Luận văn: Quản lý quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam, thực trạng và giải pháp
Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước đối với người lao động nhằm từng bước mở rộng và nâng cao đảm bảo vật chất, góp phần ổn định đời sống cho người lao động khi gặp rủi ro như bị ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sẩy, hết tuổi lao động, qua đời.
Luận văn
Quản lý quỹ bảo
hiểm xã hội ở Việt
Nam, thực trạng và
giải pháp
Mục Lục
Lời nói đầu ........................................................................................................ 3
Phần I. Lý luận chung về BHXH và Quỹ BHXH ............................................. 4
I. Lý luận chung về BHXH. .............................................................................. 4
1. Bản chất của Bảo hiểm xã hội ....................................................................... 5
2. Đối tượng, chức năng và tính chất của Bảo hiểm xã hội. ............................. 8
3. Những quan điểm cơ bản về BHXH. .......................................................... 10
II. Quỹ bảo hiểm xã hội, nguồn hình thành và sử dụng quỹ BHXH. ............. 11
1. Nguồn hình thành quỹ BHXH. ................................................................... 11
2. Mục đích sử dụng quỹ BHXH. ................................................................... 13
Phần II. Quỹ bảo hiểm xã hội Việt Nam thực trạng và giải pháp ................... 15
I. Khái quát tình hình BHXH Việt Nam trong thời gian qua. ......................... 15
1. Bảo hiểm xã hội Việt Nam trước NĐ 43CP - 1993. ................................... 15
2. Bảo hiểm xã hội Việt Nam sau Nghị định 43/CP/1993. ............................. 18
II. Thực trạng quỹ BHXH Việt Nam trong thời gian qua. .............................. 20
2. Tình hình thu BHXH trong thời gian qua. .................................................. 23
3. Tình hình chi BHXH trong thời gian qua. .................................................. 32
III. Các giải pháp nhằm cân đối quỹ BHXH Việt Nam. ................................. 35
1. Biện pháp tăng thu BHXH. ......................................................................... 35
2. Các biện pháp giảm chi BHXH................................................................... 36
Tài liệu tham khảo ........................................................................................... 38
Lời nói đầu
Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một chính sách lớn của Đảng và
Nhà nước đối với người lao động nhằm từng bước mở rộng và nâng
cao đảm bảo vật chất, góp phần ổn định đời sống cho người lao
động khi gặp rủi ro như bị ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp, thai sẩy, hết tuổi lao động, qua đời.
Cùng với sự đổi mới của nền kinh tế đất nước trong thời gian
vừa qua , chính sách BHXH cũng được điều chỉnh, thay đổi để phối
hợp với sự chuyển đổi của nền kinh tế đất nước, với nguyện vọng
của người lao động.
Quỹ BHXH là một bộ phận cốt lõi không thể thiếu được và có
thể nói nó là vai trò quan trọng nhất trong hoạt động BHXH. Việc
quản lý sử dụng quỹ BHXH (thu - chi quỹ BHXH) nó ảnh hưởng
trực tiếp tới sự tồn tại và phát triển của quỹ BHXH, ảnh hưởng tới
sự ổn định của chính sách BHXH. Vậy vấn đề làm thế nào để có thể
nâng cao được hiệu quả trong việc thu -chi quỹ BHXH đây là câu
hỏi được đặt ra đối với mỗi nhà kinh tế, những người quan tâm
nghiên cứu hoạt động BHXH.
Là sinh viên Khoa Bảo hiểm trường Đại học Kinh tế Quốc dân,
để đóng góp một phần sức lực của mình cho việc phát triển các
chính sách BHXH và sự ổn định Quỹ BHXH mà cụ thể là việc
nâng cao hiệu quả của công tác thu - chi quỹ BHXH. Qua bài viết
này em xin nêu lên và đóng góp một số ý kiến, một số suy nghĩ của
mình trong việc quản lý thu chi quỹ BHXH. Do còn hạn chế về
trình độ kiến thức cũng như các tài liệu tham khảo nên chắc chắn
còn có nhiều thiếu sót, hạn chế. Em rất mong các thầy côđóng góp ý
kiến chỉ bảo những thiếu sót trong bài viết này để các lần viết sau co
điều kiện nâng cao chất lượng của bài viết.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn cô giáo Tô Thị Thiên
Hương đã tận tình giúp đỡ em trong việc hoàn thành bài viết này
đồng thời em xin cảm ơn các thầy cô giáo khác trong các kiến thức
cho em trong khi giảng dạy để có thể hoàn thành bài viết này.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn các thầy cô.
Phần I. Lý luận chung về BHXH và Quỹ BHXH
I. Lý luận chung về BHXH.
Bảo hiểm xã hội (BHXH)là một trong những loại hình bảo
hiểm ra đời khá sớm và ngày nay đã được phổ biến ở tất cả các
nước trên thế giới, nó là một trong ba bộ phận của chính sách bảo
đảm xã hội ở mỗi quốc gia. Bảo hiểm xã hội ra đời và phát triển
nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người lao động trong xã
hội. Chính vì vậy Bảo hiểm xã hội có những đặc điểm khác biệt về
đối tượng, chức năng, tính chất so với các loại hình bảo hiểm khác
do tính chất của nó quyết định.
1. Bản chất của Bảo hiểm xã hội
Con người sống lao động, làm việc nhằm thoả mãn các nhu
cầu của mình, từ các nhu cầu cơ bản, thiết yếu như ăn, mặc, ở, đi
lại... Đến các nhu cầu cao hơn như vui chơi giải trí, có địa vị trong
xã hội, được tôn trọng bảo vệ... Khi cuộc sống càng phát triển thì
nhu cầu của con người cũng ngày càng cao hơn. Để thoả mãn được
nhu cầu của mình con người phải lao động, phải bỏ sức lao động
nhằm nhận thức được những gì tương ứng với sức lao động bảo ra.
Vậy khả năng lao động quyết định đến nhu cầu sống và phát triển
của con người.
Tuy nhiên trong cuộc sống không phải lúc nào con người cũng
gặp thuận lợi có được một cuộc sống ổn định. Trái lại có rất nhiều
khó khăn, bất lợi ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho người ta bị
giảm hoặc mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác.
Chẳng hạn bất ngờ bị ốm đau hay bị tai nạn lao động, mất việc
làm, khi tuổi già khả năng lao động và khả năng tự phục vụ bị suy
giảm... Khi rơi vào trường hợp này, các nhu cầu thiết yếu t rong
cuộc sống không bị giảm đi mà còn tăng lên thậm chí xuất hiện một
số nhu cầu mới như: ốm đau thì cần được khám chữa bệnh, tai nạn
thì cần được người chăm sóc nuôi dưỡng, về hưu thì cần được đi
thăm bạn bè... Bởi vậy để đảm bảo ổn định cuộc sống của mỗi cá
nhân cũng như toàn xã hội con người đã có nhiều cách khác nhau
như tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau, vay mượn đi xin, kêu gọi sự giúp
đỡ của nhà nước. Tuy vậy các hình thức này đều mang tính bị động
và không chắc chắn.
Trong nền kinh tế thị trường luôn tồn tại hai lực lượng đó là
những người lao động và giới chủ (những người thuê lao động).
Những người lao động bán sức lao động và nhận được tiền công từ
giới chủ. Ban đầu những người lao động chỉ nhận được tiền công và
tự đối phó với những rủi cuộc sống cũng như trong lao động của họ.
Về sau do sự đoàn kết đấu tranh của những người lao động mà giới
chủ buộc phải chịu một phần trách nhiệm về những rủi ro trong lao
động và cuộc sống của người lao động. Mâu thuẫn giữa chủ và thợ
phát sinh do khoản tiền chi trả cho việc này ngày càng lớn và do sự
không chi trả của giới chủ, điều này đã ảnh hưởng tới sự phát triển
bền vững của xã hội. Vì vậy nhà nước đã phải đứng ra can thiệp giải
quyết điều hoà mâu thuẫn này. Nhà nước bắt buộc cả giới chủ và
thợ phải nộp một khoản tiền nhất định để chi trả cho các rủi ro trong
cuộc sống của người lao động. Vì vậy một nguồn quỹ đã được thành
lập từ giới chủ và thợ để chi trả cho việc này. Theo thời gian cùng
với sự tiến bộ của xã hội lực lượng lao động ngày càng đông, sản
xuất càng phát triển thì nguồn quỹ ngày càng lớn mạnh đảm bảo ổn
định cuộc sống cho người lao động và gia đình họ, người lao động
từ đó yên tâm hăng hái sản xuất ra nhiều của cải cho xã hội và giới
chủ cũng có lợi từ việc này. Mặt khác cùng với sự phát triển của xã
hội, cùng với sự lớn mạnh của ngân quỹ, phạm vi bảo đảm cho
người lao động ngày càng rộng hơn và chất lượng của việc bảo đảm
cho người lao động cũng ngày càng được tốt hơn.
Như vậy Bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp
một phần thu nhập cho người lao động khi họ gặp phải những biến
cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở
hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm bảo đảm đời
sống cho người lao động và gia đình họ góp phần bảo đảm an toàn
xã hội.
Từ đây ta có thể nêu ra bản chất của Bảo hiểm xã hội đó là:
- Bảo hiểm xã hội là nhu cầu khách quan, đa dạng, phức tạp
của xã hội, nhất là trong xã hội mà sản xuất hàng hoá hoạt động
theo cơ chế thị trường, mối quan hệ thuê mướn lao động phát triển
tới một mức độ nào đó. Kinh tế càng phát triển thì Bảo hiểm xã hội
càng đa dạng và hoàn thiện.
- Mối quan hệ giữa các bên trong Bảo hiểm xã hội phát sinh
trên cơ sở quan hệ lao động diễn ra giữa 3 bên: bên tham gia BHXH
(người lao động và người sử dụng lao động), bên BHXH (cơ quan
nhận nhiệm vụ BHXH), bên được BHXH (người lao động và gia
đình họ).
- Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất
việc làm trong Bảo hiểm xã hội có thể là rủi ro ngẫu nhiên trái với ý
muốn của con người như: ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp. Hoặc không hoàn toàn ngẫu nhiên như tuổi già, thai sản...
Đồng thời có thể xảy ra ở trong hoặc ngoài quá trình lao động.
- Phần thu nhập bị mất đi bị giảm của người lao động được
thay thế, bù đắp từ nguồn quỹ BHXH. Nguồn này do bên tham gia
đóng góp là chủ yếu còn lại do nhà nước bù thiếu.
- Mục tiêu của BHXH là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết
yếu của người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu
nhập, mất việc làm. Mục tiêu này được tổ chức lao động quốc tế
(ILO) cụ thể hoá như sau:
+ Đền bù cho người lao động những khoảng thu nhập bị mất
để đảm bảo nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ.
+ Chăm sóc sức khoẻ và chống bệnh tật.
+ Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân cư
và các nhu cầu đặc biệt của người già, người tàn tật & trẻ em.
Với những mục tiêu trên BHXH đã trở thành một trong những
quyền con người và được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thừa nhận
ghi vào tuyên ngôn nhân quyền ngày 10/12/48 rằng: “Tất cả mọi
người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền được hưởng
BHXH, quyền đó đặt cơ sở trên sự thoả mãn các quyền về kinh tế,
xã hội, văn hoá nhu cầu cho nhân cách và sự tự do phát triển của
con người”.
2. Đối tượng, chức năng và tính chất của Bảo hiểm xã hội.
a. Đối tượng của Bảo hiểm xã hội.
Mặc dù ra đời đã rất lâu nhưng đối tượng của BHXH còn có
nhiều quan điểm chưa thống nhất dẫn đến sự nhầm lẫn giữa đối
tượng của BHXH với đối tượng tham gia BHXH.
Như đã phân tích ở trên, Bảo hiểm xã hội là việc lập ra một
nguồn ngân quỹ nhằm đảm bảo bù đắp cho khoản thu nhập bị giảm
hoặc mất đi của người lao động do họ bị mất hoặc giảm khả năng
lao động, bị mất việc làm, do ốm đau bệnh tật, tai nạn, tuổi già... vì
vậy đối tượng của BHXH chính là phần thu nhập bị mất đi hay giảm
đi do sự rủi ro mà họ gặp phải trong cuộc sống làm giảm hoặc mất
khả năng lao động, mất việc làm.
Đối tượng tham gia BHXH đó là người lao động và người sử
dụng lao động, tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế của từng thời kỳ
mà đối tượng tham gia có thể là tất cả hoặc một bộ phận người lao
động nhưng nhìn chung thì khi kinh tế càng phát triển thì đối tượng
tham gia càng được mở rộng nhiều bộ phận người lao động khác.
b. Chức năng của BHXH.
- Bảo đảm ổn định đời sống kinh tế cho người lao động và gia
đình họ khi người lao động gặp khó khăn do mất việc làm, mất hoặc
giảm thu nhập. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH, nó quyết
định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH.
- Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những
người tham gia BHXH. Những người tham gia BHXH đóng góp
vào quỹ BHXH để bù đắp cho những người lao động gặp rủi ro bị
giảm hoặc mất thu nhập, quá trình này đã tiến hành phân phối lại
thu nhập giữa người giàu - người nghèo, người khoẻ mạnh - người
ốm đau, người trẻ - người già... Thực hiện chức năng này BHXH đã
góp phần thực hiện công bằng xã hội.
- Góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản
xuất nâng cao năng suất lao động do cuộc sống cuả họ đã được đảm
bảo, họ không còn phải lo lắng về cuộc sống của họ khi rủi ro xảy
đến với họ bất kỳ lúc nào từ đó khiến họ tập trung vào việc lao động
sản xuất. Chức năng này biểu hiện như một đòn bẩy kinh tế kích
thích người lao động nâng cao năng suất lao động cá nhân và kéo
theo là năng suất lao động xã hội.
- Gắn bó lợi ích giữa người lao động với người sử dụng lao
động, giữa người lao động với nhà nước góp phần đảm bảo an toàn
cho xã hội. Do giữa người lao động và người sử dụng lao động luôn
tồn tại mâu thuẫn về tiền lương, thời gian lao động, an toàn lao
động... BHXH ra đời góp phần điều hoà mâu thuẫn giữa họ. Nhà
nước thông qua việc chi BHXH ổn định đời sống cho mọi người lao
động, ổn định xã hội.
c. Tính chất của BHXH.
- Tính tất yếu khách quan trong đời sống xã hội. Như đã phân
tích ở trên rủi ro xây đến với cuộc sống của người lao động không
hoàn toàn do người lao động gánh chịu mà nó ảnh hưởng tới người
sử dụng lao động, tới toàn xã hội, nó gây ra mâu thuẫn giữa người
lao động và người sử dụng lao động làm giảm năng suất lao động,
mất ổn định xã hội. Buộc nhà nước phải can thiệp thông qua BHXH
vì vậy BHXH ra đời mang tính tất yếu khách quan.
- BHXH có tính ngẫu nhiên phát sinh không đều theo không
gian và và thời gian. Điều này này thể hiện rõ trong nội dung cơ
bản của BHXH, từ thời điểm triển khai BHXH, người tham gia
BHXH, mức đóng góp. Từ việc rủi ro phát sinh theo không gian,
thời gian đến mức trợ cấp cho từng chế độ, từng đối tượng.
- BHXH vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội đồng thời có
tính dịch vụ, tính kinh tế được thể hiện qua việc hình thành và sử
dụng quỹ BHXH sao cho hợp lý, có hiệu quả nhất. Tính xã hội được
thể hiện BHXH được sử dụng nhằm bảo đảm ổn định cho những
người lao động và gia đình họ. BHXH thể hiện tính dịch vụ của nó
thông qua hoạt động dịch vụ tài chính. (Thông qua nguồn vốn nhàn
rỗi).
3. Những quan điểm cơ bản về BHXH.
Hiện nay có 5 quan điểm về BHXH như sau:
- BHXH là một trong những chính sách xã hội cơ bản nhất của
mỗi quốc gia, nó thể hiện trình độ văn minh, tiềm lực và sức mạnh
kinh tế, khả năng tổ chức và quản lý của mỗi quốc gia.
- Mọi người lao động trong xã hội đều có quyền bình đẳng
trước BHXH không phân biệt giới tính, dân tộc, tôn giáo, nghề
nghiệp.
- Người sử dụng lao động phải có nghĩa vụ và trách nhiệm
BHXH đối với người mà họ sử dụng.
+ Họ phải đóng góp vào quỹ BHXH 1 khoản tiền nhất định so
với tổng quỹ lương.
+ Họ phải thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH đối với những
người lao động mà mình sử dụng.
- Các mức hưởng BHXH phụ thuộc vào 5 yếu tố sau:
+ Tình trạng sức khoẻ, thương tật thông qua giám định y khoa.
+ Ngành nghề công tác của người lao động
+ Thời gian công tác và tiền lương của người lao động
+ Mức đóng góp BHXH và thời gian đóng góp
+ Tuổi thọ bình quân của mỗi quốc gia.
+ Điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước qua từng thời kỳ.
- Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp BHXH từ việc ban
hành các chính sách và tổ chức bộ máy thực hiện các chính sách
BHXH.
II. Quỹ bảo hiểm xã hội, nguồn hình thành và sử dụng quỹ
BHXH.
1. Nguồn hình thành quỹ BHXH.
Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân
sách nhà nước.
Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ các nguồn sau đây:
- Người lao động đóng góp
- Người sử dụng đóng góp
- Nhà nước bù thiếu
- Các nguồn thu khác (từ các cá nhân và các tổ chức từ thiện
ủng hộ, lãi đầu tư vốn nhàn rỗi).
Phần lớn các nước trên thế giới, quỹ BHXH đều được hình
thành từ các nguồn nêu trên, sở dĩ như vậy bởi các lý do:
- Người lao động đóng góp một phần vào quỹ BHXH biểu
hiện sự gánh chịu trực tiếp rủi ro của chính mình mặt khác nó có ý
nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi của họ một cách chặt chẽ.
- Người sử dụng lao động đóng góp một phần quỹ BHXH cho
người lao động một mặt sẽ tránh được những thiệt hại to lớn như
đình trệ sản xuất, đào tạo lại lao động khi có rủi ro xảy ra đối với
người lao động mặt khác nó giảm bớt đi sự căng thẳng trong mối
quan hệ vốn chứa đựng đầy những mâu thuẫn, tranh chấp giữa chủ
và thợ.
- Nhà nước tham gia đóng góp một phần vào quỹ BHXH trên
cương vị của người quản lý xã hội về mọi mặt với mục đích phát
triển kinh tế ổn định xã hội. Do mối quan hệ giữa chủ - thợ có chứa
nhiều mâu thuẫn mà hai bên không thể tự giải quyết được. Nhà
nước buộc phải tham gia nhằm điều hoà mọi mâu thuẫn của hai bên
thông qua hệ thống các chính sách, pháp luật. Không chỉ có như vậy
nhà nước còn hỗ trợ thêm vào quỹ BHXH giúp cho hoạt động
BHXH được ổn định.
Phương thức đóng góp BHXH của người lao động và người sử
dụng lao động hiện nay vẫn còn tồn tại hai quan điểm.
Quan điểm thứ nhất: là phải căn cứ vào mức lương cá nhân và
quỹ lương của cơ quan, doanh nghiệp.
Quan điểm thứ hai: Phải căn cứ vào thu nhập cơ bản của người
lao động được cân đối chung trong toàn bộ nền kinh tế để xác định
mức đóng góp BHXH.
Mức đóng góp BHXH, một số nước quy định người sử dụng
lao động phải chịu toàn bộ chi phí cho chế độ tai nạn lao động.
Chính phủ trả chi phí y tế và trợ cấp gia đình, các chế độ còn lại do
cả người lao động và người sử dụng lao động đóng góp mỗi bên một
phần như nhau.
Một số nước khác lại quy định, chính phủ bù thiếu, cho quỹ
BHXH hoặc chịu toàn bộ chi phí quản lý BHXH...
2. Mục đích sử dụng quỹ BHXH.
Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu cho 2 mục đích sau:
- Chi trả vào trợ cấp cho các chế độ BHXH.
- Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH ở các cấp các ngành.
Trong công ước quốc tế Giơ nevơ số 102 tháng 6 năm 1952
BHXH bao gồm một hệ thống 9 chế độ sau:
1. Chăm sóc y tế (thực chất là BHYT)
2. Trợ cấp ốm đau
3. Trợ cấp thất nghiệp
4. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
5. Trợ cấp tuổi già
6. Trợ cấp gia đình
7. Trợ cấp sinh đẻ
8. Trợ cấp khi tàn phế.
9. Trợ cấp cho người còn sống.
Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu vào việc trợ cấp cho các
chế độ trên.
Tuỳ theo điều kiện kinh tế - xã hội mà các nước tham gia công
ước quốc tế Giơnevơ có tham gia đầy đủ các chế độ nêu trên hay
không. Theo số liệu thống kê năm 1996. Trên thế giới có 34 nước
thực hiện đủ 9 chế độ, 34 nước còn thiếu chế độ 3, 62 nước chưa
thực hiện chế độ 3 và 6. Tuy nhiên trong đó có một số chế độ quan
trọng mà khi xây dựng các chính sách BHXH các quốc gia đều phải
đề cập tới đó là: trợ cấp thai sản, trợ cấp ốm đau, trợ cấp tai nạn lao
động và bệnh nghề nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ cấp cho người còn
sống.
Hệ thống các chế độ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau
đây:
+ Các chế độ được xây dựng theo luật pháp của mỗi nước.
+ Hệ thống các chế độ mang tính chất chia xẻ rủi ro, chia xẻ
tài chính.
+ Mỗi chế độ được chi trả đều căn cứ chủ yếu vào mức đóng
góp của các bên tham gia BHXH.
+ Phần lớn các chế độ là chi trả định kỳ.
+ Đồng tiền được sử dụng làm phương tiện chi trả và thanh
quyểt toán.
+ Chi trả BHXH như là quyền lợi của mỗi chế độ BHXH.
+ Mức chi trả còn phụ thuộc vào quỹ dự trữ. Nếu quỹ dự trữ
được đầu tư có hiệu quả và an toàn thì mức chi trả sẽ cao và ổn
định.
+ Các chế độ BHXH cần phải được điều chỉnh định kỳ để
phản ánh hết sự thay đổi của điều kiện kinh tế xã hội.
Ngoài việc chi trả trợ cấp theo các chế độ BHXH quỹ BHXH
còn được chi cho quản lý như: tiền lương cho cán bộ công nhân viên
làm việc trong hệ thống BHXH. Khấu hao TSCĐ, văn phòng phẩm
và một số khoản chi khác. Phần quỹ nhàn rỗi phải được đem đầu tư
sinh lời nhằm bảo toàn và tăng trưởng nguồn quỹ. Quá trình đầu tư
phải đảm bảo nguyên tắc an toàn, có lợi nhuận, có khả năng thanh
toán và đảm bảo lợi ích kinh tế xã hội.
Phần II. Quỹ bảo hiểm xã hội Việt Nam thực trạng và giải
pháp
I. Khái quát tình hình BHXH Việt Nam trong thời gian qua.
1. Bảo hiểm xã hội Việt Nam trước NĐ 43CP - 1993.
Nhìn lại lịch sử BHXH Việt Nam, ở nước ta BHXH đã có từ
trước cách mạng tháng 8 - 1945. Khi đó để củng cố địa vị của mình
thực dân Pháp đã thực hiện một số chế độ BHXH cho những người
Việt Nam làm việc trong bộ máy cai trị của họ.
Sau cách mạng tháng 8, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
ra đời, nhà nước ta đã ban hành một số văn bản pháp luật về BHXH
có thể nêu một số văn bản sau:
Sắc lệnh 54/SL ngày 1/11/1945 quy định một số điều kiện cho
công chức nghỉ hưu.
Sắc lệnh 105/SL ngày 14/6/1946 quy định việc cấp hưu bổng
cho công chức. Hai sắc lệnh này chỉ rõ để được hưởng hưu bổng,
công chức nhà nước phải đóng vào quỹ hưu đồng thời Nhà nước
cũng phải có trách nhiệm đóng thêm cho công chức trong quỹ hưu
bổng.
Sắc lệnh 76/8L ngày 20/5/1950 Ngoài chế độ trợ cấp hưu trí đã
quy định cụ thể hơn chế độ thai sản, chăm sóc y tế, tai nạn lao động
và chế độ tử tuất đối với công chức. Có thể nói đây là văn bản pháp
luật có ý nghĩa nhất về BHXH ở nước ta sau ngày độc lập và là cơ
sở để ban hành điều lệ BHXH sau này.
Sắc lệnh 29/SL ngày 12/3/1947 và sắc lệnh 77/SL ngày
22/5/1950 quy định các chế độ ốm đau, thai sản, TNLĐ, hưu trí, tử
tuất đối với công nhân. Tuy nhiên do hoàn cảnh chiến tranh, các sắc
lệnh trên không được thực hiện đầy đủ, nhưng có thể nói qua các
văn bản này đã thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và Bác
Hồ đối với người lao động. Về mặt văn bản pháp luật thì đây là
những văn bản đầu tiên về BHXH ở nước ta.
Sau giải phóng miền Bắc, trên cơ sở hiến pháp 1959 cùng với
các chính sách khác, Nhà nước đã ban hành điều lệ BHXH cho công
nhân viên chức kèm theo nghị định 218/CP ngày 27/12/1961. Theo
điều lệ này, trong hệ thống BHXH ở nước ta có 6 chế độ đó là: ốm
đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, mất sức lao
động, hưu trí và tử tuất. Đây là văn bản pháp luật hoàn chỉnh nhất ở
nước ta về BHXH lúc bấy giờ. Hệ thống BHXH có những đặc điểm
sau đây:
+ Đối tượng được hưởng BHXH và CNVC Nhà nước và lực
lượng vũ trang.
+ Đối tượng hưởng BHXH không phải đóng phí BHXH. Chi
BHXH chủ yếu do ngân sách Nhà nước đảm bảo một số phần do sự
nộp nghĩa vụ của các doanh nghiệp. Vì vậy không tồn tại quỹ
BHXH nằm ngoài ngân sách nhà nước.
+ Chính sách BHXH gắn chặt với chính sách tiền lương và đan
xen với các chính sách xã hội khác.
+ Nhiều cơ quan cùng tham gia quản lý và thực hiện BHXH
(Bộ Lao động, công đoàn, Bộ Tài chính...).
Chính sách BHXH thực hiện trong thời kỳ đã phù hợp với cơ
chế tập trung bao cấp trong điều kiện đất nước có chiến tranh lúc
bấy giờ và đã phát huy được tác dụng. Trong suốt những năm tháng
kháng chiến chống quân xâm lược, chính sách BHXH đã góp phần
ổn định đời sống cho công nhân viên chức, quân nhân và gia đình
họ góp phần động viên sức người, sức của cho sự thắng lợi của cuộc
kháng chiến chống quân xâm lược vào thống nhất đất nước.
Chúng ta đã xét trợ cấp cho hàng triệu lượt người được hưởng
các chính sách BHXH dưới nhiều hình thức khác nhau và tất cả các
chế độ BHXH khác nhau. Từ đó giúp họ yên tâm lao động sản xuất
nâng cao năng suất lao động, gắn bó những người lao động với cơ
quan doanh nghiệp, với nhà nước .
BHXH Việt Nam còn góp phần giải phóng lực lượng lao động
nữ giúp chị em ổn định việc làm, nuôi dạy con cái, phát huy sáng
tạo trong sản xuất và kinh doanh.
Chính sách BHXH của Việt Nam thể hiện tính ưu việt của chế
độ xã hội góp phần thực hiện một loạt những công ước quốc tế đối
với người lao động.
Tuy vậy trong thơi gian này BHXH Việt Nam còn một số điểm
tồn tại rất lớn đó là:
- Nhận thức về BHXH có những lúc những nơi là thiếu đúng
đắn chưa thấy hết được vai trò của nó.
- Chính sách này được tổ chức quản lý và thực hiện ở các cấp
các ngành thiếu sự phối hợp, chồng chéo, thiếu sự kiểm tra, kiểm
soát đã dẫn đến nhiều hiện tượng tiêu cực.
- Nội dung các chế độ còn nhiều vấn đề bất cập không phù hợp
với thực tế.
- Quỹ BHXH trên thực tế là không có vì vậy BHXH là gánh
nặng cho ngân sách nhà nước.
Khi nước ta tiến hành cải cách kinh tế, chuyển từ nền kinh tế
tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước theo định hướng XHCN thì chính sách BHXH theo
cơ chế này không còn phù hợp đòi hỏi phải có sự đổi mới BHXH
Việt Nam cho phù hợp với tình hình mới.
2. Bảo hiểm xã hội Việt Nam sau Nghị định 43/CP/1993.
Hiến pháp 1992 nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
nêu rõ”Nhà nước thực hiện chế độ BHXH đối với công chức nhà
nước và người làm công ăn lương, khuyến khích phát triển các loại
hình BHXH khác đối với người lao động”.
Trong văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII
chỉ rõ cần đổi mới chính sách BHXH theo hướng mọi người lao
động và các đơn vị kinh tế thuộc các thành phần kinh tế đều có
nghĩa vụ đóng góp BHXH, thống nhất tách quỹ BHXH ra khỏi ngân
sách nhà nước... Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII nêu lên “mở
rộng chế độ BHXH đối với người lao động thuộc các thành phần
kinh tế”.
Trên cơ sở của các văn bản pháp lý của Đảng và Nhà nước,
chúng ta đã tiến hành đổi mới chính sách BHXH cho phù hợp với
cơ chế thị trường, được đánh dấu bằng một văn bản quan trọng đó là
Nghị định 43/CP ra đời ngày 22/6/1993. Nghị định 43/CP quy định
tạm thời về chế độ BHXH mà theo đó, đối tượng tham gia BHXH
là mọi người lao động thuộc các thành phần kinh tế. Người tham gia
BHXH phải đóng phí bảo hiểm, người sử dụng lao động cũng phải
đóng phí BHXH cho người lao động mfa mình sử dụng, thuê mướn.
Trên cơ sở những kinh nghiệm thực hiện BHXH theo Nghị định
43/CP và cụ thể hoá Bộ luật lao động được quốc hội thông qua ngày
23/6/1994 có hiệu lực từ ngày 1/1/1995, chính phủ đã ban hành điều
lệ BHXH kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995. Điều lệ
BHXH mới được coi là một cuộc cách mạng về BHXH ở nước ta,
đã làm thay đổi toàn diện chất lượng trong BHXH.
Sự thay đổi được thể hiện ở một số điểm sau đây:
- Đối tượng tham gia BHXH đã được mở rộng hơn so với trước
đây. Đối tượng tham gia BHXH không chỉ bao gồm công nhân viên
chức nhà nước. Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp
Nhà nước, các tổ chức kinh doanh dịch vụ thuộc cơ quan hành
chính sự nghiệp, cơ quan Đảng, đoàn thể,lực lượng vũ trang. Những
người giữ chức vụ dân cử, dân bầu làm việc trong các cơ quan hành
chính sự nghiệp:... mà còn mở rộng cho người lao động thuộc các
thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng 10 lao động trở
lên.
- Các chế độ Bảo hiểm xã hội cũng có sự thay đổi theo Điều 2
của Điều lệ BHXH Việt Nam, BHXH nước ta hiện nay bao gồm 5
chế độ: chế độ trợ cấp ốm đau; chế độ trợ cấp thai sản; chế độ trợ
cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; chế độ hưu trí và chế độ tử
tuất. So với trước đây chế độ trợ cấp mất sức lao động đã bị loại bỏ
do không phù hợp, khó quản lý và dễ bị lợi dụng.
- Quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc lập nằm ngoài ngân sách
nhà nước. Được hình thành trên cơ sở đóng góp của người lao động,
người sử dụng sự hỗ trợ của nhà nước và từ các nguồn khác. Như
vậy các quan hệ tài chính trong BHXH được thể hiện rõ ràng. Các
nguồn thu và các khoản chi BHXH phải được cân đối một cách tổng
thể trong BHXH, sự đóng góp BHXH của các bên còn thể hiện
nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của họ trong BHXH.
- Về mặt tổ chức quản lý chính sách: Đã giảm dần sự đan xen
các chính sách BHXH với các chính sách xã hội khác góp phần tạo
ra sự bình đẳng giữa các nhóm lao động, bình đẳng giữa làm và
hưởng.
- Các chức năng quản lý Nhà nước về BHXH đã tách khỏi các
chức năng hoạt động sự nghiệp BHXH. Bộ Lao động thương binh
và xã hội được chính sách giao trách nhiệm quản lý Nhà nước
BHXH. Hoạt động sự nghiệp BHXH là do cơ quan BHXH Việt
Nam đảm nhận sự phân định chức năng và thống nhất quản lý này
đã làm giảm bớt sự quản lý chồng chéo trước đây nâng cao hiệu quả
hoạt động của BHXH.
Với việc thực hiện theo cơ chế mới BHXH Việt Nam đã góp
phần tích cực vào việc lành mạnh hoá thị trường lao động ở nước
ta; góp phần thực hiện bình đẳng xã hôi và ổn định xã hội.
Tuy nhiên do BHXH ở nước ta không phải là xây dựng mới
hoàn toàn mà có sự kế thừa nên còn nhiều vấn đề tồn tại, cần phải
điều chỉnh và hoàn thiện cho phù hợp với tình hình mới.
II. Thực trạng quỹ BHXH Việt Nam trong thời gian qua.
a. Trước Nghị định 43/CP/1993.
Như chúng ta đã biết trong giai đoạn này BHXH Việt Nam
được hoạt động dựa trên các sắc lệnh của Nhà nước và điều lệ
BHXH cho công nhân viên chức kèm theo Nghị định 218/CP ngày
27/12/1961 vì vậy việc thu, chi và quản lý Quỹ BHXH cũng phải
dựa trên các văn bản này.