Luận văn: Tổng luận về công nghệ xử lý chất thải rắn của một số nước và ở Việt Nam
Tổng luận về công nghệ xử lý chất thải rắn của một số nước và ở Việt Nam cung cấp thông tin về việc lựa chọn phương pháp xử lý chất thải rắn phù hợp với tình hình cụ thể của từng địa phương. Hi vọng tài liệu sẽ cung cấp thông tin cho việc lựa chọn phương pháp xử lý chất thải rắn phù hợp với tình hình cụ thể của từng địa phương, góp phần bảo vệ bảo vệ môi trường phát triển kinh tế bền vững ở nước ta. Mời các bạn cùng tham khảo.
Luận văn
Tổng luận về Công nghệ
Xử lý Chất thải rắn của
một số nước và ở Việt Nam
1
Mục Lục
LỜI GIỚI THIỆU............................................................................................... 3
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT ................................................................................. 4
I. ĐẶT VẤN ĐỀ ................................................................................................ 5
II. KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI VÀ XỬ LÝ ....................................................... 6
1. Khái niệm về chất thải .................................................................................... 6
2. Phân loại chất thải .......................................................................................... 6
3. Xử lý chất thải ................................................................................................ 7
Hình 2: Quy trình công nghệ ủ sinh học quy mô công nghiệp ..................... 8
III. CHẤT THẢI RẮN TRÊN THẾ GIỚI VÀ TÌNH HÌNH XỬ LÝ ................ 12
1. Tình hình chung trên thế giới ....................................................................... 12
2. Tình hình xử lý chất thải rắn của một số nước .............................................. 18
3. Công nghệ xử lý chất thải làm phân bón ở một số nước ............................... 27
Phương pháp khí hoá .............................................................................. 31
IV. HIỆN TRẠNG CHẤT THẢI RẮN Ở VIỆT NAM VÀ TÌNH HÌNH XỬ LÝ
......................................................................................................................... 33
1. Tình hình phát sinh....................................................................................... 33
Lượng chất thải phát sinh ở Việt Nam năm 2003 ................................ 34
2. Tình hình quản lý ......................................................................................... 36
3. Tình hình xử lý ............................................................................................. 39
4. Đánh giá chung về công nghệ xử lý chất thải sử dụng ở Việt Nam ............... 46
V. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ .............................................................. 47
1. Kết luận ........................................................................................................ 47
2. Khuyến nghị ................................................................................................. 48
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 50
2
LỜI GIỚI THIỆU
Hiện nay, việc quản lý chất thải đô thị ở Việt Nam cũng như trong thế
giới phát triển đang đặt ra thách thức lớn chưa từng có. Việc áp dụng các
chính sách đặc thù cho mỗi quốc gia để quản lý chất thải là biện pháp hữu
hiệu, cần thiết để đối phó với tình trạng này. Tuy nhiên, quản lý chất thải là
vấn đề toàn cầu và là yếu tố quyết định để tạo ra các công nghệ xử lý phù
hợp mang lại hiệu quả. Vì vậy, điều quan trọng là phải hướng tới xây dựng
một hệ thống chất thải chung, bao gồm từ khâu xử lý ban đầu đến khâu sử
dụng cuối cùng.
Trung tâm Thông tin KH&CN Quốc gia giới thiệu Tổng luận về Công
nghệ Xử lý Chất thải rắn của một số nước và ở Việt Nam, hy vọng tài
liệu này sẽ cung cấp thêm thông tin cho việc lựa chọn phương pháp xử lý
chất thải rắn phù hợp với tình hình cụ thể của từng địa phương, góp phần
bảo vệ bảo vệ môi trường phát triển kinh tế bền vững ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay.
Trung tâm Thông tin KH&CN Quốc gia
3
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
Nội dung Chữ viết tắt
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá CNH,HĐH
1
Chất thải rắn
2 CTR
Chất thải rắn đô thị CTRĐT
3
Chất thải điện tử CTĐT
4
Sản xuất nhiên liệu từ chất thải
5 RDF
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế
6 OECD
Các tổ chức phi chính phủ
7 NGOs
Ngân hàng Thế giới
8 WB
Hệ thống kết hợp điện và nhiệt
9 CHP
10 Cơ quan Bảo vệ môi trường Hồng Kông EPD
11 Cơ quan Bảo vệ môi trường Thụy Điển EPA
4
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước,
nhiệm vụ bảo vệ môi trường luôn được Đảng và Nhà nước ta coi trọng. Trong tiến
trình hội nhập, công tác bảo vệ môi trường là một điều kiện tiên quyết để Việt Nam
nâng tầm, hội nhập với thế giới. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 -
2010 được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, thông qua cũng đã khẳng
định: "Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”.
Trong trong thời gian gần đây, hệ thống chính sách, thể chế ở nước ta từng bước
được xây dựng và hoàn thiện, phục vụ ngày càng có hiệu quả cho công tác bảo vệ môi
trường. Cùng với sự ra đời của Luật Bảo vệ môi trường, Bộ Chính trị (Khoá VIII)
cũng đã ban hành Nghị quyết số 41 NQ/TƯ; Chỉ thị số 36 - CT/TƯ về tăng cường
công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ CNH, HĐH. Thủ tướng Chính phủ cũng đã
có những văn bản, chỉ thị về bảo vệ môi trường, nhất là ở các đô thị, khu công nghiệp.
Nhận thức về tầm quan trọng của bảo vệ môi trường cũng được các cấp, các ngành,
các tầng lớp nhân dân ngày càng quan tâm; mức độ gia tăng ô nhiễm, suy thoái và sự
cố môi trường đã từng bước được hạn chế.
Tuy nhiên, môi trường nước ta vẫn tiếp tục bị xuống cấp nhanh, có nơi, có lúc đã
đến lúc báo động; đất đai bị xói mòn, thoái hoá; chất lượng các nguồn nước suy giảm
mạnh. Ở nhiều đô thị, khu dân cư, không khí bị ô nhiễm nặng; khối lượng phát sinh và
mức độ độc hại của chất thải ngày càng tăng; điều kiện vệ sinh môi trường, cung cấp
nước sạch không bảo đảm. Tốc độ công nghiệp hoá, đô thị hoá, gia tăng dân số... đã
gây áp lực lớn cho công tác bảo vệ môi trường, nhất là ở các đô thị. Chỉ thị số
23/2005/CT - TTg của Thủ tướng Chính phủ đã nhận định, công tác quản lý chất thải
rắn tại các đô thị và khu công nghiệp vẫn còn nhiều bất cập và yếu kém. Lượng chất
thải rắn thu gom chỉ mới đạt khoảng 70% và chủ yếu tập trung ở nội thị; công nghệ xử
lý chất thải rắn chưa được chú trọng nghiên cứu và chưa hoàn thiện, còn phân tán,
khép kín theo địa giới hành chính; việc đầu tư, quản lý còn kém hiệu quả...
Nhiều địa phương đã nhập khẩu các dây chuyền xử lý rác thải của nước ngoài, tuy
nhiên, hiện công nghệ này chỉ xử lý được rác hữu cơ, còn lại phải chôn lấp khoảng 70
- 80%, chưa kể giá nhập khẩu thiết bị rất cao, vốn đầu tư cho lắp đặt lớn... Cũng đã
xuất hiện những dây chuyền công nghệ xử lý rác do các công ty tư nhân dầu tư, nghiên
cứu, thử nghiệm ở một số địa phương trong nước... Nhưng cho đến nay, vẫn chưa đạt
được kết quả như mong đợi cũng bởi nhiều nguyên nhân khác nhau, cả chủ quan lẫn
khách quan. Phần lớn các doanh nghiệp đều gặp khó khăn về huy động tài chính, song
lại chưa nhận được sự hỗ trợ cần thiết từ ngân sách Nhà nước.
Để tăng cường công tác quản lý Chất thải rắn, ngày 9-4-2007 Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 59/2007/NĐ-CP về quản lý chất thải rắn. Nghị định này áp dụng
đối với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước; tổ chức, cá nhân nước ngoài có hoạt
động liên quan đến chất thải rắn trên lãnh thổ Việt Nam. Đây là điều kiện thuận lợi để
các tổ chức, cá nhân và các doanh nghiệp Việt Nam có thể triển khai, áp dụng một
cách hiệu quả các công nghệ xử lý chất thải rắn phục vụ phát triển bền vững ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay.
5
II. KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI VÀ XỬ LÝ
1. Khái niệm về chất thải
Chất thải là toàn bộ các loại vật chất được con người loại bỏ trong các hoạt động
kinh tế- xã hội, bao gồm các hoạt động sản xuất và hoạt động sống và duy trì sự tồn tại
của cộng đồng. Chất thải là sản phẩm được phát sinh trong quá trình sinh hoạt của con
người, sản xuất công nghiệp, xây dựng, nông nghiệp, thương mại, du lịch, giao thông,
sinh hoạt tại các gia đình, trường học, các khu dân cư, nhà hàng, khách sạn.
Lượng chất thải phát sinh thay đổi do tác động của nhiều yếu tố như tăng trưởng và
phát triển sản xuất, sự gia tăng dân số, quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá và sự phát
triển điều kiện sống và trình độ dân trí.
2. Phân loại chất thải
2.1. Phân loại theo nguồn phát sinh
- Chất thải sinh hoạt: phát sinh hàng ngày ở các đô thị, làng mạc, khu dân cư, các
trung tâm dịch vụ, công viên.
- Chất thải công nghiệp: phát sinh từ trong quá trình sản xuất công nghiệp và thủ
công nghiệp (gồm nhiều thành phần phức tạp, đa dạng, trong đó chủ yếu là các dạng
rắn, dạng lỏng, dạng khí)
- Chất thải xây dựng: là các phế thải như đất đá, gạch ngói, bê tông vỡ, vôi vữa, đồ
gỗ, nhựa, kim loại do các hoạt động xây dựng tạo ra.
- Chất thải nông nghiệp: sinh ra do các hoạt động nông nghiệp như trồng trọt, chăn
nuôi, chế biến nông sản trước và sau thu hoạch.
2.2. Phân loại theo mức độ nguy hại
- Chất thải nguy hại: là chất thải dễ gây phản ứng, dễ cháy nổ, ăn mòn, nhiễm khuẩn
độc hại, chứa chất phóng xạ, các kim loại nặng. Các chất thải này tiềm ẩn nhiều khả
năng gây sự cố rủi ro, nhiễm độc, đe doạ sức khoẻ con người và sự phát triển của động
thực vật, đồng thời là nguồn lan truyền gây ô nhiễm môi trường đất, nước và không
khí
- Chất thải không nguy hại: là các chất thải không chứa các chất và các hợp chất có các
tính chất nguy hại. Thường là các chất thải phát sinh trong sinh hoạt gia đình, đô thị….
2.3. Phân loại theo thành phần
- Chất thải vô cơ: là các chất thải có nguồn gốc vô cơ như tro, bụi, xỉ, vật liệu xây
dựng như gạch, vữa, thuỷ tinh, gốm sứ, một số loại phân bón, đồ dùng thải bỏ gia đình.
- Chất thải hữu cơ: là các chất thải có nguồn gốc hữu cơ như thực phẩm thừa, chất
thải từ lò giết mổ, chăn nuôi cho đến các dung môi, nhựa, dầu mỡ và các loại thuốc
bảo vệ thực vật.
2.4. Phân loại theo trạng thái chất thải
- Chất thải trạng thái rắn: bao gồm chất thải sinh hoạt, chất thải từ các cơ sở chế tạo
máy, xây dựng ( kim loại, da, hoá chất sơn , nhựa, thuỷ tinh, vật liệu xây dựng…)
- Chất thải ở trạng thái lỏng: phân bùn từ cống rãnh, bể phốt, nước thải từ nhà máy lọc dầu,
rượu bia, nước từ nhà máy sản xuất giấy, dệt nhuộm và vệ sinh công nghiệp….
6
- Chất thải ở trạng thái khí: bao gồm các khí thải các động cơ đốt trong các máy
động lực, giao thông, ô tô, máy kéo, tàu hoả, nhà máy nhiệt điện, sản xuất vật liệu…
3. Xử lý chất thải
3.1. Khái niệm về xử lý chất thải
3.1.1. Xử lý chất thải là dùng các biện pháp kỹ thuật để xử lý các chất thải và không
làm ảnh hưởng tới môi trường; tái tạo ra các sản phẩm có lợi cho xã hội nhằm phát huy
hiệu quả kinh tế.
3.1.2. Mục tiêu của xử lý chất thải rắn là giảm hoặc loại bỏ các thành phần không
mong muốn trong chất thải như các chất độc hại, không hợp vệ sinh, tận dụng vật liệu
và năng lượng trong chất thải.
3.2. Các phương pháp xử lý chất thải rắn
- Phương pháp cơ học bao gồm: Tách kim loại, thuỷ tinh; nhựa ra khỏi chất thải;
sơ chế, đốt chất thải không có thu hồi nhiệt; lọc tạo rắn đối với các chất thải bán
lỏng.
- Phương pháp cơ-lý: phân loại vật liệu; thuỷ phân; sử dụng chất thải như nhiên
liệu; đúc ép các chất thải, sử dụng làm vật liệu xây dựng.
- Phương pháp sinh học: chế biến ủ sinh học; mêtan hoá trong các bể thu hồi sinh
học.
Các phương pháp xử lý chất thải có thể khái quát theo sơ đồ hình 1.
Thu gom chất thải
Vận chuyển chất thải
Xử lý chất thải
Ủ sinh học làm Cácphương pháp
Thiêu đốt
Compost khác
Tiêu hủy tại bãi chôn
lấp
Hình 1: Các phương pháp xử lý chất thải rắn
7
3.2.1. Phương pháp ủ sinh học làm phân compost
Phương pháp này thích hợp với loại chất thải rắn hữu cơ trong chất thải sinh hoạt
chứa nhiều cácbonhyđrat như đường, xenllulo, lignin, mỡ, protein, những chất này có
thể phân huỷ đồng thời hoặc từng bước. Quá trinh phân huỷ các chất hữu cơ dạng này
thường xảy ra với sự có mặt của ôxy không khí (phân huỷ hiếu khí) hay không có
không khí (phân huỷ yếm khí, lên men). Hai quá trình này xảy ra đồng thời ở một khu
vực chứa chất thải và tuỳ theo mức độ thông khí mà dạng này hay dạng kia chiếm ưu
thế. Phương pháp ủ sinh học làm phân compost được thể hiện ở hình 2.
Phân tươi
Chất thải rắn
hữu cơ
Cân điện tử
Sàn tập kết
Nhặt thủ công
Bể chứa
Tái chế
Băng phân loại
Nghiền
Máy xúc
Trộn
Cung cấp độ ẩm
Máy xúc
Kiểm soát
Lên men
nhiệt tự động
Thổi khí cưỡng bức
Ủ chín
Sàng
Vê viên
Tinh chế
Đóng bao
Trộn phụ gia N.P.K
Hình 2: Quy trình công nghệ ủ sinh học quy mô công nghiệp
8
3.2.2. Phương pháp thiêu đốt
Xử lý chất thải bằng phương pháp thiêu đốt có thể làm giảm tới mức tối thiểu chất
thải cho khâu xử lý cuối cùng. Nếu áp dụng công nghệ tiên tiến sẽ mang lại nhiều ý
nghĩa đối với môi trường, song đây là phương pháp xử lý tốn kém nhất so với phương
pháp chôn lấp hợp vệ sinh, chi phí để đốt 1 tấn rác cao hơn khoảng 10 lần.
Công nghệ đốt rác thường được sử dụng ở các nước phát triển vì phải có nền kinh tế
đủ mạnh để bao cấp cho việc thu đốt rác thải sinh hoạt như là một dịch vụ phúc lợi xã
hội của toàn dân. Tuy nhiên, việc thu đốt rác sinh hoạt bao gồm nhiều chất thải khác
nhau sẽ tạo ra khói độc đioxin, nếu không xử lý được loại khí này là rất nguy hiểm tới
sức khoẻ.
Năng lượng phát sinh có thể tận dụng cho các lò hơi, lò sưởi hoặc cho ngành công
nghiệp nhiệt và phát điện. Mỗi lò đốt phải được trang bị một hệ thống xử lý khí thải
tốn kém để khống chế ô nhiễm không khí do quá trình đốt gây ra.
Hiện nay, tại các nước châu Âu có xu hướng giảm đốt rác thải vì hàng loạt các vấn
đề kinh tế cũng như môi trường cần phải giải quyết. Việc thu đốt rác thải thường chỉ
áp dụng cho việc xử lý rác thải độc hại như rác thải bệnh viện hoặc rác thải công
nghiệp vì các phương pháp xử lý khác không thể xử lý triệt để được. Phương pháp
thiêu đốt được thể hiện ở hình 3.
3.2.3. Phương pháp chôn lấp
Phương pháp này chi phí thấp và được áp dụng phổ biến ở các nước đang phát triển.
Việc chôn lấp được thực hiện bằng cách sử dụng xe chuyên dùng chở rác tới các bãi đã
xây dựng trước. Sau khi rác được đổ xuống, dùng xe ủi san bằng, đầm nén trên bề mặt
và đổ lên một lớp đất. Hàng ngày phun thuốc diệt muỗi và rắc vôi bột…. Theo thời
gian, sự phân hủy vi sinh vật làm cho rác trở lên tơi xốp và thể tích của các bãi rác
giảm xuống. Việc đổ rác tiếp tục cho đến khi bãi đầy thì chuyển sang bãi mới. Hiện
nay, việc chôn lấp rác thải sinh hoạt và rác thải hữu cơ vẫn được sử dụng ở các nước
đang phát triển, nhưng phải tuân thủ các quy định nghiêm ngặt về bảo vệ môi trường.
Việc chôn lấp chất thải có xu hướng giảm dần, tiến tới chấm dứt ở các nước đang phát
triển. Các bãi chôn lấp rác thải phải được đặt cách xa khu dân cư, không gần nguồn
nước mặt và nước ngầm. Đáy của bãi rác nằm trên tầng đất sét hoặc được phủ một lớp
chống thấm bằng màng địa chất. Ở các bãi chôn lấp rác cần thiết phải thiết kế khu thu
gom và xử lý nước rác trước khi thải ra môi trường. Việc thu khí gas để biến đổi thành
năng lượng là một trong những khả năng thu hồi một phần kinh phí đầu tư cho bãi rác.
Phương pháp này có các ưu điểm như: công nghệ đơn giản; chi phí thấp, song nó
cũng có một số nhược điểm như: chiếm diện tích đất tương đối lớn; không được sự
đồng tình của dân cư xung quanh; việc tìm kiếm xây dựng bãi chôn lấp mới là khó
khăn và có nguy cơ dẫn đến ô nhiễm môi trường nước, không khí, gây cháy nổ.
9
Hình 3: Hệ thống thiêu đốt chất thải
Chất thải công Chất thải đường
Rác thải sinh hoạt
Dầu cũ Bùn cống
nghiệp phố
Kho chứa
Chôn
Phân loại
Ủ sinh học làm
compost
Dầu cũ
Gia công nghiền
nhỏ
Bùn
Trộn
Nước
Bunke
Cặn, chất không Sản xuất hơi
cháy Thiết bị đốt
Nhiệt
Khí thải
Bunke
Xử lý khí
Xử lý hoàn thiện
Ép
sắt
vụn
Ống khói
10
3.2.4. Các phương pháp xử lý khác
- Xử lý chất thải bằng công nghệ ép kiện
Rác thu gom tập trung về nhà máy chế biến được phân loại bằng phương pháp thủ
công trên băng tải. Các chất trơ và các chất có thể tận dụng được như : Kim loại, nilon,
giấy, thủy tinh, nhựa…. được thu hồi để tái chế. Những chất còn lại sẽ được băng tải
chuyển qua hệ thống ép nén rác bằng thủy lực với mục đích giảm tối đa thể tích khối
rác và tạo thành các kiện có tỷ số nén cao (hình 4). Các khối rác ép này được sử dụng
vào việc san lấp, làm bờ chắn các vùng đất trũng.
Kim loại
Thủy tinh
Phễu nạp
Rác thải Băng tải rác Phân loại
rác
Giấy
Nhựa
Các khối kiện sau Băng tải thải
vật liệu
khi ép Máy ép rác
Hình 4: Công nghệ xử lý chất thải bằng phương pháp ép kiện
- Xử lý chất thải bằng công nghệ Hydromex
Công nghệ Hydromex (hình 5) nhằm xử lý rác đô thị thành các sản phẩm phục vụ
xây dựng, làm vật liệu, năng lượng và các sản phẩm nông nghiệp hữu ích.
Bản chất của công nghệ Hydromex là nghiền nhỏ rác, sau đó polyme hóa và sử
dụng áp lực lớn để ép nén, định hình các sản phẩm. Rác thải được thu gom chuyển về
nhà máy, không cần phân loại được đưa vào máy cắt, nghiền nhỏ, sau đó đi qua băng
tải chuyển đến các thiết bị trộn.
11
Chất thải rắn chưa Kiểm tra bằng mắt
phân loại
Cắt xé hoặc nghiền nhỏ
Chất thải lỏng hỗn hợp
Làm ẩm
Thành phần Polyme Trộn đều
hóa
Ép hoặc đùn
Sản phẩm mới
Hình 5: Xử lý chất thải theo công nghệ Hydromex
III. CHẤT THẢI RẮN TRÊN THẾ GIỚI VÀ TÌNH HÌNH XỬ LÝ
1. Tình hình chung trên thế giới
Ước tính hàng năm lượng chất thải được thu gom trên thế giới từ 2,5 đến 4 tỷ tấn
(ngoại trừ các lĩnh vực xây dựng và tháo dỡ, khai thác mỏ và nông nghiệp). Năm
2004, tổng lượng chất thải đô thị được thu gom trên toàn thế giới ước tính là 1,2 tỷ tấn.
Con số này thực tế chỉ gồm các nước OECD và các khu đô thị mới nổi và các nước
đang phát triển.
Thu gom chất thải rắn đô thị trên toàn thế giới năm 2004 (triệu tấn)
Các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế OECD 620
Cộng đồng các quốc gia độc lập (trừ các nước ở biển Ban tích) 65
Châu Á (trừ các nước thuộc OECD) 300
Trung Mỹ 30
Nam Mỹ 86
Bắc Phi & Trung Đông 50
Châu Phi cận Sahara 53
Tổng số: 1.204
Nếu các số liệu trên đổi thành đơn vị tấn chất thải rắn được thu gom mỗi năm trên
đầu người, thì tại các khu đô thị ở Hoa Kỳ có đến hơn 700 kg chất thải và gần 150 kg
ở Ấn Độ. Tỷ lệ phát sinh chất thải đô thị cao đó là; Hoa Kỳ tiếp sau là Tây Âu và
12
Ôxtrâylia (600-700 kg/người), sau đó đến Nhật Bản, Hàn Quốc và Đông Âu (300-
400kg/người).
Thị trường chất thải đô thị có giá trị cao nhất là Hoa Kỳ với 46,5 tỷ USD, sau đó là
châu Âu với 36 tỷ USD và Nhật Bản là 30,5 tỷ. Chưa đánh giá được chính xác chất
thải công nghiệp. Hiện nay chưa có dữ liệu về chất thải của Liên bang Nga và những
con số ước tính lượng chất thải của Trung Quốc là chưa chính xác. Ngoài ra, chưa có
định lượng rõ ràng về chất thải công nghiệp ở Hoa Kỳ. Chất thải nguy hại thậm chỉ
còn khó đánh giá hơn, đặc biệt là do danh mục chất thải nguy hại vẫn đang được bổ
sung, đặc biệt là ở châu Âu.
Hiện nay, chất thải được tái chế bằng nhiều cách vừa biến thành năng lượng lẫn thu
hồi nguyên liệu, và những thị trường thứ cấp đang xuất hiện ngày càng nhiều trên
phạm vi toàn cầu. Trên thế giới, ước tính sơ bộ khối lượng nguyên liệu thứ cấp được
trao đổi là 135 triệu tấn. Các nguyên liệu thứ cấp hiện là một trong những dòng
nguyên liệu quan trọng nhất trên toàn thế giới.
Loại hình thu gom và xử lý chất thải đô thị theo thu nhập mỗi nước
Các nước thu nhập thấp Các nước thu nhập trung Các nước có thu nhập
(Ấn Độ, Ai Cập-các bình (Ắchentina-Đài cao (Hoa Kỳ-15 nước
nước châu Phi) Loan (TQ) - Singapo- EU-Hồng Kông)
Thái Lan - EUNMS10)
GDP (USD/người/năm) 20.000
Tiêu thụ giấy/bìa trung 20 20-70 130-300
bình (kg/người/năm)
Chất thải đô thị 150-250 250-550 350-750
(kg/người/năm)
Tỷ lệ thu gom % 95
Các quy định về chất Không có Chiến lược môi Chiến lược môi trường Chiến lược môi trường
thải trường quốc gia quốc gia quốc gia
Các quy định hầu như Cơ quan môi trường quốc Cơ quan môi trường quốc
không có gia gia
Không có số liệu thống Luật môi trường Các quy định chặt chẽ và
Một vài số liệu thống kê cụ thể
kê
Nhiều số liệu thống kê
Thành phần chất thải
đô thị (%)
Chất thải thực 50-80 20-65 20-40
phẩm/dễ phân hủy
Giấy và bìa 4-15 15-40 15-50
Nhựa 5-12 7-15 10-15
Kim loại 1- 5 1- 5 5- 8
Thủy tinh 1- 5 1- 5 5- 8
Độ ẩm (%) 50-80 40-60 20-30
Nhiệt trị (kcal/kg) 800-1.100 1.100-1.300 1.500-2.700
Phương pháp xử lý Điểm chứa chất thải bất Bãi chôn lấp >90% Thu gom có chọn lọc
hợp pháp >50% Bắt đầu thu gom có chọn Thiêu đốt
Tái chế không chính lọc Tái chế >20%
thức 5%-15% Tái chế có tổ chức 5%
13
Biến chất thải thành năng lượng: là nhiệm vụ của họat động triển khai sử dụng tài
nguyên tái tạo, giảm các khí nhà kính và phát triển thị trường cácbon. Thiêu đốt chất
thải có thu hồi năng lượng bao gồm xử lý chất thải để sản xuất năng l ượng cung cấp
cho các nhà máy và nhà ở. Năng lượng sản xuất ra nhiều hơn năng lượng được sử
dụng để vận hành lò đốt.
Hiện nay có hơn 600 lò đốt chất thải thu hồi năng lượng ở 35 nước. Các thiết bị này
xử lý 170 triệu tấn chất thải đô thị. Đó là nguồn năng lượng tương đương với 220 triệu
thùng dầu hay 600.000 thùng/ngày. Hoa Kỳ tiêu thụ 20 triệu thùng dầu/ngày. Năng
lượng được sản xuất từ 400 lò đốt chất thải ở châu Âu cung cấp điện cho 27 triệu dân
hay cung cấp nhiệt cho 13 triệu dân. Thị trường đốt chất thải ở châu Âu ước tính trị giá
9 tỷ USD. Một Chỉ thị của châu Âu đề ra mục tiêu đến năm 2010, tổng tiêu thụ năng
lượng nội địa là 12% và sản xuất 22,1% điện năng bằng tài nguyên tái tạo. Các bãi
chôn lấp hiện đại nhất cho phép sản xuất khí biogas thông qua việc lên men chất thải,
có thể tái sử dụng dưới dạng điện năng. Ở Hoa Kỳ có 340 trong số 2975 bãi chôn lấp
thu hồi khí biogas và xử lý chất thải có liên quan đến vấn đề giảm các khí nhà kính.
Tiết kiệm tài nguyên: Tiết kiệm tài nguyên là một trong những lợi ích chủ yếu của
họat động thu hồi và tái chế chất thải. Lợi ích nữa của tái chế là giảm các ảnh hưởng
liên quan đến việc sử dụng và chuyển đổi các nguyên liệu thô.
Các số liệu về lượng chất thải vẫn chưa đầy đủ và một số nguyên liệu được tái sử
dụng trực tiếp không được chuyển qua các thiết bị thu hồi làm cho khó đánh giá.
Những nguyên liệu chính được thu hồi và xử lý để tái sử dụng, bao gồm:
Chất hữu cơ và gỗ
Giấy, bìa cứng
Nhựa
Thủy tinh
Kim loại có chứa sắt & không chứa sắt
Vải dệt
Ắc quy
Chất thải điện và điện tử (CTĐT) & dung môi.
Thu hồi nguyên liệu từ chất thải đô thị ở châu Âu và Hoa Kỳ (nghìn tấn)
Đức 15 nước Hoa Kỳ
Pháp Anh Italia Tây Ban Nha Toàn
EU còn lại châu Âu
Giấy & 8.500 5.200 3.700 2.000 3.500 9.800 32.700 40.000
Thẻ
Nhựa 3.850 350 450 350 310 1.200 6.500 1.930
Thủy 3.300 2.000 1.500 1.000 510 1.690 10.000 2.350
tinh
Kim loại 1.204 1.750 75 278 121 797 3.975 1.750
không
chứa sắt
Tổng số 16.854 9.300 5.725 3.628 4.441 13.487 53.175 46.030
Ắc qui 11.5 9.6 28
Sắt thải 11.000 17.000
từ xe cộ
1. Ước tính: 30% giấy, 20% nhựa và 20% kim loại không chứa sắt được thu hồi ở 15 nước EU còn lại.
2. Giấy và bìa cứng được thu hồi từ chất thải đô thị và công nghiệp
14
Chất thải hữu cơ: Hiện nay ước tính 18 triệu tấn chất thải tươi ở châu Âu được thu
gom và được dùng để sản xuất phân compost. Ngoài ra có 3,5 triệu tấn được xử lý
trong thùng “phân huỷ”. Tỷ lệ thu hồi chất thải hữu cơ ở châu Âu ước tính là 42%.
Chất thải là vải dệt ở Pháp và Đức chiếm chưa đến 5% chất thải đô thị. Khoảng 30-
40% lượng chất thải này được tái sử dụng, 40-50% được tái chế và số còn lại được
chuyển tới bãi chôn lấp. Các chất thải là quần áo cũ trên thế giới đã tăng 10 lần kể từ
những năm 90. Theo ước tính, giá trị của lượng chất thải hiện nay là 1 tỷ USD. Họat
động nhập khẩu vải dệt với giá rẻ chưa từng có từ châu Á đe dọa khu vực tái sử dụng
không chính thức ở châu Phi và ngành công nghiệp tái chế ở châu Âu.
Thị trường nguyên liệu thứ cấp từ chất thải: Năm 2004, thị trường nguyên liệu thứ
cấp toàn cầu đạt 600 triệu tấn với giá trị trên 100 tỷ USD. Thu hồi nguyên liệu được
xem như là biện pháp thích hợp nhất để đối phó với vấn đề quản lý l ượng chất thải
đang gia tăng. Tỷ lệ thu gom có chọn lọc chất thải đô thị và chất thải công nghiệp
không nguy hại đang tăng lên ở tất cả các nước, cao hơn 45% so với chất thải đô thị ở
một số nước châu Âu.
Căn cứ vào các số liệu thống kê về số lượng giấy, nhựa và thủy tinh được thu hồi từ
chất thải đô thị, ước tính lượng chất thải loại này ở châu Âu hiện nay là hơn 50 triệu
tấn. Từ chất thải công nghiệp, tổng lượng chất thải là giấy, nhựa và thủy tinh ở châu
Âu được thu hồi là gần 65 triệu tấn. Khoảng 28.000 tấn pin và ắc quy được thu gom và
tái chế.
Tái chế nhựa và giấy: Tỷ lệ tái chế nhựa ở các nước OECD vẫn thấp với tỷ lệ trung
bình là 15%. Gần 22% nhựa thải được thu hồi để chuyển đổi thành năng lượng.
Lượng chất thải tái chế liên tục tăng và hiện nay ở châu Âu chỉ hơn 3 triệu tấn trong
số 22,5 triệu tấn được tái chế. Thị trường nhựa được thu hồi chiếm tỷ lệ thấp là 169
triệu tấn nhựa được sản xuất trên thế giới vào năm 2003.Tỷ lệ tái chế giấy dao động từ
10% ở Ai len đến 100% ở Áo. Tỷ lệ này ở Liên minh châu Âu tăng từ 41,5% năm
1991 lên 54% năm 2004. Năm 2004, châu Âu có 5,3 triệu tấn sợi xenlulô được tái
chế.
Thị trường kim loại thứ cấp: Lần đầu tiên vào năm 2004, tổng sản lượng thép trên
thế giới đạt 1 tỷ tấn. Sản lượng kim loại vụn đã tăng 450 triệu tấn. Tỷ lệ tái sử dụng
kim loại này có thể ở mức cao từ 60-70%. Năm 2005, hầu hết các kim loại không chứa
sắt đạt mức giá cao kỷ lục đã làm tăng nhu cầu đối với kim loại thứ cấp. Ví dụ, việc
sản xuất nhôm thứ cấp từ nhôm thải chiếm 20% tổng sản lượng (7,6 triệu tấn).
Quản lý các dòng chất thải điện và điện tử là ưu tiên đối với các chính trị gia ở các
nước OECD. CTĐT chứa khối lượng lớn nguyên liệu có khả năng tái chế như kim
loại, thủy tinh, kim loại quý và nhựa. 10 triệu máy tính chứa 135.000 triệu tấn nguyên
liệu có thể thu hồi. Mối lo ngại lớn nhất là khối lượng loại chất thải này ngày càng
tăng.
1.1. Phát sinh chất thải rắn ở châu Á
Châu Á có mức tăng trưởng kinh tế và đô thị hoá nhanh trong vài thập kỷ qua. Vấn
đề chất thải rắn là một trong những thách thức môi trường mà các nước trong khu vực
phải đối mặt. Trừ Trung Quốc, tỷ lệ phát sinh chất thải đô thị của các nước vào khoảng
15
từ 0,5 kg đến 1,5 kg/người/ngày. Tại một số thành phố lớn của Trung Quốc, tỷ lệ này
vào khoảng 1,12 đến 1,2 kg/người ngày. Tỷ lệ phát sinh chất thải rắn đô thị tăng theo
tỷ lệ thuận với mức tăng GDP tính theo đầu người. Chất hữu cơ là thành phần chính
trong chất thải rắn đô thị trong khu vực và chủ yếu được chôn lấp do chi phí rẻ. Các
thành phần khác, như giấy, thuỷ tinh, nhựa tổng hợp và kim loại hầu hết được khu vực
không chính thức thu gom và tái chế.
Theo Ngân hàng Thế giới, các khu vực đô thị của châu Á mỗi ngày phát sinh
khoảng 760.000 tấn chất thải rắn đô thị. Đến năm 2025, con số này sẽ tăng tới 1,8 triệu
tấn/ngày (World Bank, 1999). Chất thải rắn thường được nhóm loại theo chất thải rắn
đô thị và chất thải công nghiệp trên cơ sở nguồn phát sinh. Chất thải rắn và chất thải
rắn đô thị được định nghĩa rất khác nhau giữa các nước và vùng lãnh thổ trong khu
vực. Hàn Quốc, Đài Loan và Nhật Bản quy định chất thải rắn đô thị bao gồm một phần
chất thải công nghiệp. Trong khi đó, Hồng Kông coi chất thải công nghiệp thuộc chất
thải rắn đô thị. Tỷ lệ chất thải gia đình trong dòng chất thải rắn đô thị rất khác nhau
giữa các nước. Theo ước tính, tỷ lệ này chiếm tới 60-70% ở Trung Quốc (Gao et
al.2002), 78% ở Hồng Kông (kể cả chất thải thương mại), 48% ở Philipin và 37% ở
Nhật Bản. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (1999), các nước có thu nhập cao
chỉ có khoảng 25-35 % chất thải gia đình trong toàn bộ dòng chất thải rắn đô thị.
Theo nguyên tắc thì các nước có thu nhập cao có tỷ lệ phát sinh chất thải rắn đô thị
cao. Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây ở các nước đang phát triển cho thấy, tỷ lệ phát
sinh chất thải tính theo các mức thu nhập khác nhau lại không theo nguyên tắc này.
Theo kết quả nghiên cứu của Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA,1997), tỷ lệ
phát sinh chất thải rắn đô thị ở Philipin theo các nhóm người có thu nhập khác nhau là:
thu nhập cao: 0,37- 0,55, thu nhập trung bình: 0,37-0,60 và thu nhập thấp: 0,62-0,90
kg/người/ngày. Tương tự, các kết quả phân tích tỷ lệ phát sinh chất thải rắn đô thị theo
GDP tính trên đầu người của các nước thuộc OECD, Hoa Kỳ và Ôxtrâylia được xếp
vào nhóm các nước có tỷ lệ phát sinh cao; nhiều nước thuộc Liên minh châu Âu được
xếp vào nhóm có tỷ lệ phát sinh trung bình và Thuỵ Điển, Nhật Bản được xếp vào
nhóm có tỷ lệ phát sinh thấp.
Có nhiều nguyên nhân để giải thích các trường hợp này. Thứ nhất là, không thống
kê được đầy đủ tổng lượng thải phát sinh do các hoạt động của khu vực tái chế không
chính thức và do phương thức tự tiêu huỷ chất thải ở các nước đang phát triển. Khu
vực tái chế không chính thức ở các nước đang phát triển đã góp phần đáng kể giảm
thiểu tổng lượng chất thải phát sinh và thu hồi tài nguyên thông qua các hoạt động tái
chế. Thứ hai là, năng lực thu gom của các nước đang phát triển còn thấp. Ví dụ, năng
lực thu gom chất thải rắn độ thị của Ấn Độ là 72,5%; Malaixia: 70%; Thái Lan: 70-
80%; và Philipin: 70% ở đô thị và 40% ở nông thôn.
Trường hợp của Nhật Bản là một ví dụ thành công về tăng trưởng kinh tế và duy trì
tỷ lệ phát sinh chất thải rắn đô thị thấp so với nhiều nước có GDP cao. Năm 2000,
Nhật Bản bắt đầu áp dụng khái niệm mới về xây dựng một “Xã hội tuần hoàn vật chất
hợp lý” hay còn gọi là 3R (Giảm thiểu, Tái sử dụng và Tái chế). Từ những năm 1980,
tỷ lệ phát sinh chất thải rắn đô thị của Nhật Bản đã ổn định ở mức khoảng 1,1
kg/người/ngày.
16
1.2. Thành phần chất thải rắn đô thị
Thành phần chất thải rắn đô thị có xu thế thay đổi do tốc độ tăng trưởng và đô thị
hoá nhanh ở các nước Châu Á. Nói chung, chất hữu cơ vẫn là thành phần chính trong
các dòng chất thải rắn đô thị trong khu vực. Tỷ lệ thành phần hữu cơ chiếm khoảng 34
- 70% cao hơn hẳn hầu hết các nước châu Âu là 20-50% (OECD, 2002).
Do mức sống của nhiều nước trong khu vực được cải thiện, nên thành phần giấy và
nhựa tổng hợp trong chất thải ngày càng tăng. Thành phần giấy trong chất thải của Đài
Loan (TQ) và Nhật Bản chiếm 30% tổng lượng chất thải rắn đô thị. Theo Ngân hàng
Thế giới (1999), các nước có thu nhập cao khác cũng có tỷ lệ giấy trong chất thải cao.
Một số nước như Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ do sử dụng than làm nhiên liệu chủ yếu
để đốt và sưởi, vì vậy thành phần xỉ/tro rất lớn trong các dòng chất thải của hai nước
này.
Tại châu Âu, thành phần chất thải rắn đô thị cũng rất khác nhau giữa các nước theo
vùng địa lý. Các nước Nam Âu như Tây Ban Nha, Italia và Bồ Đào Nha có tỷ lệ chất
thải thức ăn, chất thải vườn cao hơn các nước Bắc Âu như Phần Lan, Đan Mạch, Pháp,
Anh, trong khi tỷ lệ thành phần giấy trong các dòng chất thải đô thị của các nước Bắc
Âu lại nhiều hơn các nước Nam Âu. Ireland và Thụy Sỹ có tỷ lệ thành phần nhự tổng
hợp cao, Pháp và Đức có tỷ lệ thành phần thuỷ tinh cao và Đan Mạch có tỷ lệ thành
phần kim loại cao trong dòng chât thải rắn đô thị.
1.3. Tiêu huỷ chất thải
Đối với các nước châu Á, chôn lấp chất thải rắn vẫn là phương pháp phổ biến để
tiêu huỷ vì chi phí rẻ. Trung Quốc và Ấn Độ có tỷ lệ chôn lấp tới 90%. Tỷ lệ thiêu đốt
chất thải của Nhật Bản và Đài Loan (TQ) vào loại cao nhất, khoảng 60-80%. Hàn
Quốc chiếm tỷ lệ tái chế chất thải cao nhất, khoảng trên 40%.
Các bãi chôn lấp chất thải được chia thành 3 loại: bãi đổ lộ thiên, bãi chôn lấp bán
vệ sinh (chỉ đổ đất phủ) và bãi chôn lấp hợp vệ sinh. Chất lượng của các bãi chôn lấp
chất thải liên quan mật thiết với GDP. Các bãi chôn lấp hợp vệ sinh thường thấy ở các
nước có thu nhập cao, trong khi đó các bãi đổ hở phổ biến ở các nước đang phát triển.
Tuy vậy, các nước đang phát triển đã có nỗ lực cải thiện chất lượng các bãi chôn lấp,
như Thổ Nhĩ Kỳ đã cấm các bãi đổ hở năm 1991 và ấn Độ đã hạn chế chôn lấp các
loại chất thải khó phân huỷ sinh học, chất thải trơ và các loại chất thải có thể tái chế.
Thiêu đốt là phương pháp tiêu huỷ tốn kém về xây dựng và vận hành. Trong 10 năm
qua, lượng chất thải tiêu huỷ bằng phương pháp thiêu đốt chiếm tới 73-78%. Từ cuối
những năm 90, Hàn Quốc và Đài Loan đã áp dụng phương pháp thiêu đốt nhiều hơn
để xử lý chất thải rắn. Do tốn kém, phương pháp thiêu đốt chất thải nói chung không
được chấp nhận ở nhiều nước, thậm chí trường hợp của Philipin cấm thiêu đốt chất
thải rắn đô thị, chất thải y tế và chất thải nguy hại, theo quy định của Đạo luật Không
khí sạch năm 1999, RA8749.
Đối với chất thải hữu cơ, ủ phân compost là phương pháp tiêu huỷ chủ yếu. Ấn Độ
và Philipin ủ phân compost tới 10% lượng chất thải phát sinh. Tại hầu hết các nước, tái
chế chất thải đang ngày càng được coi trọng.
17
2. Tình hình xử lý chất thải rắn của một số nước
2.1. Singapo
Là một nước nhỏ, Singapo không có nhiều diện tích đất để chôn lấp chất thải rắn
như những quốc gia khác nên đã kết hợp xử lý rác bằng phương pháp đốt và chôn lấp.
Cả nước Singapo có 3 nhà máy đốt rác. Những thành phần chất thải rắn không cháy
được chôn lấp ở bãi rác ngoài biển. Bãi chôn lấp rác Semakau được xây dựng bằng
cách đắp đê ngăn nước biển ở một đảo nhỏ ngoài khơi Singapo. Rác thải từ các nguồn
khác nhau sau khi thu gom được đưa đến trung tâm phân loại rác. Ở đây rác được phân
loại ra những thành phần cháy được và thành phần không cháy được. Những chất cháy
được được chuyển tới các nhà máy đốt rác còn những chất không cháy được được chở
đến cảng trung chuyển, đổ lên xà lan để chở ra khu chôn lấp rác. Ở đây rác thải lại một
lần nữa chuyển lên xe tải để đưa đi chôn lấp.
Các công đoạn trong hệ thống quản lý rác của Singapo hoạt động hết sức nhịp
nhàng và ăn khớp với nhau từ khâu thu gom, phân loại, vận chuyển đến tận khâu xử lý
bằng đốt hay chôn lấp. Xử lý khí thải từ các lò đốt rác được thực hiện theo qui trình
nghiêm ngặt để tránh sự chuyển dịch ô nhiễm từ dạng rắn sang dạng khí. Xây dựng bãi
chôn lấp rác trên biển sẽ tiết kiệm được đất đai trong đất liền và mở rộng thêm đất khi
đóng bãi. Tuy nhiên việc xây dựng những bãi chôn lấp rác như vậy đòi hỏi sự đầu tư
ban đầu rất lớn. Mặt khác, việc vận hành bãi rác phải tuân theo những qui trình nghiêm
ngặt để đảm bảo sự an toàn của công trình và bảo vệ môi trường.
2.2. Thái Lan
Mặc dù công tác xử lý chất thải rắn được đánh giá cao là có hiệu quả và an toàn,
song theo bản báo cáo về môi trường ở Thái Lan của năm 2003 thì Thái Lan vẫn còn
rất nhiều vấn đề về chất thải cần phải giải quyết. Bằng những nỗ lực của mình, Thái
Lan đã xây dựng được một cơ sở có thể xử lý khối lượng lớn chất thải đồng thời thành
công trong việc kiểm soát nạn vứt rác bừa bãi tại Băng Cốc. Tuy nhiên, vần còn tình
trạng các loại chất thải bệnh viện và chất thải công nghiệp được đem đi chôn lấp tại
những bãi rác đã cũ và xử lý kém.
Theo Ngân hàng thế giới (WB), thì Thái Lan cần phải triển khai một chương trình
nhằm cải thiện việc xử lý chất thải tại các bệnh viện cũng như các trung tâm lớn của
thành phố. Được biết, hiện tại ở Thái Lan hàng năm có tới khoảng 10.000 chất thải lây
nhiễm bệnh được thải ra. Trong đó chỉ khoảng một nửa được xử lý cẩn thận trước khi
đem chôn. Tỷ lệ tái sản xuất và sử dụng lại các loại chất thải tại Thái Lan hiện giờ
đang có chiều hướng giảm (chỉ khoảng 11% số rác thải có khả năng tái sử dụng được
tái sản xuất). Như vậy là còn tới 4,5 triệu tấn rác thải có khả năng tái chế (trị giá
khoảng 1,6 tỷ Baht) bị vứt bỏ. Những loại rác thải có khả năng tái chế bao gồm: nhựa,
thuỷ tinh, giấy và kim loại.
Hàng năm tại Thái Lan có tới 22 triệu tấn chất thải phát sinh. Dự báo con số này có
thể sẽ tiếp tục tăng lên trong những năm tới. Nếu không có biện pháp cấp bách, tỷ lệ
tái chế vẫn còn thấp như hiện nay thì có lẽ đến cuối thập kỷ này, số lượng chất thải đô
thị sẽ tăng 25%, còn chất thải độc hại của ngành công nghiệp sẽ tăng 35%. WB đã
khuyến nghị Thái Lan cần phải đẩy mạnh chương trình tái chế. Đối với người dân, họ
18
cần được khuyến khích phân loại và tái sử dụng những vật dụng trong gia đình mình.
Đồng thời cần ưu tiên phát triển những ngành tư nhân và những chương trình tái chế
chất thải công nghiệp.
Ở Thái Lan, việc phân loại rác được thực hiện ngay từ nguồn. Người ta chia ra 3
loại rác và bỏ vào 3 thùng riêng: những chất có thể tái sinh, thực phẩm và các chất độc
hại. Các loại rác này được thu gom và chở bằng các xe ép rác có màu sơn khác nhau.
Rác tái sinh sau khi được phân loại sơ bộ ở nguồn phát sinh được chuyển đến nhà
máy phân loại rác để tách ra các loại vật liệu khác nhau sử dụng trong tái chế. Chất
thải thực phẩm được chuyển đến nhà máy chế biến phân vi sinh. Những chất còn lại
sau khi tái sinh hay chế biến phân vi sinh được xử lý bằng chôn lấp. Chất thải độc hại
được xử lý bằng phương pháp thiêu đốt.
Việc thu gom rác ở Thái Lan được tổ chức rất chặt chẽ. Ngoài những phương tiện
cơ giới lớn như xe ép rác được sử dụng trên các đường phố chính, các loại xe thô sơ
cũng được dùng để vận chuyển rác đến các điểm tập kết. Rác trên sông, rạch được vớt
bằng các thuyền nhỏ của cơ quan quản lý môi trường. Các địa điểm xử lý rác của Thái
Lan đều cách xa trung tâm thành phố ít nhất 30 km.
2.3. Malaixia
Năm 1998, theo báo cáo, mỗi người dân Malaixia đã tạo ra 0,75 kg chất thải rắn đô
thị (CTRĐT)/ngày, năm 2004 tăng tới1,2 kg. Khoảng 76% CTRĐT phát sinh ở nước
này đã được thu gom, song chỉ có 1,2% được tái chế, số còn lại được chuyển đến 144
bãi chôn lấp. Dù gặp khó khăn trong việc tìm kiếm các địa điểm làm bãi chôn lấp chất
thải, song phương pháp này vẫn là phương pháp xử lý có chi phí thấp hơn cả, chỉ 9,2
USD/tấn, trong khi đó thiêu đốt và ủ phân là 131,6USD/tấn và 56,8 USD/tấn.
Mức độ phát sinh chất thải tính bình quân đầu người giữa các địa phương, dao động
từ 0,25kg/người/ngày đến 2 kg/người/ngày. Các địa phương nằm trong khu vực miền
Đông chậm phát triển là Sabath và Sarawak có mức phát sinh chất thải bình quân đầu
người là 0,7 và 0,97 kg/người/ngày, còn ở các bang miền Đông Kelantan, Terengganu
và Pahang là 0,71. Các bang miền Nam Johor và Melaka là 1,12 kg/người/ngày. Ở các
bang miền trung Selangor và Negeri Sembilan, lượng chất thải phát sinh là
1,07kg/người/ngày, trong khi đó ở thủ đô Kuala Lumpur là 2 kg/người/ngày. Tốc độ
đô thị hoá cao có xu hướng tạo ra nhiều CTRĐT hơn, có thể dẫn tới những thay đổi
trong tiêu thụ và thu nhập.
Tốc độ phát sinh
Tốc độ phát sinh chất thải rắn hàng ngày dao động từ 45 tấn đến 3000 tấn. Kuala
Lumpur đã phát sinh lượng chất thải cao nhất nước, xấp xỉ 3000 tấn/ngày. Khối lượng
chất thải phát sinh phụ thuộc vào nguồn phát sinh và các hoạt động chính diễn ra trong
khu vực. Lượng chất thải sinh hoạt lớn nhất ở Johor Bharu chiếm 31%, ở Kuala
Terengganu là 80%. Thành phần chất thải rắn của các ngành công nghiệp ở các địa
phương khác nhau rõ rệt.
Ở một số khu vực như Kuatan, tỷ lệ chất thải công nghiệp cao hơn chất thải sinh
hoạt. Với tốc độ phát sinh chất thải công nghiệp là 3%/năm, thì cần phải nhanh chóng
có biện pháp khắc phục lâu dài để tránh suy thoái môi trường.
19
Thành phần chất thải
Theo kết quả quan trắc, đặc điểm và thành phần chất thải ở Malaixia thay đổi theo
mức độ ảnh hưởng và tốc độ đô thị hoá của khu vực. Gần 38% tổng số chất thải thu
gom mỗi ngày được tái chế. Thành phần chất thải thường là 14% giấy, 16% chất dẻo,
3% kim loại và 5% thuỷ tinh, chỉ có gần 47% chứa nguyên liệu dễ bị phân huỷ có thể
dùng để ủ phân.
Chất thải thu gom được tại các bãi chôn lấp của Malaixia gồm nhiều loại phế thải
khác nhau, hầu như không thể tách được các nguyên liệu tái chế. Dữ liệu thu được cho
thấy, nhiều khả năng tái chế và ủ phân có thể được kết hợp vào các chương trình quản
lý chất thải.Vì vậy, nhờ áp dụng hệ thống quản lý chất thải tổng hợp, việc quản lý chất
thải có hiệu quả và năng suất cao có thể làm tăng tuổi thọ bãi chôn lấp và thu hồi
nguyên liệu đạt kết quả trong các quy trình thu hồi. Bằng biện pháp quản lý này có thể
xử lý tới 87% tổng số CTRĐT phát sinh hay 14800 tấn/ngày. Ở Malaixia, thành phần
chiếm tỷ lệ cao nhất trong hầu hết các bãi chôn lấp là chất thải hữu cơ có tỷ lệ trung
bình là 46,7%, thấp hơn là chất dẻo 14% và giấy 15%.
Thành phần chất thải và phát sinh chất thải dường như phụ thuộc vào mức thu nhập
của người dân. Người dân có thu nhập cao thường tạo ra nhiều chất thải hơn so với các
nhóm người có thu nhập thấp và trung bình. Ở nhóm người có thu nhập cao, tỷ lệ phát
sinh trung bình chất thải trong một ngày là 1,7 kg/ người. Ở nhóm người có thu nhập
trung bình là 0,71 kg/người/ngày. Ở nhóm người có thu nhập thấp là 0,80
kg/người/ngày. Tỷ lệ chất thải từ thực phẩm dao động từ 34% đối với nhóm có thu
nhập trung bình lên tới 44% của nhóm thu nhập cao. Chất thải từ thực phẩm là một
trong những thành phần chính góp phần làm cho dòng thải hữu cơ chiếm tỷ lệ cao ở
Malaixia. Cùng với chất thải thực phẩm, các nhóm này còn tạo ra khối lượng lớn chất
thải từ giấy và chất thải nhựa.
Thu hồi
Mỗi ngày, lợi nhuận thu hồi các chất có thể tái chế trong CTRĐT mỗi tấn trị giá 13
USD. Trong tổng này gồm chất dẻo 3,90 USD, giấy là 1,30 USD, kim loại là 7,50
USD và thuỷ tinh là 0,36 USD, tạo ra 223.700 USD mỗi ngày từ tổng lượng CTRĐT
của Malaixia là 17.000 tấn.
Do thành phần chất thải dễ bị thối rữa trong CTRĐT của Malaixia tăng từ 38%-
58%, trung bình là 46,7%, do vậy việc áp dụng hệ thống ủ phân sẽ là phương pháp
hiệu quả để giảm khối lượng chất thải ở các bãi chôn lấp. Phương pháp này có thể thực
hiện được nhờ các chất phụ gia khác nhau thúc đẩy quá trình ủ phân và tạo ra tỷ lệ
tiêu chuẩn giữa cacbon và nitơ (C/N) trong phân compost.Với khả năng tái chế là
50%, sản xuất phân compost bằng cách ủ phân sẽ đạt 5600 tấn/ngày, khoảng 2 triệu
tấn/năm. Khối lượng phân compost gần 4000 tấn/ngày có thể được bán với giá 0,50
USD/kg, như vậy sẽ thu được khoảng 2 triệu USD. Với chi phí ủ phân là 86 USD/tấn,
mỗi năm lợi nhuận thực thu được bằng phương pháp này là gần 511 triệu USD.
Kế hoạch tương lai
Tái chế là chiến lược quan trọng để duy trì không gian của các bãi chôn lấp và bảo tồn
các nguồn tài nguyên thiên nhiên, chỉ được số ít người tham gia thực hiện. Tuy nhiên, để
20