Lý luận giỏi: Hội ngộ của lý trí và lợi ích
Bất kỳ ai đọc quyển sách này đều đã quen thuộc với việc tranh cãi dường như không bao giờ có hồi kết về trí tuệ và các luận điệu của chúng ta, cái việc mà đã là một đặc tính nổi bật của cuộc sống trong suốt những năm cuối thế kỷ 20. Thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng, chúng ta đã bị dội bom với những lý luận về mau cái này hay cái kia, tin diễn giả này hay diễn giả khác, làm điều này điều khác...
Lý luận giỏi
Engel, Morris S. With Good Reason -- An Introduction to Informal Fallacies. 5th ed.
New York: St. Martin's Press, 1994.
Morris S. Engel. Với Lý Luận Giỏi -- Giới Thiệu Những Ngụy Biện Thông Thường. x/b
5th. New York: St. Martin's Press, 1994.
Phần I
Chương 1: Bản Chất và Phạm Vi của Lo-gic
1. Lý Luận vừa là Một Môn Khoa Học và Môn Nghệ Thuật
2. Lo-gic là Nghiên Cứu về Tranh Luận
3. Tranh Luận và Không-Tranh-Luận
4. Loại Bỏ Sự Dông Dài
5. Những Bộ Phận Khuyết Thiếu
6. Làm Nổi Bật những Thành Phần Khả Nghi
7. Đánh Giá các Tranh Luận: Đúng, Giá Trị và Hợp Lý
8. Những Tranh Luận Suy Diễn và Quy Nạp
9. Lý Luận và Giáo Dục
10. Tóm Tắt
Chương 2: Phương Tiện Truyền Đạt của Ngôn Ngữ
1. Ngôn Ngữ và Tư Duy
2. Dấu Hiệu và Biểu Tượng
3. Từ ngữ và Vật Chất
4. Sự Hữu Dụng của Ngôn Ngữ
5. Sự Tối Nghĩa và Mơ Hồ
6. Những Tranh Luận về Từ Ngữ
7. Định Nghĩa
Trang 1
Lý luận giỏi
8. Nghệ Thuật Nói Chuyện Trực Tiếp
9. Tóm Tắt
Phần II
Chương 3: Những Ngụy Biện do Sự Tối Nghĩa
0. Ngụy Biện" hay "Sai lầm"
1. Lối Nói Lập Lờ
2. Câu Nói Nước Đôi
3. Dấu Trọng Âm
4. Phép Tu Từ
5. Sự Phân Hóa và Kết Cấu
6. Tóm Tắt
Chương 4: Những Ngụy Biện của Giả Định
Bỏ Qua Những Yếu Tố Cơ Bản
1. Khái Quát Hoá
2. Gôm Đũa Cả Nắm
3. Lý Luận Rẽ Đôi
Lảng Tránh Sự Thật
4. Lập Lại Vấn Đề
5. Ngôn Ngữ Cường Điệu hay Thành Kiến
6. Phức Tạp Hóa Vấn Đề
7. Biện Hộ Đặc Biệt
Bóp Méo Sự Thật
8. Tương Đồng Giả Tạo
9. Sai Nguyên Nhân
Trang 2
Lý luận giỏi
10. Lý Luận Rập Khuôn
11. Luận Điểm Không Phù Hợp
12. Tóm Tắt
Chương 5: Ngụy Biện Tính Xác Đáng.
1. Công Kích Cá Nhân
Căn nguyên
Lăng mạ
Suy diễn gián tiếp
Xem ai nói đó
Đầu độc nguồn nước
2. Kêu Gọi Đám Đông
3. Kêu Gọi Lòng Thương
4. Kêu Gọi Quyền Lực
Quyền lực của cái duy nhất
Quyền lực của số đông
Quyền lực của số ít được lựa chọn
Quyền lực của truyền thống
5. Đánh Vào Sự Không Biết
6. Kêu Gọi Sự Sợ Hãi
7. Tóm Tắt
Phần III
Chương 6: Viết Rõ Ràng và Chặt Chẽ
1. Khái Quát Về Cấu Trúc Một Bài Luận
2. Xây Dựng Một Bài Luận
Trang 3
Lý luận giỏi
3. Chú Ý Cuối Cùng: Ngữ Pháp và Cách Sử Dụng
Chương 7: Những Bài Đọc Gợi Ý
Tác Giả
Engel, Morris S. With Good Reason -- An Introduction to Informal Fallacies. 5th ed.
New York: St. Martin's Press, 1994.
Morris S. Engel. Với Lý Luận Giỏi -- Giới Thiệu Những Ngụy Biện Thông Thường. x/b
5th. New York: St. Martin's Press, 1994.
S. Morris Engel (Tiến Sĩ Khoa Học, Đại Học Toronto) là một giáo sư triết học tại Đại
Học York ở Toronto, Ontario. Trước đó, ông dạy tại trường Đại Học Miền Nam
California (University of Southern California). Những tác phẩm của ông bao gồm
Nghiên Cứu Triết Học (The Study of Philosophy), 31e (1990) và Cái Bẫy của Ngôn
Ngữ (The Language Trap), (1984 và 1994), bên cạnh những cuốn sách học thuật như
học thuyết của Wittgenstein về sự chuyên chế của ngôn ngữ (1971).
Những mối quan tâm về học thuật của giáo sư Engel là ngôn ngữ của lo-gic và triết
học. Tuy nhiên, ông cũng nổi tiếng với nhiều tác phẩm về Tiếng Đức Cổ (Yiddish).
Những tác phẩm của ông gồm Dybbuk (Lên Đồng) (1974-1979), Lễ Ban Phước
Hashem (Kiddish Hashem) (1977), v.v....
Phiên Dịch: Tô Yến Nhi, Võ Hồng Long, Vũ Thắng và Lê Nga
Điều Hành: Nguyễn Lưu Trọng Quyền
Phiên bản nhất này, chúng tôi dịch lại cuốn sách của Giáo Sư Morris S. Engel. Trong
những phiên bản sau, chúng tôi sẽ sưu tầm những sai lầm trong các bài tham luận trên
báo chí Việt Nam trong và ngoài nước. Trong thời gian sưu tầm, những ví dụ sẽ được
đăng tại Phố Rùm của trang Kinh Tế Học. Kính mong độc giả quan tâm và ủng hộ,
vào trang mạng trên đóng góp các ví dụ tiếng việt thực tế hơn.
HỘI NGỘ CỦA LÝ TRÍ VÀ LỢI ÍCH
PHẦN I
CHƯƠNG 1
BẢN CHẤT VÀ PHẠM VI CỦA LO-GIC
Vũ Thắng dịch
Trang 4
Lý luận giỏi
Bất kỳ ai đọc quyển sách này đều đã quen thuộc với việc tranh cãi dường như
không bao giờ có hồi kết về trí tuệ và các luận điệu của chúng ta, cái việc mà đã là
một đặc tính nổi bật của cuộc sống trong suốt những năm cuối thế kỷ 20. Thông qua
từng các phương tiện truyền thông đại chúng, chúng ta đã bị dội bom với những lập
luận về mua cái này hay cái kia, tin diễn giả này hay diễn giả khác, làm điều này hay
làm điều khác. Những thông điệp có tính thuyết phục xuất phát từ bạn bè, gia đình và
chính phủ, thậm chí từ những người lạ mà ta chỉ thảo luận trong chốc lát.
Chúng ta thường lấy những điều "phi lo-gic" (vô lý) để nỗ lực thuyết phục
chúng ta, nhưng chúng ta có thể phát hiện rằng rất khó khăn để chống lại nỗ lực đó
bởi vì chúng ta không chắc là tại sao tính lo-gic của những tranh luận là không có hoặc
nó sai ở điểm nào. Thật là không may mắn khi mà trong cuộc tranh luận, người nào
nói dài nhất, to nhất thường được xem là kẻ "chiến thắng", thậm chí ông hay bà ta
tranh cãi chẳng hay ho gì cả. Đó là bởi vì không có ai đáp lại trong cuộc tranh luận và
nếu không có ai chỉ ra rằng những lập luận là yếu hay không thích hợp, thì chúng ta sẽ
đi đến suy nghĩ: người tranh luận có thể đúng và hơn nữa chẳng có ai có thể chỉ rằng
nó sai và tương tự như vậy. Đó là lý do tại sao chúng ta chán ngán trong việc tranh cãi
về một điều nếu nó không thể nghi ngờ hay tranh cãi. Chúng ta cùng những người
khác có thể bị ảnh hưởng một cách tinh vi hay thậm chí nặng nề bởi nó, có thể trong
thực tế sẽ xoá dần đi những bất đồng quan điểm ban đầu với nó, và cũng có thể phát
hiện ra rằng rất khó khăn để từ chối tranh luận của người khác hoặc thậm chí kêu gọi
hành động xuất phát từ nó. Tất cả có thể dẫn chúng ta đến cảm giác là chúng ta không
có sự lựa chọn nhưng vẫn phải nói và phải làm những việc mà chúng ta với lương tri
không chọn hoặc không tin tưởng.
Bằng cách nào chúng ta biết rằng chúng ta nên mua cái gì, tin cái gì và làm
những việc khẩn cấp? Những lý do đó là gì, và chúng thuyết phục đến mức nào? Tại
sao chúng tồn tại, nếu không thì tại sao chúng bắt buộc chúng ta? Và làm thế nào
chúng ta có thể chắc chắn hơn rằng những phân tích cá nhân về các vấn đề có liên
quan đến chúng ta là có lý như chúng ta đã thực hiện? Một mục đích của nghiên cứu
lo-gic là đạt được các công cụ mà với chúng có thể phân biệt một lập luận đúng với
một lập luận sai. Theo đó, lo-gic có thể được xem là một trong những nghiên cứu
mạnh mẽ nhất chúng ta có thể tiến hành, đặc biệt là trong thời đại như chúng ta đang
sống, thời mà có quá nhiều yêu sách và phản đối các yêu sách.
1. Lý Luận vừa là Một Môn Khoa Học và Môn Nghệ Thuật
Có phải lý luận học là một môn khoa học (như thiên văn học hay di truyền
học), hoặc là một môn nghệ thuật thực hành (như thể dục hay nấu ăn) không? Có
phải mục tiêu của nó là mô tả sự tự nhiên và cấu trúc tư duy đúng, theo cách của một
môn khoa học chính xác? Hoặc là nó dạy chúng ta làm thế nào để lý luận đúng như là
chúng ta có thể hướng dẫn ai đó chơi kèn?
Nói ngắn gọn là có phải mục tiêu cơ bản của nó là giúp chúng ta hiểu lập luận
rõ ràng là gì và dạy chúng ta làm thế nào để lập luận đúng đắn?
Trang 5
Lý luận giỏi
Một tình huống có thể được nêu ra để nhìn nhận lý luận học bằng một trong
những cách này. Một số người cho rằng lý luận học ngoài là một môn khoa học, nó
khám phá, hệ thống, và thiết lập các nguyên tắc để lập luận đúng. Họ thậm chí còn
gợi ý là giảng dạy cách lập luận có lo-gic là vô ý nghĩa, giống như là chúng ta chẳng
cần đợi những nhà tâm lý học dạy chúng ta ăn.
Hoặc là chúng ta biết làm thế nào để lập luận hoặc chúng ta không biết. Nếu
chúng ta có đầy đủ mọi năng lực, chúng ta chẳng cần những hướng dẫn. Nếu chúng ta
không có nó thì những hướng dẫn c ũng chẳng giúp được gì.
Những người khác lại cho rằng giá trị cơ bản của lo-gic là nâng cao sức mạnh
của những lập luận và tăng cường khả năng của chúng ta để đánh giá sự đúng đắn
của những lập luận và sửa chữa những điểm yếu. Với những lợi ích này, lo-gic phải
được coi là một môn nghệ thuật cũng như là một môn khoa học không chỉ để thông tin
cho tư duy mà còn huấn luyện nó. Một vài người định nghĩa lo-gic là một nghệ thuật
tự do, những nghiên cứu của nó cung cấp hiểu biết tốt hơn về sự tự nhiên và giúp
chúng ta thoát khỏi những suy nghĩ và hành động ngu dốt. Trong quyển sách này,
chúng ta sẽ theo đuổi việc thực hành trên góc độ coi đó vừa là một nghệ thuật vừa là
một môn thực hành và quan trọng không kém là tiến hành những nghiên cứu mang tính
lý thuyết của nó. Thực tế là có vài người sẽ phàn nàn là việc nghiên cứu mang tính
thực hành cuả nó với những phân tích về thành kiến, thiên vị, và sự cố chấp thậm chí
là quan trọng hơn việc nghiên cứu mang tính lý thuyết. Lịch sử là một cuốn danh mục
về những sự kiện mà một cuộc tranh luận tồi tệ đã thuyết phục cả nhiều đám người
hành động một cách xấu xa, thậm chí là tàn bạo. Rất nhiều sự tàn bạo cực điểm trong
Thế Chiến II đều là bằng chứng chúng ta cần nói lên rằng với bản chất tự nhiên
chúng ta dễ bị thuyết phục để thù ghét và giết người. Tất nhiên là có nhiều nhân tố đã
đóng góp vào tình hình mà sự huỷ diệt có thể xảy ra nhưng nó không thể đơn giản là
đặc điểm nổi bật để cố tình lập luận sai trái. Nhưng việc lập luận tồi tệ chắc chắn
đã thúc đẩy rất nhiều hành động cá nhân mà đã công nhận tính hợp lý cho nó. Và
tương tự thế bạo lực và thù hận tiếp tục chi phối xã hội chúng ta. Do đó việc nghiên
cứu lo-gic đúng đắn là cách thức để chúng ta có thể cố gắng hết sức để giảm bớt
những hành vi như thế trong chính chúng ta và bảo vệ chúng ta khỏi nó.
Nhà trào phúng Jonathan Swift ở thế kỷ 18 đã xuất bản một tiểu luận có tựa đề
"Một Lời Đề Nghị Khiêm Tốn" trong đó ông đã kín đáo gợi ý rằng tập tục ăn thịt đồng
loại là một điều hết sức hợp lý, là một giải pháp mang tính thực tế cho vấn đề quá tải
dân số trong nghèo đói. Trong những gì xuất hiện là một lý luận đẹp đẽ có tính thuyết
phục "một điều lo-gic chặt chẽ sẽ dẫn đến tranh cãi khủng khiếp từ những giả thiết
đáng kinh ngạc vì thế giả thiết đơn giản rằng người đọc tán thành trước khi anh ta
biết anh ta tán thành cái gì." (Norton Anthology of Emglish Literature, Quyển 1, dòng 3,
trang 209). Điều mà Swift thực sự muốn làm là bằng cách đơn giản nào chúng ta có
thể bị dẫn tới những suy nghĩ và quan điểm khiếp sợ -- không dám nói lên hành động
nào cả -- bởi một người tranh luận biết cách làm thế nào giả tạo được sự hợp lý. Đó
là lý do tại sao chúng ta nên biết cảm nhận sự hợp lý bằng bản thân chúng ta nhờ vậy
chúng ta có thể phân biệt những thứ giả tạo tinh vi với những thứ thật.
2. Lo-gic là Nghiên Cứu về Tranh Luận
Trang 6
Lý luận giỏi
Lo-gic là nghiên cứu về tranh luận. Với cách dùng theo nghĩa này, từ này không
có nghĩa là cãi nhau (như khi chúng ta "vướng mắc vào một vụ cãi lộn") mà là một
phần của lập luận theo đó một hay nhiều mệnh đề được đưa ra để hỗ trợ cho các
mệnh đề khác. Mệnh đề được hỗ trợ là kết luận của tranh luận. Những lập luận
được đưa ra để hỗ trợ kết luận được gọi là tiền đề. Chúng ta có thể nói rằng "Có cái
này (kết luận) bởi vì có cái kia (tiền đề)" hoặc "Đây là cái này (tiền đề) vì thế có cái
kia (kết luận)". Tiền đề nói chung được đưa ra trước bằng những từ ngữ như là bởi
vì, do, từ khi, trên cơ sở này, tương tự, giống như là. Mặt khác, kết luận thường được
đưa ra bằng những từ như vì lý do đó, từ lúc này, kết quả là, nó phải theo là, theo cách
đó, vì vậy, chúng ta có thể suy ra rằng, và chúng ta có thể kết luận rằng.
Vì thế, bước đầu tiên để tiến tới thông hiểu về tranh luận là học phân biệt tiền
đề và kết luận. Để làm điều này, hãy tìm những từ chỉ dẫn, như chúng đã được nêu
ra, và liệt kê. Trong những tranh luận mà những từ chỉ dẫn chỉ như thế bị thiếu, hãy
cố gắng tìm kết luận bằng cách xem đâu là chủ đề của tranh luận: điều mà tranh luận
đang cố gắng thiết lập. Đó sẽ là kết luận của nó; phần có lại là những ý nền tảng để
hỗ trợ hoặc là tiền đề .
Phân biệt kết luận với tiền đề trong hai lập luận dưới đây khá đơn giản. Trong
trường hợp thứ nhất, một trong những mệnh đề của nó được đưa ra bằng từ " bởi vì"
(nó cho chúng ta biết cái gì theo sau là tiền đề và phần còn lại chắc chắn là kết luận
của nó). Trong trường hợp thứ hai, một trong những mệnh đề của nó được giới thiệu
bởi từ "vì lý do này" (nó cho chúng ta biết cái gì theo sau là một kết luận và phần còn
lại đương nhiên là tiền đề của nó):
a. Jones sẽ không học tập tốt trong khoá học này bởi vì anh ấy có ít thời
gian để tập trung vào công việc trường lớp và hầu như không tham gia vào lớp
học nào.
b. Cô ta xung khắc với hầu hết mọi người trong văn phòng, vì lý do này
mà dường như cô ta sẽ không được nâng đỡ để phát triển.
Tuy nhiên, trong hai ví dụ dưới đây lại không có những từ chỉ dẫn bổ ích:
c. Chẳng có con cáo nào ở vùng này. Cả ngày, chúng tôi chẳng nhìn thấy
con nào.
d. Tất cả những người Đảng bảo thủ phản đối việc xây dựng nhà công
cộng. Thượng nghị sĩ Smith phản đối việc này, ông ta nhất định phải là một
người Đảng bảo thủ.
Để phân biệt tiền để với kết luận của nó trong những trường hợp loại này
phải tự đặt ra các câu hỏi như: cái gì đang được tranh cãi và người ta đang cố gắng
thuyết phục chúng ta cái gì? Hoặc trong trường hợp tình huống (c), điều được tranh
cãi không phải là "cả ngày chúng tôi không nhìn thấy con cáo nào" -- bởi vì người khác
đã chắc chắn biết điều này và chẳng qua là nhắc lại nó mà thôi -- nhưng quan trọng
Trang 7
Lý luận giỏi
hơn là với sự thật đã biết đó, chắc chắn là không có con cáo nào trong khu vực này.
Đấy chính là kết luận của tranh luận.
Tương tự như với ví dụ (d), điều được tranh luận không phải là "tất cả người
Đảng Bảo thủ phản đối việc xây dựng nhà công cộng" -- đối với tranh luận này,
những giả thiết là những mệnh đề về thực tế được chia xẻ -- và quan trọng là với
những thực tế đó, Smith là một người của Đảng Bảo thủ.
Việc tìm ra kết luận của một tranh luận không được chỉ dẫn rõ ràng như trên
không phải luôn luôn dễ dàng và chắc chắn. Sự giúp đỡ tốt nhất của chúng ta là chú
tâm cẩn thận vào nội dung và lối diễn đạt của tranh luận và chỉ dẫn của những lập
luận.
· Một tranh luận là một phần của việc lập luận mà trong đấy một hay
nhiều mệnh đề được đưa ra để hỗ trợ cho các mệnh đề khác.
· Một mệnh đề được hỗ trợ được gọi là kết luận của tranh luận; những
lập luận được đưa ra để hỗ trỡ được gọi là các tiền đề.
· Những từ chỉ dẫn như là từ đó, bởi vì, vì thông thường đưa ra những
tiền đề; những từ do đó, vì vậy, và kết quả là nói chung là đưa ra những kết
luận.
· Trong những tranh luận thiếu những từ chỉ dẫn như vậy, hãy cố gắng
tìm ra kết luận bằng cách xác định chính xác quan điểm mà tranh luận đang cố
gắng thiết lập. Đó sẽ là kết luận, phần còn lại chính là nền tảng hỗ trợ hay là
các tiền đề.
3. Tranh Luận và Không-Tranh-Luận
Như chúng ta đã thấy, một tranh luận là một phần của việc lập luận mà trong
đó một hay nhiều mệnh đề được đưa ra để hỗ trợ các mệnh đề khác. Nếu như một
điều được viết đưa ra một tuyên bố nhưng không đưa ra những lý do để chúng ta tin
tưởng nó, thì nó không phải là một tranh luận. Tương tự, một thông điệp mà không
làm người ta thừa nhận thì cũng không phải một tranh luận. Vì thế những câu hỏi
không phải là tranh luận, tương tự như thế đối với một tuyên bố, phàn nàn, tán thành
hoặc xin lỗi.
Một lần nữa, những thông điệp như vậy không phải là là tranh luận, chúng
không có những cố gắng để thuyết phục chúng ta. Ví dụ, "Có kế hoạch nào để đưa
'the Little Rascals' lên không trung lại không?" chỉ là một câu hỏi mà không phải là một
tranh luận. Nó yêu cầu các thông tin, mà không tán thành tuyên bố nào.
Cũng tương tự cho các ví dụ dưới đây:
a) Tôi không định xem nữa các chương trình TV với những pha cười. Lại
có thể có những người cười khi một ai đóng cửa. Tôi sẽ cười khi tôi muốn cười.
Trang 8
Lý luận giỏi
Tôi nghĩ là họ nên để các pha cười ở chương trình tin buổi tối khi những dự báo
viên thời tiết đang trên không trung.
b) Tôi tiêu $125 để tham dự một buổi lên đồng và người dẫn đã xuất hiện
với áo jacket đua, quần jeans, và áo T-shirt quảng cáo cho một cửa hàng bán
guitar ở California. Tôi đã xem xét về sự trải nghiệm tồi ở Philadelphia. Ông ấy
chắc chắn là thầy số tốt nhất mà tôi gặp trong sáu mươi năm của cuộc đời
nhưng bạn có thể thấy thấy cách tiếp cận mang chất Kung-Fu của ông ấy đối
với thế giới tâm linh.
c) Sự thoả mãn chân thành nhất trong cuộc đời đến khi thực hiện và rũ
bỏ được trách nhiệm, đối mặt và giải quyết được các vấn đề, đối mặt với thực
tế và là một người độc lập.
Ví dụ (a) là một cách diễn đạt về sự khinh miệt và tởm lợm, (b) là một lời
phàn nàn, và (c) chắc chắn là một quan điểm tất cả không có những nỗ lực nào để
thuyết phục chúng ta. Vì thế, không một cái nào trong chúng là tranh luận. Điều này
không có nghĩa là những thông điệp này là những ý kiến tồi; chúng chỉ đơn thuần
không phải là những tranh luận mà thôi. Chúng chứa đầy tính quy củ và thường có
những chức năng cần thiết. Khó khăn hơn nữa là những trường hợp mà ở đó những
lập luận được đưa ra thực sự nhưng chỉ nhằm để phân định hơn là để bào chữa.
Mặc dù bề ngoài giống như các tranh luận, các thông điệp như thế thường
chẳng hơn gì một bộ sưu tập các mệnh đề, cái này mở rộng trên cái kia.
Ví dụ, chúng ta hãy xem xét câu cách ngôn nổi tiếng của Francis Bacon:
d) Người mà chìm đắm trong chuyện vợ con chắc chắn bị cầm tù bởi thời
vận cũng như danh tiết hay rắc rối, vì họ là vật cản đến với sự nghiệp lớn.
Hơn cả việc đưa ra những lý do giải thích, theo quan điểm của Bacon, phụ nữ
và con trẻ ngăn trở con đường của người đàn ông (bị cầm tù bởi thời vận), ông chỉ
đơn giản là giải thích cho bản thân bằng cách mở rộng và nhắc lại quan điểm. Vì thế
nó không phải là một tranh luận. Nhưng nhiều tình huống không phải luôn luôn cắt
nghĩa đơn giản được, người ta thường sẽ gặp các ví dụ mà giải thích và nhận xét
thường trộn vào nhau.
e) Ở Hollywood, danh tiết của một cô gái còn kém quan trọng hơn cả kiểu
đầu của cô ta. Bạn sẽ bị phán xét thông qua cách bạn trông ra sao, chứ không
phải là bạn là cái gì. Hollywood là nơi mà họ sẽ trả bạn cả ngàn dollar vì một cái
hôn, và năm mươi cent cho tâm hồn của bạn. Tôi biết, bởi vì tôi đã thường xuyên
từ chối lời đề nghị thứ nhất và giữ lại năm mươi cent. (Marilyn Monroe, Câu
chuyện của tôi)
Mặc dù đoạn trích này chứa đầy những lập luận và dường như là một nỗ lực
để rút ra kết luận rằng ở Hollywood "đức hạnh của một cô gái còn thấp hơn kiểu đầu
của cô ta" và là "nơi mà người ta sẽ trả bạn cả ngàn dollar cho một cái hôn, và năm
Trang 9
Lý luận giỏi
mươi cent cho tâm hồn của bạn," mặc dù thế ý định chủ yếu và chi phối của nó không
phải là thuyết phục người đọc về tất cả điểm này -- như thể anh hay cô ta chưa biết
về nó -- mà là cho phép Monroe chia xẻ với người đọc một cách nhìn nhận chung, có
lẽ còn đưa được ý tưởng đó đi xa hơn.
Và có lẽ đó là cách khác mà chúng ta dựa vào để phân biệt một đoạn văn mà
mục đích chủ yếu là để giải thích hơn là để thuyết phục: một sự giải thích đưa ra
một vài thứ mà đã được coi là sự thật và cố gắng làm sáng tỏ hơn; một tranh luận lại
đưa ra một vài điều nói chúng la không được biết đến và đồng ý và cố gắng thiết lập
nó là đúng.
Một lời giải thích, cái mà chỉ để nói, bắt đầu bằng một mệnh đề chắc chắn là
đúng và cố gắng hoàn chỉnh những gì tác giả ngụ ý một cách chính xác, để khẳng
định. Còn một tranh luận cố gắng thiết lập rằng mệnh đề nêu trong câu hỏi là đúng
bằng cách đưa ra những lập luận cho nó.
Mục đích của một tranh luận là bắt chúng ta đồng ý với người nói hay người
viết về cái gì đó.
Không phải tất cả những gì viết hay giao tiếp là tranh luận. Có rất nhiều thứ
đơn giản không phải là tranh luận, chúng ta không cần mong đợi những điều này phải
được trình bày một cách rất lo-gic.
Nếu một đoạn văn rất khó để phân loại, hãy cố gắng quyết định: cái gì là mục
tiêu chi phối hay chủ đạo của nó? để xả hơi, để khảo sát, hoặc yêu cầu, thông tin, để
giải thích, để thuyết phục?
4. Loại Bỏ Sự Dông Dài
Tranh luận theo diễn đạt phổ biến thường bị vướng víu bởi những lần lặp lại,
dông dài, và không minh bạch. Để nhìn thấy rõ hơn những tranh luận như thế là gì cần
thiết phải làm sạch những thứ mục ruỗng khỏi nó. Thỉnh thoảng điều này cũng dính
tới việc lờ đi những lời giới thiệu khá dài dòng giống như ví dụ dưới đây chỉ dẫn cổ
điển về việc bán hàng của Og Mandino "Người Bán Hàng Vĩ Đại Nhất Thế Giới"
a) Ngày hôm nay, tôi sẽ làm chủ cảm xúc của mình. Thuỷ triều lên, và
thuỷ triều xuống. Mùa đông đi và mùa hè đến. Cái nóng giảm đi và lạnh tăng
dần. Mặt trời mọc, và mặt trời lại lặn. Trăng tròn rồi lại khuyết. Con chim bay
lên rồi lại hạ xuống. Hoa nở rồi hoa tàn. Hạt giống được reo rắc và rồi mùa
màng được thu hoạch. Tât cả tự nhiên là một vòng tuần hoàn các trạng thái và
tôi cũng là một phần của tự nhiên. Và do thế, giống như thuỷ triều, tâm trạng
của tôi sẽ hưng phấn và tâm trạng sẽ ảm đạm. Ngày hôm nay, tôi sẽ làm chủ
cảm xúc của mình.
Những gì tranh luận này thừa nhận được chứa trong từ câu thứ hai đến câu
cuối cùng của nó. "Tất cả tự nhiên là một vòng tuần hoàn các trạng thái và tôi cũng là
một phần của tự nhiên. Và do thế tâm trạng của tôi sẽ hưng phấn và tâm trạng của tôi
Trang 10
Lý luận giỏi
sẽ ảm đạm" Với mục đích để đánh giá có lo-gic, tất cả những gì được đưa ra trước
không ăn nhập, tuy nhiên lại rất hay và có thể suy tưởng ra từ nó.
Những gì lời giới thiệu đề cập đến mà kết luận cũng đề cập như thế thì có thể
không cần thiết phải nhắc lại những gì đã được công bố đầy đủ. Ví dụ trên là một
điển hình của những nhắc lại không cần thiết. Có phải ba câu cuối của đoạn văn nói
lên được điều gì mà chúng chưa được nhắc đến ở phía trước không?
b) Điều quan trọng là bạn phải nghiên cứu cả quyển sách này với sự cẩn
thận . Cơ quan bảo hiểm liên bang nơi phụ trách các kỳ thi về bảo hiểm luôn
thực hiện trách nhiệm của họ một cách nghiêm túc để bảo vệ cộng đồng khỏi
những người không đủ trình độ. Vì lý do đó, các kỳ thi về bảo hiểm cuộc sống
không thể dễ dàng đỗ qua. Những người phụ trách trong tương lai đã nghiên
cứu một cách hời hợt thường ngạc nhiên khi biết rằng họ đã thi trượt. May
mắn là, những người phụ trách trong tương lai đó những người mà đã đủ trình
độ đã tiến hành nghiên cứu với sự quyết tâm cao hơn và đã thi đỗ trong các dịp
vớt. Khi mà cuộc thi không được coi là dễ dàng, chúng cũng không bị coi là khó
một cách vô lý. Mục đích của kỳ thi là kiểm tra kiến thức của bạn về một loại
thông tin có trong sách. Nếu mà bạn đã nghiên cứu thông suốt thì bạn sẽ có cơ
hội để đỗ. Tuy nhiên thường thì một ví dụ dài dòng một cách giản đơn và cần
phải rút gọn triệt để trước khi cấu trúc của nó có thể xem xét một cách rõ ràng
như là ví dụ về hút thuốc lá đã được nêu ra ở trên. Trước khi những tranh luận
kiểu này có thể có thể được đánh giá xác đáng, chúng cần phải được viết lại
càng trong sáng càng tốt và những tiền đề và kết luận được sắp xếp theo trật
tự lo-gic.
Sửa lại hai tranh luận được nêu ra trong những câu dài lê thê, chúng ta phát hiện
ra rằng chúng cơ bản đề cập đến những điều sau:
a) Tất cả tự nhiên là một vòng tuần hoàn các trạng thái; tôi là một phần
của tự nhiên; do vậy tôi cũng phải chấp nhận sự thật là tôi cũng phụ thuộc vào
sự dao động của tâm trạng.
b) Những kỳ thi về bảo hiểm không dễ dàng vượt qua nếu không có sự
chuẩn bị kỹ càng. Vì thế, để chính bản thân bạn chuẩn bị chúng đúng mực, hãy
mua và đọc quyển sách này cẩn thận.
Trong việc loại bỏ những rườm rà khỏi các tranh luận, chúng ta sẽ phải loại
bỏ một vài thứ thơ thẩn, bóng bẩy của nguyên bản. Đây là một sự hy sinh, tuy nhiên
chúng ta cần phải làm để đạt được sự trong sáng của lo-gic.
Những tranh luận mà có tính lặp lại với rất nhiều từ, hoặc chứa các mệnh đề
không ăn nhập nói chung thường thất bại trong việc đưa ra những ý nghĩa chủ đạo.
Để đạt được một tranh luận thực sự, những sự rườm ra cần phải bị loại bỏ.
Trang 11
Lý luận giỏi
Nói chung, những cụm từ hay mệnh đề không cần thiết thường được chứa
trong phần giới thiệu hay kết luận. Thông thường, những từ vô nghĩa cần phải loại
bỏ hoàn toàn, và tranh luận sẽ được cấu trúc lại để có một trật tự lo-gic.
5. Những Bộ Phận Khuyết Thiếu
Như chúng ta thấy, cấu trúc cơ bản của một tranh luận thường bị che dấu bởi
sự rườm rà, chúng ta cần phải loại bỏ những thứ đó, vì thế những tiền đề và kết luận
có thể xuất hiện rõ hơn trước chúng ta. Nhưng cấu trúc của một tranh luận cũng có
thể bị che khuất bởi chúng ta (như là hậu quả của việc định hướng sai và lầm lẫn)
bởi vì nó quá rời rạc và có bộ phận bị bỏ quên. Những tranh luận như thế này có thể
gây ầm ĩ hơn như chúng vẫn thường thế bởi vì chúng ta không nhận biết các giả thiết
quan trọng được chúng thuyết lập và chúng dựa vào đó để tồn tại. Những giả thuyết
này cần phải được đào lên nếu như bị ẩn đi, hoặc phải làm rõ ràng nếu như không
được diễn đạt. Mỗi lần chúng được làm rõ ràng, sẽ dễ dàng hơn để làm sáng tỏ vai
trò của các bộ phận bị bỏ quên này (những giả thuyết) trong lập luận và để đo mức
độ mà tranh luận phụ thuộc và nó. Sẽ dễ dàng hơn để tìm ra những bộ phận khuyết
thiếu cuả một tranh luận nếu chúng ta theo dõi, trong nhiều cuộc tranh luận, những
luận điểm hỗ trợ được đưa ra chứa đựng mệnh đề của một nguyên lý cơ bản và
được đưa ra như là bằng chứng cho kết luận và viện dẫn của một tình huống. Sau đó,
kết luận suy diễn ra rằng những gì đúng với nguyên lý cơ bản thì cũng đúng với tình
huống của câu hỏi. Sau đây là một ví dụ cổ điển:
a) Tất cả đàn ông đều phải chết. Socrates là một người đàn ông (tình
huống). Socrates sẽ phải chết (kết luận)
Trong tình huống trên, ví dụ là của Aristote (Số 27) và của Samuel Johnson (Số
28) rất phù hợp với kiểu mẫu này. Bằng cách rút gọn và đặt chúng đúng dạng lo-gic,
những gì bạn thu được sẽ giống như dưới đây:
b) Hạnh phúc là có những gì bạn cần. Một trong những thứ bạn cần là
bạn bè. Vì thế, để có hạnh phúc, bạn cần có bạn bè.
c) Thi ca là một nghệ thuật có thể bắt chước.Thơ ca siêu hình học không
thể bắt chước. Vì vậy thơ ca siêu hình học không phải là thi ca.
Vì thế, những cuộc tranh luận siêu hình học theo loại này có thể thiếu hoặc là
mệnh đề của nguyên lý chung (trong lo-gic, được gọi là tiền đề), hoặc là sự tham
khảo đầy đủ cho tình huống của câu hoi (tiền đề phụ), hoặc là sự suy diễn (kết luận).
Có một vài ví dụ như sau:
d) Đây là những thức ăn tự nhiên và vì thế tốt cho bạn.
Phần được loại bỏ ở đây là tiền đề chính: tất cả những thức ăn tự nhiên sẽ tốt
cho bạn. (chỉ dẫn bộ phận bị bỏ quên):
Trang 12
Lý luận giỏi
Tất cả những thức ăn tự nhiên tốt cho bạn. Đây là những thức ăn tự nhiên.
Những thức ăn này tốt cho bạn.
e) Bạn sẽ là một cô giáo tuyệt vời. Như bạn biết, những người thích trẻ
em luôn luôn làm được điều này.
Ở đây, phần được lược bỏ là tiền đề phụ: bạn rất thích trẻ em.
Tất cả những ai thích trẻ em đều là những cô giáo tốt. Bạn thích trẻ con. Bạn
sẽ là cô mẫu giáo tuyệt vời.
f) "Yon Cassius có một cái nhìn đói khát và thèm thuồng; những người đàn
ông như vậy rất nguy hiểm"
Ở đây, phần bị lược bỏ là kết luận: Cassius là nguy hiểm.
Tất cả những ai có cái nhìn đói khát và thèm thuồng là nguy hiểm. Cassius có
cái nhìn như vậy. Cassius là nguy hiểm.
Không phải tất cả những loại bỏ như vậy là tự nhiên, hoặc là được thực hiện
để đạt được sự bóng bẩy văn chương hoặc vắn tắt. Thông thường những gì được
loại bỏ đều có tính gây nghi vấn cao và thường được loại bỏ rất có ý đồ:
g) Đây chắc chắn là một quyển sách hay; nó được Câu Lạc Bộ Những
Quyển Sách Bán Chạy nhất hàng tháng chọn.
Những gì còn lại không được tuyên bố ở đây là tiền đề chính: tất cả những
quyển sách được Câu Lạc Bộ chọn là những quyển sách hay. Vì lý do dễ hiểu đó,
tuyên bố một cách rõ ràng là thu hút sự chú ý và nó sẽ trở thành những thách thức của
các câu hỏi. Cũng tương tự đúng như thế cho hai ví dụ dưới đây:
h) Tất cả chất cồn đều rút ngắn cuộc sống, vì thế Jim sẽ không sống lâu.
i) Kẻ hèn nhát luôn đáng khinh miệt, và đây rõ ràng là một trường hợp
của sự hèn nhát.
Mặc dù trong những trường hợp ngắn như vậy, những bộ phận khuyết thiếu
thường dễ dàng làm tư duy chuyển đột ngột hoạt động, nó vẫn là một lợi điểm, trong
suy nghĩ của người tranh luận, không xác định chúng rõ ràng, do đó làm thế một lần
nữa là thu hút sự chú ý và thách thức những phản đối.
Càng khó để cắt nghĩa, và càng xa những thói thông thường, những ví dụ càng
dài và càng rắm rối. Thỉnh thoảng, chúng có những cơ hội lớn hơn để tạo ra ảnh
hưởng, dẫn dụ và vì lý do này một nỗ lực lớn hơn phải làm để ẩn đi những giả
thuyết mà tranh luận đứng trên đấy. Bởi vì những tranh luận thường phức tạp hơn về
mặt động từ nên dễ dàng để mất dấu những bộ phận khuyết thiếu. Sau đây là một
quảng cáo về băng với những dòng đơn sơ:
Trang 13
Lý luận giỏi
j) Hầu hết mọi người đều cảm thấy cô đơn vào lúc nào đó và do nhiều
thứ đây là một trạng thái song hành bất biến. Từ những đứa trẻ mới cảm thấy
nó không có bạn cho đến những ngưòi già cảm thấy thừa thãi trong tâm trạng
trống vắng lạnh lẽo. Những đứa trẻ mới lớn thường cảm thấy chúng chẳng là
ai và những đứa mới trưởng thành cảm thấy không có bạn bè gì cả. Đoạn ghi lại
nổi bật này không chỉ là những tin tức đáng quan tâm mà còn chứa đựng cách
tiếp cận chủ động để giải quyết sự trống rỗng này.
Diễn đạt lại đoạn tranh luận này, chúng ta phát hiện ra rằng nó khẳng định
những điều sau:
Mọi người đều phải chịu đựng sự cô đơn.
Đoạn ghi này là một phương thuốc cho sự cô đơn.
Đoạn ghi này sẽ khuây khoả sự cô đơn của bạn.
Điều mà chúng ta bây giờ có thể nhìn thấy là kết luận đã bị bỏ qua. Diễn đạt
nó một cách trong sáng có thể dấy lên câu hỏi trong tâm trí người khác. Thậm chí nếu
sự thật là đoạn ghi này đã giúp những người khác, liệu nó có thể giúp tôi không?
Tất nhiên là không phải tất cả những lược bỏ loại này có thể gây ra ngờ vực.
Thường thì một người sẽ loại bỏ một bộ phận bởi vì nó quá là rõ ràng để diễn đạt rõ
ràng. Thỉnh thoảng người ta cũng loại bỏ một bộ phận bởi vì các lý do xúc động, và
thỉnh thoảng cũng bởi vì người ta mong muốn được chăm sóc và quan tâm. Trong ví
dụ về gia cầm, chúng ta được thông tin là để kích thích tăng trưởng và tăng cường đề
kháng, bây giờ gia cầm được nuôi ăn và chăm sóc với các liều lượng thuốc lớn chứa
nhiều những hoá chất nguy hiểm. Kết luận rút ra là, cần phải khôn ngoan hơn để phát
hiện nguy hiểm thường được đề cập đơn giản do những cách chăn nuôi mới và kinh
doanh mới đối với chúng ta. Nó đã không được tuyên bố minh bạch.
Nếu như đây là tất cả những gì, thì những do dự đó có thể được bảo vệ khỏi
những quan điểm khoa học hoặc những quy định của pháp luật. Tuy nhiên về lo-gic,
chúng ta nên luôn luôn làm rõ quan điểm để biết được cái gì đang được khẳng định và
chúng ta đang được yêu cầu tán thành cái gì.
Một vài tranh luận rất khó để đánh giá bởi vì chúng thiếu một hay nhiều những
nhân tố cần thiết để làm thành một tranh luận chắc chắn.
Chúng ta phải phân tích những tranh luận đó cẩn thận để quyết định những giả
thuyết nào chúng ẩn đi, những nhân tố nào khuyết thiếu: tiền đề chính, tiền đề phụ
hoặc kết luận.
Thỉnh thoảng những bộ phận của một tranh luận có thể được lược bỏ bởi
những nguyên nhân hợp lệ. Nhưng chúng ta phải làm rõ và đánh giá trong các tình
huống để quyết định sức mạnh tổng thể của một tranh luận.
Trang 14
Lý luận giỏi
Tìm kiếm những bộ phận khuyết thiếu theo phương pháp tam đoạn luận.
Những bộ phận khuyết thiếu rất có thể được tìm thấy dễ dàng bằng cách nhận
biết rằng rất nhiều tranh luận của chúng ta đều theo dạng tam đoạn luận cổ điển của
Aristotle, đây là một ví dụ về nó:
[phần giữa] [phần chính]
Tất cả đàn ông đều phải chết
----------- [phần giữa]
Socrates là đàn ông.
[ý phụ] ---- [ý chính]
Socrates phải chết.
Những tranh luận như thế chứa ba hoặc duy nhất ba bộ phận chính hoặc thuật
ngữ. Trong ví dụ trên, đó là Socrates, cái chết tất yếu, và đàn ông. Chủ đề của kết
luận của một tranh luận như thế được goi là thuật ngữ phụ, khẳng định lo-gic của kết
luận được gọi là thuật ngữ chính, và thuật ngữ còn lại, cái mà xuất hiện trong mỗi
tiền đề của tranh luận nhưng không trong kết luận được gọi là thuật ngữ chuyển
tiếp. (Chú ý rằng từ "xác nhận" trong văn cảnh này được dùng khác với khi chúng ta
dùng để thảo luận về ngữ pháp). Tranh luận chỉ ra rằng làm thế nào mà từ chủ ngữ
(Socrates) và từ xác nhận mang tính lo-gic (phải chết) lại liên kết với nhau thông qua
cách thức mà mỗi từ liên kết với từ trung gian (đàn ông).
Dù chỉ biết chút ít về phương pháp tam đoạn luận cổ điển, chúng ta có thể tìm
ra những phần khuyết thiếu của chúng khá đơn giản. Ví dụ, trong tranh luận "Đây là
những thức ăn tự nhiên, vì thế chúng tốt cho bạn" có thể thiết lập theo phương pháp
tam đoạn luận như sau:
……………………. [phần giữa]
Những thức ăn này là thức ăn tự nhiên.
[ý phụ]…………..[ý chính]
Những thức ăn này tốt cho bạn.
Sáng tỏ ngay lập tức phần khuyết thiếu phải là cái gì: một tiền đề chứa đựng
thuật ngữ chính và thuật ngữ trung gian. Phần khuyết thiếu là: tất cả những thức ăn
tự nhiên (từ trung gian) là tốt cho bạn (phần chính).
BẢN CHẤT VÀ PHẠM VI CỦA LO-GIC
Trang 15
Lý luận giỏi
Vũ Thắng dịch
6. Làm Nổi Bật những Thành Phần Khả Nghi
Trong hoàn cảnh của tranh luận, một thành phần bị nghi ngờ nếu nó được nêu
ra để chuyển tải nhiều điều hơn khả năng của nó. Những thành phần như thế thường
khơi gợi những nghi ngờ của chúng ta, nhưng lại có xu hướng để lại cho chúng ta
những mất mát để làm thế nào đáp trả. Chúng ta sẽ kiểm tra chúng một cách rất chi
tiết trong phần 2. Tuy nhiên, bởi vì những thành phần đáng nghi lại có mặt khắp nơi
và thường gây những ảnh hưởng mạnh mẽ đến chúng ta, nên điều rất quan trọng là
chúng ta biết rõ về chúng một cách sớm ngay từ những điểm đầu tiên trong công việc
của chúng ta về việc tranh luận.
Để quyết định một tranh luận có chứa những thành phần đáng nghi hay không,
chúng ta cần hỏi những câu hỏi như: từ ngữ của tranh luận này có sáng sủa để chúng
ta biết chắc chắn những gì bản thân anh ta hay cô ta cam kết? Có phải những sự thật
được trình bày để hỗ trợ hiệu quả của kết luận như là một hỗ trợ? Chúng có thích
đáng không? Chúng ta có chấp nhận chúng là đúng không? Cụ thể hơn, những minh
hoạ có thích hợp không? Chúng có ý nghĩa không? Và ở mức độ nào? Những vấn đề
đáng được xây dựng hơn là đơn giản quẳng vào sọt rác của những thứ phát ngán?
Ví dụ hãy đề cập đến lá thư gửi cho biên tập cho buổi nhậm chức Tổng
Thống:
"Để đáp lại những lá thư phản đối việc trình bày phô trương và sử dụng
tiền nong sai mục đích quá đáng để thực hiện lễ nhậm chức của Tổng Thống,
tôi muốn nhắc nhở những người phản đối rằng từ những thời điểm không thể
ghi nhớ, quần chúng sùng bái đã chào mừng những người lãnh đạo chính quyền
hết sức trang trọng. Vậy thì tại sao Tổng Thống của liên bang lại nên tổ chức
buổi lễ của ông ở văn phòng trong trang phục đáng vứt đi và bụi bặm? Vẻ tráng
lệ và nghi lễ và sự thể hiện của quần áo lộng lẫy, trang sức, đồ lông thú và
những thứ rực rỡ khác đã đi vào lịch sử như là một phần không thể thiếu của
những lễ đăng quang, không chỉ ở Quốc Gia Hoa Kỳ mà còn ở hầu hết những
nơi của thế giới tự do."
Điều mà người viết thất bại là khi sự thực là Tổng Thống và những người lãnh
đạo của "thế giới tự do" là lãnh đạo của chính quyền, có một điều khác biệt thiết yếu
giữa Tổng Thống của Hoa Kỳ và các lãnh đạo của các quốc gia khác. Khi văn phòng
của Tổng Thống được thành lập, cuộc cách mạng của người Mỹ là nỗi đau đầu của
nhà vua; họ đã không có dự định thành lập một thể chế quân chủ với chức vị Tổng
Thống thay thế vua. Không giống như các chế độ quân chủ, Tổng Thống được lựa
chọn bằng bỏ phiếu của quần chúng và bị coi là người đầy tớ của nhân dân. Vì thế sẽ
không có chuyện dùng làm lễ nhậm chức của Tổng Thống rênh rang và hậu hỹ như
được tổ chức cho các lãnh đạo chính quyền khác. Bài báo sau cũng có tính nghi vấn
tương tự, nhưng vì những lý do khác:
Trang 16
Lý luận giỏi
"Trước nhất ông Thompson, ông nghĩ ông là thằng quái nào? Ai cho ông cái
quyền tối cao trong cuộc sống ở cái trường đại học này? Phải chính ông, cũng
giống như bất cứ ai, đã cho mình cái quyền làm theo ý mình, nhưng những lời
bình phẩm vô giáo dục và ngu ngốc của ông đáng được giới hạn Bởi Ban Điều
Tra Quốc Gia. Sự tấn công vô nghĩa của ông vào hệ thống người Hy Lạp của
trường đại học có một tiếng tăm hiếm có là việc trẻ con nhất, lố bịch nhất, đấy
còn là không đề cập đến phần ngu xuẩn thực sự của văn phong ở những trang
này đã được in rất lâu. Thái độ trẻ con của ông không chỉ xúc phạm đến mọi
thành viên của Row mà còn toàn thể cái trường đại học này. Mặc dù cái đầu óc
trẻ con của ông từ chối thừa nhận nó, trường đại học này trong thực tế rất tự
hào về cộng đồng của người Hy Lạp ở đây thậm chí cả với những nhược điểm
của nó."
Hơn là kể cho chúng ta quan điểm của ông Thompson là gì và chúng sai ở đâu,
người viết đã lao vào cuộc tấn công cá nhân, đơn giản bằng cách xổ ra cơn thịnh nộ
và khinh miệt của anh ta. Bằng cách gọi những quan sát của đối thủ là "không có giáo
dục", "ngu ngốc," "vô nghĩa", "lố bịch," vv…, chẳng kể cho chúng ta điều gì về lời
bình phẩm kia cả, và cùng chẳng vì sao mà người viết cho là chúng không có giá trị.
Chúng ta chẳng cần phải là bậc thầy trong nghệ thuật lập luận cũng biết rằng
sự đúng đắn của chúng ta trong tranh luận . Vì thế, chúng ta không nên chần chừ trong
việc yêu cầu bằng chứng khi một phần trình bày hay giải thích dường như quá bừa
bãi hoặc đáng ngờ. Ví dụ, hãy xem xét phần tranh luận của người được uỷ quyền bảo
vệ trong tình huống lạm dụng trẻ em ở trường McMartin được báo cáo dưới đây:
Một nhân chứng mười tuổi trong vụ quấy rối ở trường trung học cơ sở
McMartin đã bình tĩnh nhớ lại ngày thứ ba đến ba lần kể từ khi cậu bị cho là thủ
phạm giết một con ngựa một tuần trước đó khi cậu và những bạn trẻ khác bị buộc
phải chứng kiến.
Trong ngày đối chất, cả ngày thứ bốn của kỳ đối chất, cậu bé nói, trong
một cuộc dạo chơi cánh đồng ở gần một trang trại không xác định, người bảo
vệ Raymond Buckey, 26 tuổi, đã xẻ đôi một con ngựa con bằng một con dao dài 2
foot, anh ta dùng nó như một cái rìu.
"Anh ta chặt nó ra" cậu bé kể với người được uỷ quyền Bradley
Brunnon, người đại diện cho người sáng lập Virginia McMartin, 77 tuổi.
"Thậm chí là ra từng mảnh, đúng không?" Brunon hỏi.
"Phải" cậu bé trả lời.
Brunon cho in ra những chi tiết.
Khi được hỏi Buckey đã đâm bao nhiêu nhát vào con ngựa sau khi nó ngã,
đứa bẻ trả lời "Cháu không đếm"
Trang 17
Lý luận giỏi
Khi được hỏi Buckey vấy đầy máu sau khi giết con ngựa, nó trả lời "cháu
không biết, cháu không nhìn Ray, cháu nhìn con ngựa"
Bên nguyên đã phản đối tác dụng những câu hỏi chi tiết của người được
uỷ quyền bảo vệ, kêu gọi chất vấn sự không ăn khớp, nhắc đi nhắc lại và đáng
tranh luận
Tuy nhiên, người được uỷ quyền bảo vệ đấu tranh cho rằng những câu
hỏi như thế là cần thiết để chỉ ra rằng đứa trẻ hoặc là đang kể chuyện hoặc là
có một ký ức mơ hồ, và họ chỉ rằng đứa trẻ thường xuyên trả lời là "cháu
không nhớ" hoặc là "cháu không biết".
"Nếu nó thực sự đã nhìn thấy sự kiện hãi hùng đó, nó sẽ phải nhớ chi tiết
của nó", Brunon nói với quan toà trong một trong những cuộc tranh luận của
ngày thứ ba về các câu hỏi.
Rõ ràng, trong quan điểm của người được uỷ quyền Brunon, lời khai của đứa
trẻ sẽ bị nghi ngờ không tuỳ thuộc vào việc nếu đứa trẻ có thể nhớ một cách chi tiết
hay không (mà chắc chắn là nó sẽ nhớ hoặc không nhớ): nếu đứa trẻ nhớ các chi tiết,
đặc biệt là không có mớm chước đó, thì Brunon sẽ phản đối là đứa trẻ đang bịa (hoặc
là được mớm bởi bố mẹ nó hay bên bên nguyên), còn nếu đứa trẻ không nhớ, Brunon
sẽ phê bình là đữa trẻ đã có một ký ức mơ hồ, điều này sẽ làm cho bản cung khai của
đứa trẻ có chút gì nghi vấn. Đặc biệt là điều đáng nghi vấn là cách bảo vệ của Bruno
rằng nếu "đứa trẻ đã nhìn thấy sự việc khủng khiếp đó, nó sẽ phải nhớ các chi tiết".
Đó là việc Bruno tin tưởng rằng có cái gì khủng khiếp như việc xẻ đôi một con ngựa
đã gây sốc đối với đứa trẻ đến nỗi mà mọi chi tiết của vụ mổ thịt, ăn sâu một cách
mạnh mẽ vào tâm trí của đứa bé mãi mãi. Nhưng điều đó có thể không luôn luôn đúng.
Có nhiều trường hợp đối với người ta, đặc biệt là trẻ con, kìm nén những ký ức về
các sự kiện quá khủng khiếp với họ để có thể nghĩ lại. Cũng có thế là trong những
khoảng thời gian nhất định, đứa trẻ sẽ nhớ các sự kiện cơ bản nhưng không được chi
tiết. Nó có thể không tham sự vào tất cả các chi tiết của vụ xẻ thịt và không thể hồi
tưởng lại chúng sau đó. Vì thế các kết luận của Brunon không được đảm bảo.
7. Đánh Giá các Tranh Luận: Đúng, Giá Trị và Hợp Lý
Thỉnh thoảng, người ta được nghe là, "nó có thể lo-gic đấy nhưng không đúng,"
hoặc là "tất cả những gì đúng không phải luôn luôn lo-gic." Cả hai cách nhìn này đều
đúng, tất nhiên chúng không có nghĩa là lo-gic là không liên quan đến sự thật. Thực tế,
lo-gic định nghĩa sự thật một cách nghiêm ngặt và nó tách biệt với hai khái niệm khác
là hợp lý và giá trị, thỉnh thoảng nó cũng lẫn lộn với chúng trong bản gốc. Ba khái
niệm này cùng nhau tạo ra một cơ sở để đánh giá bất kỳ tranh luận nào.
Aristotle, người đã thiết lập khoa học của lo-gic trong thế kỷ thứ tư trước công
nguyên, là người đầu tiên phát hiện ra sự khác biệt giữa sự thật và tính hợp lý. Có lẽ
đây là cống hiến quan trọng của ông đối với lĩnh vực này.
Trang 18
Lý luận giỏi
Tính chất giá trị đề cập đến tính đúng đắn mà kết luận rút ra từ những tiền đề
của nó -- liệu những kết luận có phụ thuộc vào chúng hay không. Mặt khác, sự thật
lại đề cập liệu những tiền đề và kết luận đó có phù hợp với thực tế không. Vì thế, có
thể trong lý luận, bắt đầu với những tiền đề đúng đắn nhưng lại đạt được những kết
luận sai (bởi vì chúng ta đã lập luận tồi với những tiền đề đó) hoặc là lập luận đúng,
có giá trị nhưng lại không đạt được kết luận thực tế nào (bởi vì những tiền đề của
chúng ta là sai). Tính hợp lý đạt được khi những tiền đề của một tranh luận là đúng và
những kết luận của nó được tạo ra có giá trị từ chúng. Còn nếu không, tranh luận là
không hợp lý. Đúng đắn và sai lầm, hợp lý và không hợp lý, có thể kết hợp xuất hiện
rất nhiều trong những tranh luận, tạo ra bốn khả năng sau đây:
1. Chúng ta có thể có thực tế đúng (những tiền đề của chúng ta là đúng), và
chúng ta có thể sử dụng chúng đúng cách (những suy diễn của chúng ta có giá trị).
Trong một tình huống như thế, không chỉ có tranh luận của chúng ta là hợp lý mà kết
luận cũng đúng. Toàn bộ tranh luận sẽ có cơ sở và hợp lý.
a) Tất cả đàn ông đều sẽ chết.
Socraté là một người đàn ông.
Vì thế, Socrates sẽ chết.
2. Chúng ta có thể có thực tế đúng đắn (những tiền đề của chúng ta là đúng
đắn), nhưng chúng ta có thể sử dụng chúng không thích đáng (lý lẽ thiếu giá trị).
Trong trường hợp này, kết luận của chúng ta sẽ không hữu hiệu và toàn bộ tranh luận
là không đúng.
b) Tất cả mèo đều là động vật.
Tất cả lợn đều là động vật.
Vì thế tất cả lợn đều là mèo.
Trong một số trường hợp, kết luận của những tranh luận có thể ngẫu nhiên
đúng, như trong trường hợp sau:
c) Tất cả mèo đều là động vật.
Tất cả hổ đều là đều là động vật.
Vì thế tất cả hổ đều là mèo.
Trong những trường hợp như thế này, chúng ta không thể xác định sự thật của
kết luận từ tranh luận. Kết luận có thể đúng nhưng không phải là đúng trên cơ sở bảo
vệ của tranh luận này.
Trang 19
Lý luận giỏi
3. Chúng ta có thể có thực tế sai (một hay nhiều tiền đề của chúng ta là sai),
nhưng chúng ta có thể sử dụng chúng thích đáng (lập luận có giá trị). Trong trường
hợp này, lý luân có giá trị nhưng kết luận không hợp lý.
d)Tất cả những siêu sao điện ảnh đều sống ở Hollywood.
Robert Redford là một siêu sao điện ảnh.
Vì thế Robert Redford sống ở Hollywood.
Ở đây, tuyên bố thứ nhất sai rõ ràng, mặc dù lập luận có giá trị và kết luận có
theo những tiền đề. Như trường hợp 2 ở trên, kết luận có thể đúng nhưng chúng ta
không thể xác định tính đúng đắn của nó trong hoàn cảnh của tranh luận đó. Nó có thể
đúng mặc dù tiền đề thứ nhất là sai, nói cách khác, nó có thể sai mặc dù lập luận
đúng. Để đạt được kết luận mà chúng ta có thể cho là đúng, sẽ không đủ nếu chỉ lập
luận đúng, chúng ta phải làm điều đó từ những tiền đề đúng đắn.
4. Cuối cùng, có tình huống mà một hoặc nhiều tiền đề của chúng ta là sai và
chúng ta cũng sử dụng chúng không đúng cách (lập luận thiếu giá trị). Trong trường
hợp như thế, tranh luận vừa không hợp lý và kết luận không đúng.
e) Tôi thích khoá học này
Tất cả các kỳ thi chung kết đều dễ.
Vì thế, tôi sẽ nhận được thứ hạng cao trong khoá học.
Bốn dạng của tranh luận:
Tiền
+ Lý Luận = Kết Luận
Đề
Đúng Giá Trị Hợp Lý
Thiếu Giá
Đúng Không hợp lý
Trị
Sai Giá Trị Không hợp lý
Thiếu Giá
Sai Không hợp lý
Trị
Đúng đắn và sai lầm là mô tả thuộc tính của bản thân các mệnh đề.
Giá trị và thiếu giá trị đề cập đến việc lập luận và được xác định độc lập với
tính đúng hoặc sai lầm của các tiền đề hoặc kết luận của tranh luận
Nếu lý luận có giá trị, một cuộc tranh luận có các tiền đề đúng, thì tranh luận
đó chắc chắn có cơ sở, lý luận hợp lý. Nếu không, nó chắc chắn không có cơ sở. Vì
Trang 20