phải được nêu rõ chúng không phải là món quà và người được chào hàng phải biết rõ điều đó. Người được chào hàng cũng cần thiết phải biết về loại hợp đồng sẽ được giao kết khi chấp nhận chào hàng, ví dụ trong hợp đồng đơn phương thì việc chấp nhận chào hàng phải được thể hiện bằng một hành động theo yêu cầu của chào hàng. Đôi khi toà án cũng chấp nhận những ngoại lệ trong các vụ kiện liên quan đến phần thưởng và cho phép một người được lĩnh thưởng sau khi đã thực hiện các hành động được yêu cầu ngay cả khi anh ta không biết mình làm vậy sẽ được nhận thưởng. Tính xác thực của sự đồng ý: Thông tin sai lạc. Để một hợp đồng có hiệu lực pháp lý, nó phải được ký kết một cách trung thực, ngay thẳng và tự nguyện; một bản chào hàng hay một sự chấp nhận bị thuyết phục đưa ra bởi những thông tin sai lạc vô hại hay do bị lừa gạt sẽ không có giá trị ràng buộc người bị thuyết phục để đưa ra chào hàng hay sự chấp 12 nhận đó. Thông tin sai lạc là việc tạo ra một ấn tượng trong tâm trí của người khác mà điều đó không phù hợp với những sự việc có thật trong hoàn cảnh thực tế . Thông tin sai lạc về một sự việc quan trọng mà cái người đã tiếp nhận nó lại có sự tin cậy một cách chính đáng vào nó sẽ là những cơ sở cho việc tránh khỏi một cam kết bằng hợp đồng. Cho dù người đưa ra thông tin sai lạc có biết hay là không biết điều đó là giả dối thì vẫn không ảnh hưởng tới tính chất mất hiệu lực của bản hợp đồng đó. Thông tin sai lạc phải là về một sự việc quan trọng, tức là sự việc đó phải là một yếu tố thích hợp hoặc có đóng góp vào quyết định ký kết hợp đồng, và hoàn cảnh thực tế phải là hoàn cảnh mà trong đó có thể giả định rằng hợp đồng sẽ không được ký kết nếu người đó đã biết được sự thật. Thông tin sai lạc phải là về một sự việc đã hoặc đang xẩy ra; một sự dự đoán về một sự việc sẽ xẩy ra trong tương lai thì không thuộc phạm vi qui định về thông tin sai lạc. Hơn nữa, để có quyền đòi bồi thường thiệt hại do thông tin sai lạc, bên đòi bồi thường phải chứng minh là mình hoàn toàn tin tưởng vào các thông tin sai lạc đó . Anh ta hay chị ta phải không được biết là những thông tin đó là giả dối và cũng không ở trong một vị thế mà theo kiến thức và kinh nghiệm của anh ta hay chị ta và trên cơ sở của sự việc và hoàn cảnh anh ta hay chị ta đáng nhẽ ra phải phát hiện ra sự giả dối đó. Biện pháp khắc phục thiệt hại được dành cho người đã tiếp nhận thông tin sai lạc là sự bãi bỏ hợp đồng - tức là anh ta hay chị ta có thể hoàn trả lại những gì mà họ đã nhận và thu hồi lại những gì mà họ đã đưa ra, hoặc giá trị của nó. Để có quyền đối với biện pháp này, anh ta hay chị ta phải tiến hành thực hiện sự bãi bỏ hợp đồng trong một khoảng thời gian hợp lý sau khi đã biết được về những thông tin sai lạc. Sự lừa gạt. Sự lừa gạt là việc cố ý đưa ra những thông tin sai lạc nhằm mục đích thuyết phục người khác tin tưởng vào nó và từ bỏ một quyền lợi pháp lý hay một phần tài sản; như vậy thì sự lừa gạt thực chất là một sự cố ý.thông tin sai lạc. Một khi sự lừa gạt thực sự đã được xác định, bên bị tổn hại, tức là người đã tin tưởng một cách chính đáng vào những tuyên bố giả dối đó, có quyền lựa chọn các biện pháp bồi thường thiệt hại. Anh ta hay chị ta có thể có quyền bãi bỏ hợp đồng như họ có thể làm trong trường hợp bị thông tin sai lạc, hoặc anh ta hay chị ta có thể xác nhận hợp đồng và khởi kiện trách nhiệm dân sự về tội lừa gạt , nó sẽ cho phép họ được bồi thường về những tổn thất đã phải chịu. Cũng tương tự như trường hợp thông tin sai lạc, người bị lừa gạt phải thực hiện hành động trong một khoảng thời gian hợp lý sau khi đã phát hiện ra sự lừa gạt đó nhằm bảo vệ những quyền lợi của mình. Sự ép buộc và áp lực trái phép. Các hợp đồng được ký kết dưới sự ép buộc hoặc áp lực trái phép thì đều vô hiệu. Sự ép buộc là việc thực hiện những sự thúc ép bất hợp pháp nào đó với một người mà vì vậy người này bị buộc phải thực hiện một hành động mà nếu không anh ta sẽ không làm thế. Theo luật hợp đồng, sự ép buộc có nghĩa là việc dùng những sự đe doạ làm tổn hại về mặt thể xác hoặc những tổn hại khác để đánh bại ý chí tự do của một người nào đó và thuyết phục người đó phải đi đến ký kết hợp đồng do sợ hãi hoặc bị ép buộc. Theo những giải thích gần 13 đây, sự ép buộc bao gồm những sự đe doạ gây tổn hại về thân thể , những sự đe doạ sử dụng những hành động tội phạm nhằm đoạt được lợi thế mà kẻ đe doạ không có quyền được hưởng một cách hợp pháp, và việc cầm giữ một cách phi lý hàng hóa của một người khác nhằm mục đích buộc người này phải trả một cái giá bất hợp lý. Một sự đe doạ dẫn đến một vụ kiện dân sự thì không được coi là sự ép buộc trừ phi nó dẫn đến việc lạm dụng quyền tố tụng dân sự hoặc trừ phi nó được dựa trên một khiếu kiện vô căn cứ và kẻ đưa ra lời đe doạ đã biết rõ là do vị thế tài chính của người khác đó mà vụ kiện sẽ chỉ có thể gây ra những tổn thất nghiêm trọng về mặt tài chính cho người đó. Áp lực trái phép là việc sử dụng một mối quan hệ tin cẩn, trong đó một người chịu trách nhiệm trước một người khác để trông nom quyền lợi của người khác nhưng người chịu trách nhiệm đó đã lợi dụng vị thế đó để làm lợi cho bản thân với chi phí của người kia. Với việc công nhận những hợp đồng như vậy là không có hiệu lực pháp lý, toà án đã bảo vệ nhằm chống lại những hợp đồng không chính đáng, là những hợp đồng đi ngược lại với lương tâm con người và là những hợp đồng đạt được thông qua sự lợi dụng một vị thế tin cẩn . Sự nhầm lẫn. Trong một số tình huống, một bên có thể được giải phóng khỏi các trách nhiệm của hợp đồng nếu có bằng chứng về sự nhầm lẫn. Khái niệm nhầm lẫn trong hoàn cảnh này không phải là sự thiếu hiểu biết, thiếu năng lực hay đánh giá sai lầm; cũng không phải được sử dụng để một bên có quyền rút khỏi hợp đồng nếu thấy mình bị hớ. Nhầm lẫn để có thể dẫn đến việc rút khỏi hợp đồng phải là kết quả của một sự mập mờ trong đàm phán về hợp đồng đó hoặc phải là sự nhầm lẫn về một sự việc quan trọng mà nó đã dẫn tới việc ký kết hợp đồng Nếu trong quá trình đàm phán hợp đồng, các bên đã sử dụng ngôn ngữ dẫn tới có nhiều cách hiểu khác nhau, và một bên đã thành thật đưa ra một cách hiểu trong khi một bên khác lại đưa ra một cách hiểu khác, thì khi đó toà án thường sẽ quyết định rằng sẽ không có hợp đồng nào được ký kết do bởi đã không có sự tâm đầu ý hợp hay không có sự đồng thuận Khi có sự nhầm lẫn về việc có hay không có một sự việc trọng đại trong hiện tại hay trong quá khứ, thì tuỳ vào những sự việc của hoàn cảnh cụ thể đó mà toà án có thể cho phép hoặc có thể không cho phép rút lui khỏi các trách nhiệm của hợp đồng. Nếu cả hai bên cùng hiểu sai về việc có hay không có sự việc quan trọng đó, thì điều này được hiểu là nhầm lẫn cùng nhau và đó chính là cơ sở để bãi bỏ hợp đồng. Nếu chỉ có một bên nhầm lẫn thì sự nhầm lẫn đó là đơn phương và hợp đồng có thể vẫn có hiệu lực hoặc cũng có thể không. Nếu một bên nhận ra rằng phía bên kia đang có nhầm lẫn và lợi dụng điều đó để có lợi thế cho mình thì hợp đồng sẽ bị huỷ. Trong khi sự bất cẩn của một bên tạo ra sự nhầm lẫn thường không được dùng làm lý do để được phép rút khỏi hợp đồng, thì sẽ được phép rút khỏi hợp đồng khi sự bất cẩn là không đáng kể, khi việc thực hiện hợp đồng sẽ buộc người bị nhầm 14 lẫn phải gắng sức một cách quá đáng và khi việc rút khỏi hợp đồng sẽ không gây nên những thiệt hại quan trọng cho phía bên kia. Việc giải thoát khỏi trách nhiệm hợp đồng cũng có thể được cho phép nhằm sửa đổi lại một văn bản có chứa đựng một sự nhầm lẫn và không xác định ra được một cách chính xác sự thoả thuận lẫn nhau giữa các bên. Một sự nhầm lẫn về quyền lợi pháp lý của một người nào đó theo hợp đồng thường không phải là những cơ sở đầy đủ để cho phép rút khỏi hợp đồng, bởi vì sự thiếu hiểu biết về pháp luật không được coi là có thể tha thứ được. 15 CHƯƠNG 5: VẬT ĐỐI ỨNG Trừ một vài trường hợp ngoại lệ, một sự cam kết sẽ không được toà án công nhận là có hiệu lực tri phi nó được chứng minh bằng một vật đối ứng. Vật đối ứng thường được định nghĩa hoặc là một lợi ích cho người cam kết hoặc là một thiệt hại đối với người được cam kết, nó được tính toán và đưa ra để đổi lấy sự cam kết đó. Sự thiệt hại đó phải là một dạng thiệt hại pháp lý đặc biệt -điều này có nghĩa là từ bỏ một quyền lợi pháp lý hay phải đảm đương một gánh nặng pháp lý. Nó không nhất thiết phải có bất kỳ một giá trị kinh tế nào. Thiệt hại này đối với người được cam kết thường đem lại một lợi ích cho người cam kết, cho dù một thiệt hại không đi cùng với một lợi ích tương ứng thì vẫn được coi là đã cấu thành một vật đối ứng. Tuy nhiên, một lợi ích ít ỏi đối với người cam kết mà không đi cùng với một thiệt hại tương ứng cho người được cam kết sẽ không cấu thành nên một vật đối ứng. 16 CHƯƠNG 6: NĂNG LỰC CỦA CÁC BÊN VÀ TÍNH KHÔNG HỢP PHÁP Năng lực. Năng lực là khả năng thực hiện những hành vi có giá trị pháp lý; tức là khả năng gánh chịu các trách nhiệm pháp lý hoặc có được các quyền lợi pháp lý. Để có được một hợp đồng có giá trị pháp lý, đòi hỏi phải có hai đối tác của hợp đồng – người cam kết và người được cam kết. Cùng một người sẽ không thể thực hiện được cả hai năng lực này. Tất nhiên sẽ có thể có nhiều hơn một người cam kết và nhiều hơn một người được cam kết vì không có giới hạn pháp lý về số lượng các bên tham gia hợp đồng. Tất cả mọi người đều được coi là có năng lực tham gia ký kết hợp đồng, và nếu một người muốn bảo vệ mình khỏi một vụ kiện cáo dựa trên một hợp đồng được vin vào những lý do là anh ta hay chị ta không có năng lực tham gia ký kết hợp đồng, thì anh ta hay chị ta phải đưa ra sự biện hộ một cách khẳng định trong việc đáp lại đơn kiện đó. Hợp đồng của những người vị thành niên. Luật pháp sẽ thực hiện một sự bảo vệ đặc biệt đối với người vị thành niên là những người thường được pháp luật xác định rõ là những người dưới 21 tuổi ở một số tiểu bang và dưới 18 tuổi ở các tiểu bang khác. Sự bảo vệ này được đưa ra bằng việc cho phép người vị thành niên có quyền huỷ bỏ hợp đồng mà họ đã ký kết. Hợp đồng do người vị thành niên ký kết sẽ có giá trị ràng buộc cả người vị thành niên lẫn người đã thành niên trừ phi người vị thành niên đó thực hiện quyền huỷ bỏ hợp đồng của mình; do vậy hợp đồng của những người vị thành niên không phải là không có giá trị pháp lý nhưng sẽ không có giá trị tuỳ thuộc vào sự lựa chọn của người vị thành niên. Nếu người vị thành niên lựa chọn sẽ thực hiện hợp đồng thì khi đó mối quan hệ giữa hai bên sẽ giống như là giữa hai bên có cùng năng lực thực hiện hợp đồng. Nhìn chung, người vị thành niên có thể huỷ bỏ những hợp đồng hoạt động kinh doanh của họ cho dù hoạt động kinh doanh đó được thực hiện như là một phương tiện tự kiếm sống của họ. Các quy định của Thông Luật liên quan đến các hợp đồng của người vị thanh niên ở một mức độ nào đó đã được điều chỉnh bởi các đạo luật do chính quyền ban hành và đã có một số điểm khác nhau giữa các tiểu bang về phạm vi và các điều khoản của những đạo luật này. Người vị thành niên có thể trở thành hội viên của các tổ chức hợp doanh và sau đó họ có thể huỷ bỏ sự thoả thuận hợp doanh mà không phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý đối với các hội viên khác về việc vi phạm sự thoả thuận đó. Một hội viên vị thành niên có thể huỷ bỏ trách nhiệm pháp lý cá nhân của họ đối với các chủ nợ của tổ chức hợp doanh, nhưng họ có thể không được rút vốn hợp doanh của họ đối với sự thiệt hại của các chủ nợ đó. Người vị thành niên phải có trách nhiệm về những chi phí hợp lý cho các đồ dùng thiết yếu của bản thân họ; trách nhiệm này dựa trên một sự cam kết được coi gần như là hợp đồng và không dựa trên bất kỳ một sự cam kết chi trả rõ ràng nào. Các đồ dùng thiết yếu là những thứ cần thiết để người vị thành niên duy trì sự tồn tại 17 và những phúc lợi thông thường và nói chung là những thứ như thức ăn, quần áo, chỗ ở, chăm sóc y tế, giáo dục cơ bản hay đào tạo hướng nghiệp và các dụng cụ nghề nghiệp. Thành phần xã hội mà người vị thành niên được sinh ra sẽ có ảnh hưởng đến cái sẽ được coi là những đồ dùng thiết yếu cho người vị thành niên đó. Người vị thành niên sẽ chỉ chịu trách nhiệm về những khoản chi phí hợp lý cho các đồ dùng thiết yếu đã thực sự được dành cho họ, và sẽ không phải chịu trách nhiệm về những thứ cần dùng nếu họ đã được cha mẹ hay người bảo hộ cung cấp một cách đầy đủ cho họ. Một người vị thành niên hoàn toàn có quyền huỷ bỏ các hợp đồng đã được thực hiện của mình- ngoại trừ các hợp đồng có ảnh hưởng đến quyền sở hữu đối với bất động sản. Quyền này có thể được thực hiện bất kỳ lúc nào kể từ khi hợp đồng có hiệu lực cho đến một thời điểm hợp lý sau khi người vị thành niên đã đến tuổi trưởng thành; các hợp đồng có ảnh hưởng đến quyền sở hữu đối với bất động sản sẽ không thể bị huỷ bỏ trong suốt thời gian vị thành niên nhưng chỉ trong một khoảng thời gian hợp lý sau khi đã đến tuổi trưởng thành Người vị thành niên phải có trách nhiệm với hợp đồng đã ký cho đến khi anh ta yêu cầu huỷ bỏ nó, nếu không làm vậy trong một khoảng thời gian hợp lý sau khi đã đến tuổi trưởng thành thì anh ta bị coi là đã chối từ quyền huỷ bỏ hợp đồng của mình. Quyền từ bỏ hợp đồng là vô điều kiện dựa trên khả năng hoàn trả bất kỳ giá trị đảm bảo đã nhận nào, nhưng để tránh việc quyền huỷ bỏ hợp đồng bị lạm dụng như một phương tiện để lừa gạt, người vị thành niên thường phải hoàn trả bất kỳ giá trị đảm bảo nào mà hiện anh ta vẫn đang còn giữ. Người vị thành niên có quyền đòi lại bất kỳ giá trị đảm bảo nào đã giao cho phía người trưởng thành sau khi đã huỷ hợp đồng. Ở hầu hết các tiểu bang, nếu người vị thành niên man khai tuổi của mình với phía người đã trưởng thành, thì việc này vẫn không cản trở người vị thành niên có quyền yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng. Tuy nhiên, khi yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng người vị thành niên phải hoàn trả các giá trị đảm bảo đã nhận và phải chịu trách nhiệm về việc sử dụng và giảm giá trị. Một người vị thành niên không thể thông qua hợp đồng của mình cho đến khi đạt tuổi trưởng thành. Việc thông qua hợp đồng bằng ngôn từ hay hành động là dấu hiệu cho thấy ý định muốn ràng buộc vào các trách nhiệm theo hợp đồng. Trong trường hợp hợp đồng đã có hiệu lực, nếu người vị thành niên không yêu cầu huỷ bỏ trong một khoảng thời gian hợp lý sau khi đã đến tuổi trưởng thành thì hợp đồng được coi là đã thông qua bất kể người vị thành niên có nhận ra quyền huỷ bỏ hợp đồng của mình hay không. Một vài toà án không coi việc đơn thuần không có hành động gì là đủ để thông qua một hợp đồng có hiệu lực. Việc thông qua hợp đồng sẽ làm cho hợp đồng có hiệu lực kể từ khi bắt đầu cho đến khi nó được hoàn thành, do vậy việc này không thể không được thực hiện. Người mất trí và say rượu. Hợp đồng của người bị mất trí nhớ sẽ không có giá trị pháp lý nếu nó được thực hiện trong khi anh ta hay chị ta đang trong tình trạng 18 không có năng lực đó; tuy nhiên, nếu người đó trước đó đã bị toà án tuyên bố là mất trí thì khi đó hầu hết các tiểu bang mới tuyên bố những hợp đồng do người bị mất trí đó ký kết là không có gía trị pháp lý và không có hiệu lực. Việc kiểm tra thông thường về tình trạng mất trí nhớ là việc xem xét vào thời điểm ký kết hợp đồng, người tham gia ký kết có đầy đủ năng lực để hiểu rõ về bản chất của công việc kinh doanh đang được giao dịch hay không. Cũng giống như người vị thành niên, người mất trí phải chịu trách nhiệm về những khoản chi phí hợp lý cho những đồ dùng thiết yếu phục vụ bản thân họ. Nếu hợp đồng là ngay thẳng và người khác không có bất kỳ lý do nào để biết được về tình trạng mất trí, thì vào lúc huỷ bỏ hợp đồng người mất trí phải hoàn trả lại nguyên trạng cho phía bên kia. Ngược lại, nếu phía bên kia có lý do để biết rõ về tình trạng mất trí thì vào lúc huỷ bỏ hợp đồng, người mất trí chỉ phải hoàn trả lại bất kỳ vật đối ứng nào hoặc bất kỳ những khoản tiền nào thu được từ việc bán vật đối ứng đó mà vẫn còn sót lại trong sự sở hữu của họ. Một người mất trí có thể thông qua hợp đồng một khi tình trạng mất năng lực pháp lý đã được loại bỏ hoặc hợp đồng có thể được thông qua bởi người giám hộ hợp pháp của họ. Bất kỳ người nào vào thời điểm ký kết hợp đồng đang trong tình trạng say xỉn không thể hiểu rõ được bản chất của công việc kinh doanh đang được giao dịch thì thường cũng bị coi như thể họ là người mất trí. Tính không hợp pháp Một hợp đồng là bất hợp pháp nếu hoặc là hình thức của nó hoặc là việc thực hiện nó là trái với lợi ích công cộng và chính sách nhà nước. Nói chung, hợp đồng bất hợp pháp là không có giá trị. Trong rất nhiều tình huống dẫn đến hợp đồng bất hợp pháp , cuốn sách này chỉ tập trung vào ba dạng phổ biến của những hợp đồng bất hợp này: (1) hợp đồng vi phạm pháp luật hiện hành, (2) hợp đồng bị luật pháp tuyên bố một cách rõ ràng là không có giá trị, và (3) hợp đồng trái với chính sách nhà nước. Hợp đồng vi phạm pháp luật hiện hành: Một hợp đồng là cơ sở cho một sự phạm tội hay bản chất của hợp đồng đó có ý định gây ra một sự phạm tộiđều bị coi là bất hợp pháp. Tương tự như vậy, một hợp đồng mà không thể thực hiện được nếu không vi phạm trách nhiệm dân sự cũng bị coi là bất hợp pháp; Nhưng việc vi phạm trách nhiệm dân sự trong qúa trình thực hiện hợp đồng thì bản thân việc đó không làm cho hợp đồng trở thành bất hợp pháp. Hợp đồng bị luật pháp tuyên bố là bất hợp pháp: Các đạo luật do nhà nước ban hành để xử lý một cách rõ ràng về tính hợp pháp của một số loại hợp đồng nhất định có thể được chia làm 3 nhóm như sau: (1) luật hình sự, (2) các đạo luật tuyên bố rõ ràng về hợp đồng không có giá trị, và (3) các đạo luật điều tiết. Các bang thường đưa ra các đạo luật hoặc là nghiêm cấm hoặc là điều tiết những hợp đồng cá cược. Nói chung, các hợp đồng cá cược đều bị coi là bất hợp pháp và sẽ không có hiệu lực. Các hợp đồng cá cược cần phải được phân biệt với các hợp 19 đồng chuyển giao rủi ro. Trong một hợp đồng cá cược, rủi ro được tạo ra nhằm mục đích để gánh chịu nó, ví dụ như cá cược về một trận bóng đá. Còn một hợp đồng chuyển giao rủi ro chẳng hạn như một hợp đồng bảo hiểm là hoàn toàn hợp pháp với điều kiện là người có ý muốn chuyển rủi ro thực sự đã gặp phải rủi ro. Các giao dịch trên thị trường hàng hoá hay thị trường chứng khoán được ký kết một cách ngay thẳng đều là các hợp đồng đầu cơ và không bất hợp pháp như là các hợp đồng cá cược. Một vài ví dụ thông thường về các đạo luật quy định một số loại hợp đồng là bất hợp pháp, đó là các luật về cho vay nặng lãi và luật nghỉ ngày chủ nhật hay luật trời xanh. Các đạo luật này thường buộc các hợp đồng trở nên vô gía trị và có thể buộc các bên có liên quan phải chịu những hình phạt khác nhau hay bị tước quyền. Để bảo vệ cho công chúng, chính quyền các bang đã ban hành nhiều đạo luật khác nhau nhằm điều tiết sự hoạt động của các hình thức kinh doanh và các ngành nghề khác nhau. Loại quy định thường gặp nhất là yêu cầu phải có được giấy phép trước khi một người, một tổ chức hợp doanh, hay một công ty tham gia vào một hoạt động được điều tiết như hoạt động hành nghề luật sư hay bác sĩ hay thực hiện một hoạt động thương mại như mở tiệm cắt tóc hay xưởng hàn chì. Nếu một người ký kết hợp đồng để thực hiện một dịch vụ như vậy hay tham gia vào một hoạt động kinh doanh được điều tiết mà ngay từ lúc đầu đã không có được giấy phép như pháp luật yêu cầu, thì bất kỳ hợp đồng nào mà họ ký kết đều là bất hợp pháp. Nhưng một lần nữa lại cần phải có sự phân biệt giữa các đạo luật điều tiết là những đạo luật đòi hỏi phải có sự chứng minh về tay nghề và hạnh kiểm trước khi cấp giấy phép, và những đạo luật được đưa ra nhằm tăng thu nhập cho ngân sách và chúng cho phép cấp giấy phép cho bất kỳ ai trả một khoản lệ phí nhất định, thường là rất lớn. Việc không lấy được giấy phép theo như quy định của đạo luật tăng thu nhập cho ngân sách sẽ không ảnh hưởng đến tính hợp pháp của hợp đồng do người chưa được cấp giấy phép ký kết. Chính sách công: Chính sách công là một khái niệm có phần không rõ ràng, nó đưa lại cho toà án một sự linh hoạt để yêu cầu các hợp đồng phải phù hợp với các tập quán hiện hành, với các quy tắc về kinh doanh trung thực và với phúc lợi chung của xã hội. Tất nhiên, các tập quán và các quy tắc này thay đổi theo thời gian và cũng khác nhau giữa các khu vực khác nhau của đất nước. Các chính sách công được áp dụng trên cơ sở từng vụ việc và không có một tiêu chuẩn hay một quy định đơn lẻ nào hướng dẫn thi hành chúng. Một hợp đồng sẽ là bất hợp pháp nếu nó có mục đích hay xu hướng xui khiến một viên chức nhà nước làm sai trách nhiệm mà họ phải có trước công chúng hoặc nếu nó nhằm mục đích đem lại cho người viên chức đó sự thù lao nhiều hơn hay ít hơn sự thù lao mà pháp luật cho phép họ được nhận. Cũng tương tự như vậy, một hợp 20
DMCA.com Protection Status Copyright by webtailieu.net