logo

Linh kiện và Lắp ráp máy tính

Phần cứng, còn gọi là cương liệu (Anh ngữ: hardware), là các cơ phận (vật lý) cụ thể của máy tính hay hệ thống máy tính như là màn hình, chuột, bàn phím, máy in, máy quét, vỏ máy tính, đơn vị vi xử lý CPU, bo mạch chủ, các loại dây nối, loa, ổ mềm, ổ cứng, ổ CDROM, …Dự
Linh kiện và Lắp ráp máy tính Phần cứng – bài 1 Phần cứng, còn gọi là cương liệu (Anh ngữ: hardware), là các cơ phận (vật lý) cụ thể của máy tính hay hệ thống máy tính như là màn hình, chuột, bàn phím, máy in, máy quét, vỏ máy tính, đơn vị vi xử lý CPU, bo mạch chủ, các loại dây nối, loa, ổ mềm, ổ cứng, ổ CDROM, …Dựa trên chức năng và cách thức hoạt động người ta còn phân biệt phần cứng ra thành: • Nhập hay đầu vào (Input): Các bộ phận thu nhập dữ liệu hay mệnh lệnh như là bàn phím, chuột… • Xuất hay đầu ra (Output): Các bộ phận trả lời, phát tín hiệu, hay thực thi lệnh ra bên ngoài như là màn hình, máy in, loa, … Ngoài các bộ phận nêu trên liên quan tới phần cứng của máy tính còn có các khái niệm quan trọng sau đây: • Bus: chuyển dữ liệu giữa các thiết bị phần cứng. • BIOS: còn gọi là hệ thống xuất nhập cơ bản nhằm khởi động, kiểm tra, và cài đặt các mệnh lệnh cơ bản cho phần cứng và giao quyền điều khiển cho hệ điều hành • CPU: bộ phân vi xử lý điều khiển toàn bộ máy tính • Kho lưu trữ dữ liệu: lưu giữ, cung cấp, thu nhận dữ liệu • Các loại chíp hỗ trợ: nằm bên trong bo mạch chủ hay nằm trong các thiết bị ngoại vi của máy tính các con chip quan trọng sẽ giữ vai trò điều khiển thiết bị và liên lạc với hệ điều hành qua bộ điều vận hay qua phần sụn • Bộ nhớ: là thiết bị bên trong bo mạch chủ giữ nhiệm vụ trung gian cung cấp các mệnh lệnh cho CPU và các dữ liệu từ các bộ phận như là BIOS, phần mềm, kho lưu trữ, chuột đồng thời tải về cho các bộ phận vừa kể kết quả các tính toán, các phép toán hay các dữ liệu đã/đang được xử lý • các cổng vào/ra Theo Wikipedia Mainboard là gì ? Slot, Socket cắm CPU là gì? Mainboard là gì ? Slot, Socket cắm CPU Electronic Board – Bo mạch in điện tử: Là một bản (tấm/bo) mạch in trong thiết bị điện tử. Trong máy tính, mỗi bo mạch in điện tử  được thiết kế để thực hiện một chức năng hoặc nhóm chức năng nào đó. Ví dụ: Card màn  hình là một bo mạch in điện tử chuyên xử lý và hiển thị các tín hiệu về hình ảnh đồ họa trong  máy tính. Mainboard – còn gọi là Motherboard (Bo mạch chính) hoặc System board (Bo mạch Hệ thống): Trong máy tính, nó là bo mạch in chính trong máy tính. Nó bao gồm các khe gắn (sockets)  cho phép gắn thêm các bo mạch phụ, các bo mạch chức năng. Mainboard còn chứa các kênh  truyền dữ liệu (bus), các bộ xử lý (chipsets), các khe chứa bộ nhớ (memory sockets), các giao  diện gắn thiết bị ngoại vi và thiết bị nhập xuất như: máy in, màn hình, bàn phím, chuột, máy  ảnh kỹ thuật số… (Xem hình bên) Các bộ xử lý (chip) điều khiển việc xử lý và hiển thị hình ảnh, xử lý âm thanh, điều khiển các  cổng nhập xuất tuần tự và song song (serial & parallel ports), điều khiển và cung cấp giao tiếp  mạng…có thể được tích hợp hay không tích hợp trên Mainboard. Nếu không được tích hợp  sẵn, thì các bộ xử lý đó tồn tại dưới dạng các bộ điều khiển độc lập (independent controller)  được gắn vào các khe gắn mở rộng (expansion slot) trên Mainboard. Chúng ta thường gọi các  bộ điều khiển độc lập đó là card. Ví dụ: card màn hình (Video card, video adapter), card nhập  xuất (I/O card, SCSI card), card mạng (Network Interface Card, Network adapter)… Các giao diện của CPU (CPU Interface) (phổ biến nhất hiện nay)  Trong quá trình phát triển của mình, máy tính hỗ trợ nhiều loại giao diện (interface) khác nhau  để cho phép kết nối nhiều loại thiết bị và linh kiện lại với nhau. Mỗi giao diện linh kiện hoặc  thiết bị được phát minh – chuẩn hóa – cải tiến và cứ như thế các loại giao diện liên tục được  giới thiệu đã dẫn đến quá trình cải tiến không ngừng của công nghệ máy tính. Nằm ở trung  tâm của một hệ thống máy tính là CPU (Central processing Unit) – từ sau này, tôi sẽ sử dụng  lẫn lộn giữa Bộ Xử lý và CPU nhằm mục đích giúp các bạn mới làm quen với máy tính hiểu  được từ nguyên gốc được dùng rất phổ biến và nghĩa tiếng Việt của nó.  Về cơ bản, một CPU (BXL) là một mảnh Silicon hình vuông (square sliver of silicon) với các  mạch điện tử được khắc axit (etched) lên bề mặt. Chip điện tử này được kết nối với các chân  tín hiệu (signal pins) và toàn bộ khối linh kiện này được đóng gói ở một dạng nào đó – có vỏ  bọc bằng sứ (ceramic) hoặc bằng chất dẻo (plastic) – với các chân tín hiệu được thiết kế chạy  dọc theo các cạnh dưới của bề mặt hình vuông dẹp hoặc theo một cạnh dài. Gói CPU được  kết nối với Motherboard thông qua một số giao diện hiệu) CPU ­ dạng Khe gắn (slot) hoặc Đế  gắn (socket). Giao diện Socket (đế gắn) được sử dụng phổ biến trong một thời gian dài. Sau  đó, các nhà sản xuất hàng đầu như Intel® Corpotation và AMD Corporation lại chuyển sang  sử dụng giao diện Slot (khe gắn). Sau một thời gian tương đối ngắn nữa, họ lại chuyển trở lại  công nghệ sử dụng đế gắn (socket). Các thế hệ BXL 386, 486, Pentium và Pentium MMX cổ điển ra đời dưới dạng các gói hình  vuông dẹp (flat square package) với một hàng chân tín hiệu ở mặt dưới gọi là PGA – Pin Grid  Array (Hàng chân tín hiệu được sắp theo ô) và được gắn vào giao diện CPU loại Socket trên  Mainboard. Socket 7, một trong các giao diện xưa nhưng được rất nhiều dòng CPU hỗ trợ, kể  cả các CPU của các hãng ngoài Intel. Socket 8 được thiết kế cho dòng CPU Pentium Pro của hãng Intel® – được giới thiệu năm  1995­ với cấu trúc đặc biệt để chứa Gói CPU hình vuông – hai khoang bất thường của  Pentium Pro. Để hỗ trợ Cache L2 (Bộ nhớ nội cấp 2, xem thêm phần CPU để biết thêm về  cache)­ được đóng gói chung với CPU, nhưng không nằm trên nhân (on­die) – Socket 8 bao  gồm 3 nhân (3 dice) riêng biệt gắn trên mạch của CPU. Kiến trúc đặc biệt phức tạp này đã  đẩy giá thành của Socket 8 lên quá cao nên nó đã nhanh chóng bị ngưng sản xuất. Cùng với sự ra đời của dòng CPU Pentium II, Intel® đã chuyển qua sử dụng một giải pháp rẻ  hơn cho việc đóng gói các BXL chứa nhiều hơn 1 nhân (die). Về thiết kế, kiểu đóng gói SECC  (Single Edge Contact Cartridge – Hộp Giao tiếp Một cạnh) thực tế là một bản mạch chứa  chip xử lý (core processor chip) và các chip nhớ (memory chip). Hộp CPU chứa các chân tín  hiệu chạy dọc theo một cạnh, điều này cho phép CPU được gắn theo chiều vuông góc với  mặt Mainboard như phần lớn các card mở rộng như : sound card hoặc Graphics card. Giao  diện đó gọi là Slot 1. Các chip tạo thành Cache L2 có thể hoạt động với tốc độ bằng ½ tốc độ  của CPU. Khi hãng Intel® quay trở lại với kỹ thuật thiết kế Cache L2 trên nhân CPU  (Processor die) – từ dòng Pentium® III lõi Coppermine)­ họ vẫn tiếp tục sử dụng công nghệ  đóng gói không có sẵn Cache (cacheless Slot 1 packaging) thêm một thời gian nữa nhằm  mục đích hỗ trợ tương thích. Dòng CPU Pentium® Xeon – là các CPU chuyên dùng làm server – có Cache L2 hoạt động  ở tốc độ ngang bằng với tốc độ của CPU. Điều này phát sinh nhu cầu phải sử dụng một bộ  tản nhiệt (heatsink) lớn hơn, do vậy hộp chứa CPU cũng phải được thiết cao hơn. Slot 2 là khe  gắn đáp ứng được thiết kế cho các yêu cầu trên. Slot 2 hỗ trợ nhiều đầu nối (chân tín hiệu)  hơn Slot 1 nhằm hỗ trợ các tính năng của hệ thống máy chủ (server) như tính năng đa bộ xử  lý (multi­processor) và các tính năng khác. Khi Intel ngưng sản xuất các BXL MMX vào giữa năm 1998 và để dành kiến trúc Socket 7 (là  đế gắn BXL Intel Pentium MMX) cho các đối thủ cạnh tranh, chủ yếu là AMD và Cyrix, khai  thác. Với sự hợp tác của hai hãng vừa sản xuất Chipset và bo mạch chủ này, kiến trúc Socket  7 đã được tiếp tục sử dụng rất thành công trong các năm tiếp theo. Quyết tâm của AMD trong  việc tạo đối trọng với công nghệ Slot 1 của Intel ngay trên kiến trúc Socket 7 được thể hiện rõ  ở dòng BXL 0.25 Miron AMD K6­2 được giới thiệu vào cuối tháng 5­1998. AMD K6­2 đánh  dấu bước phát triển quan trọng của kiến trúc Socket 7. AMD gọi kiến trúc này là “Super 7″ và  họ đã liên tục phát triển nền tảng này đến năm 2000. Được phát triển bởi AMD và các đối tác  công nghiệp hàng đầu, kiến trúc super 7 đã vượt qua kiến trúc socket 7 truyền thống bằng  cách hỗ trợ các giao diện kênh hệ thống 95Mhz và 100Mhz, cổng tăng tốc đồ họa AGP  (Accelerated Graphics Port) và một số tính năng “cao cấp” khác như 100Mhz SDRAM, USB,  Ultra DMA và ACPI. Khi AMD giới thiệu BXL Athlon sử dụng Slot A vào giữa năm 1999 nhằm mục đích cạnh tranh  với Intel khi hãng này thay đổi giao diện CPU từ đế gắn (socket­based) sang khe gắn (slot­ based). Kiến trúc tương đồng về mặt vậy lý so với Slot 1, nhưng CPU Athlon giao tiếp thông  qua các chân tín hiệu bằng một giao thức hoàn toàn khác – được sáng chế bởi hãng Digital  gọi là EV6­ cho phép truyền dữ liệu từ bộ nhớ (RAM) sang CPU thông qua kênh truyền hệ  thống 400Mhz (400Mhz Front­Side­Bus­ FSB). Slot A sử dụng một đơn vị cân bằng điện áp  (Voltage Regulator Module­VRM) cho phép CPU thiết lập điện áp hoạt động phù hợp trong  khoảng từ 1.3V – 2.05V. Như đã trình bày ở trên, các BXL dạng khe gắn (slot­based processor) không hỗ trợ khả năng  tích hợp Cache L2 trên nhân CPU. Do vậy, vào đầu năm 1999 Intel lại quay trở lại công nghệ  đóng gói PGA (Pin Grid Array) có hỗ trợ Cache L2 tích hợp trên nhân CPU (processor die)  qua dòng CPU Intel Celeron. Dòng CPU này sử dụng công nghệ đóng gói PPGA 370, được  tiếp xúc với Mainboard qua một giao diện đế gắn CPU gọi là socket 370. Không chỉ có Intel,  hãng Cyrix cũng có dòng CPU VIA C3 sử dụng socket 370 này. Sư từ bỏ slot 1 đột ngột nhằm đẩy mạnh socket 370 đã tạo ra một nhu cầu về thiết bị đổi cho  phép sử dụng các BXL công nghệ CPU PPGA trong các mainboard có khe gắn slot 1. Abit là  hãng đầu tiên trên thị trường sản xuất bộ đổi từ Slot 1  Socket 370 gọi là “SlotKET”. Sau  đó nhiều nhà sản xuất khác cũng theo chân Abit sản xuất các bộ đổi như vậy. Điều này đã  bảo đảm cho các chủ nhân của mainboard Slot 1 không phải lo lắng về khả năng tương thích  với các CPU “đời mới” sử dụng socket 370. Sau Socket 370, Intel lại tiếp tục giới thiệu các phiên bản khác của nó là các giao diện FC­ PGA (Flip Chip­Pin Grid Array) và FC­PGA2 sử dụng với các BXL Pentium III Coppermine  và Tualatin. Lợi ích của các công nghệ đóng gói này là phần nóng nhất của BXL sẽ nằm ở  mặt không tiếp xúc với Mainboard, do vậy khả năng tản nhiệt được cải thiện. Công nghê FC­ PGA2 còn hỗ trợ thêm một bộ tản nhiệt tích hợp (Integrated Heat Speader) cho phép tăng  cường khả năng dẫn nhiệt tốt hơn nữa. FC­PGA và FC­PGA2 tương thích về mặt cơ học với  Socket 370, nhưng về mặt tín hiệu điện, chúng không tương thích với nhau. các BXL FC­PGA  yêu cầu các Mainboard hỗ trợ đặc tả kỹ thuật VRM 8.4 (VRM 8.4 Specification) trong khi các  BXL FC­PGA2 đòi hỏi hỗ trợ VRM 8.8. Tương tự như Slot 1 của Intel, giao diện Slot A của AMD cũng có một “đời sống khá ngắn  ngủi”. Với sự sáng tạo ra Athlon Thunderbird và Spitfire, AMD đã theo chân người khổng lồ  Intel bằng cách chuyển sang sử dụng công nghệ đóng gói theo kiểm PPGA trong dòng BXL  Athlon và Duron của mình. Các BXL này được kết nối vào Mainboard thông qua một giao diện  mà AMD gọi là Socket A. Giao diện này có 462­pin (chân tín hiệu), trong đó có 453 chân  được BXL sử dụng, và hỗ trợ các kênh dữ liệu 200Mhz EV6 và 266Mhz EV6. Các mã CPU  Palomino và Morgan sau này của AMD cũng tương thích với Socket A. Với sự ra đời của Pentium 4 vào cuối năm 2000, Intel đã giới thiệu thêm một công nghệ đóng  gói theo kiểm để gắn khác là Socket 423. Như một biểu trưng cho xu hướng các BXL tiêu thụ  ít năng lượng, công nghệ đóng gói socket 423 theo kiểu PGA này có mức điện áp hoạt động  trong khoảng từ 1.0V – 1.85V theo đặc tả VRM. Socket 423 được sử dụng trong khoảng vài  tháng thì Intel lại tiếp tục giới thiệu công nghệ đóng gói mới là socket 478. Điểm khác nhau  chính giữa hai loại đế gắn này là socket 478 có mật độ sắp xếp các chân dữ liệu dày hơn theo  giao diện µPGA (Micro Pin Grid Array), điều này khiến cho kích thước của CPU và không gian  bị chiếm dụng bới đế gắn CPU trên Mainboard giảm đi rất đáng kể. Socket 423 được giới  thiệu nhằm sử dụng cho công nghệ CPU Pentium 4 Northwood 0.13 µm vào đầu năm 2002. Sau đây là bảng tổng hợp các giao diện CPU thường thấy trên Mainboard, kể từ kiến trúc đế  gắn socket 1 – đế gắn dành cho các CPU 486 và Overdrive vào những năm đầu của thập kỷ  1990. Tên  Giao diện  Mô tả 169­pin  Được thiết kế trên các Mainboard 486, hoạt động với điện áp 5 Volt và  Socket  hỗ trợ các CPU 486, các bộ nâng cấp CPU (CPU OverDrive) DX2 và  1 (169chân  DX4. tín hiệu)  Socket  Là một giao diện có sửa đổi một chút từ Socket 1 nhưng cho phép hỗ  238­pin 2 trợ thêm Pentium CPU OverDrive. Hỗ trợ điện áp 5 volt và 3.3Volt. Mainboard có các Jumper cho phép  Socket  237­pin lựa chọn điện áp phù hợp. Nó hỗ trợ các CPU như Socket 2 cộng thêm  3 các CPU 586. Là đế gắn (Socket) đầu tiên dùng cho dòng CPU Pentium. Hoạt động  Socket  ở mức điện áp 5 volt, do đó nó chỉ hỗ trợ các Bộ Xử lý (CPU) Pentium  273­pin 4 60/66 Mhz. Kể từ BXL (CPU) Pentium­75Mhz, Intel chuyển qua sử  dụng công nghệ 3.3Volt. Hoạt động ở mức điện áp 3.3 volt và hỗ trợ các BXL dòng Pentium từ  Socket  320­pin 75Mhz cho tới 133Mhz. Nó không tương thích với các đời BXL sau này  5 bởi chúng đòi hỏi thêm 1 chân tín hiệu (1 additional signal pin). Được thiết kế cho các BXL 486. Là phiên bản được cải tiến của Socket  Socket  235­pin 3 hoạt động ở mức điện áp 3.3 volt. Nó xuất hiện vào thời điểm các  6 BXL 486 chuẩn bị được thay thế bởi BXL Pentium. Được thiết kế dành cho BXL Pentium MMX của Intel. Đế gắn có hỗ  trợ khả năng phân chia điện áp Lõi/Nhập Xuất (Core/IO voltage) theo  Socket  320­pin yêu cầu của Pentium MMX và các BXL sau này. Giao diện đế gắn này  7 được sử dụng cho tất cả các dòng CPU khác (như AMD K6) sử dụng  kênh truyền hệ thống 66Mhz. Dành riêng cho BXL Intel Pentium Pro, đế gắn này đã đẩy chi phí sản  Socket  387­pin xuất lên quá cao nên đã nhanh chóng bị thay thế bằng thiết kế dạng  8 hộp (cartridge­based). 242­way  Giao diện “khe gắn” – slot­ được dùng cho kiến trúc BXL dạng hộp  connector  (cartridge). Mạch điều khiển bên trong hộp của BXL chứa 512KB cach  Slot 1 L1 – bao gồm 2 chip nhớ 256KB­ Cache L1 này sẽ hoạt động với tốc  (242­điểm  độ bằng ½ tốc độ của BXL. Slot 1 được sử dụng cho các BXL Intel  tiếp xúc) Pentium II, Pentium III và Celeron đời đầu. Tương tự Slot 1, nhưng cho phép hỗ trợ dung lượng cache L1 tới 2MB  330­way  Slot 2 và chạy cùng tốc độ với BXL. Được sử dụng cho các dòng BXL Intel  connector Pentium II/III Xeon chuyên dụng làm Server . Là giao diện dùng cho các BXL của hãng AMD. Nó có giao diện cơ học  242­way  (mechanical interface) tương thích với Slot 1 nhưng sử dụng giao diện  Slot A connector điện (electrical interface) hoàn toàn khác. Được sử dụng với BXL AMD  Athlon đầu tiên. Được thiết kế nhằm thay thế cho công nghệ Slot 1. Nó bắt đầu với  370­pin Socket  dòng BXL Intel Celeron từ đầu năm 1999. các dòng BXL Intel  (370­chân  370 Pentium III Coppermine và Tulatin (trong các phiên bản gọi là FC­ tín hiệu) PGA và FC­PGA2) cũng sử dụng khe gắn này. Socket 462­pin Là giao diện của AMD được giới thiệu với các BXL Athlon đầu tiên  A (Thunderbird) với L2 cache tích hợp. Các dòng BXL AMD sau này  cũng sử dụng Socket A. Được thiết kế hỗ trợ các chân tín hiệu mới theo yêu cầu của kênh  truyền kệ thống (FSB) thuộc dòng BXL Intel Pentium 4. Dòng BXL  Socket  423­pin này có một tản nhiệt tích hợp (HIS­Integrated Heat Speader) vừa làm  423 nhiệm vụ bảo vệ nhân BXL (CPU die) vừa cung cấp bề mặt để gắn bộ  tản nhiệt loại lớn. Giao diện gắn các BXL Intel Pentium 4 Xeon (chuyên dụng cho các  máy Chủ – Server­ chuyên nghiệp). Các chân tín hiệu cộng thêm cung  Socket  cấp thêm sức mạnh cho các thế hệ BXL tương lai với các Cache L3  603­pin 603 tích hợp trên nhân BXL (on­die) hoặc trên mạch (off­die) nhằm hỗ trợ  các kênh truyền thông giữa các BXL (inter­processor Communications)  trong các hệ thống máy tính sử dụng nhiều BXL. Được thiết kế đồng thời với việc giới thiệu công nghệ xử lý 0.13Micron  Socket  dành cho BXL Intel Pentium 4 Northwood vào đầu năm 2002. Giao  478­pin 478 diện Micro Pin Grid Array (µPGA) của nó cho phép giảm kích thước  của BXL và của đế gắn trên mainboard. Socket 7:  Là một chân đế (khe gắn) được thiết kế trên Mainboard dành riêng để gắn các CPU Pentium.  Đó cũng có thể được dùng để gắn các bộ xử lý tương thích Pemtium từ các hãng sản xuất  khác như các CPU K5 và K6 của hãng AMD.  Sưu tầm Tìm hiểu bo mạch chủ Bo mạch chủ (mainboard) là một bảng gồm những mạch điện tử có gắn vi xử lý, bộ nhớ, khe cắm mở rộng, cổng bus… để kết nối trực tiếp hoặc gián tiếp tới mọi phần của máy tính. 25 năm đã trôi qua kể từ khi bo mạch chủ PC ra đời, dù diện mạo đổi thay nhiều nhưng chức năng vẫn như ban đầu. Bo mạch chủ của máy tính trong ti   ng    là motherboard hay mainboard và thường được nhiều người    ế    Anh gọi tắt là: mobo, main. Cách thiết bị thường có mặt trên bo mạch chủ Trong các thiết bị điện tử Bo mạch chủ là một b   n m   ch   ả   ạ    đóng vai trò là trung gian giao tiếp giữa các  thiết bị với nhau. Một cách tổng quát, nó là mạch điện chính của một hệ thống hay thiết bị điện tử. Có  rất nhiều các thiết bị gắn trên bo mạch chủ theo cách trực tiếp có mặt trên nó, thông qua các kết nối  cắm vào hoặc dây dẫn liên kết, phần này trình bày sơ lược về các thiết bị đó, chi tiết về các thiết bị xin  xem theo các liên kết đến bài viết cụ thể về chúng. •   Chipset c   u b   c  ầ   ắ   cùng với chipset c   u nam    ầ    sẽ quyết định sự tương thích của bo mạch chủ đối  với các CPU  •   Chipset c   u nam  ầ     •   BIOS  : Thiết bị vào/ra cơ sở, rất quan trọng trong mỗi bo mạch chủ, chúng có thể được thiết đặt  các thông số làm việc của hệ thống. BIOS có thể được liên kết hàn dán trực tiếp vào bo mạch chủ hoặc có thể được cắm trên một đế cắm để có thể tháo rời.  • Các linh kiện, thiết bị khác: Hầu hết còn lại là linh kiện điện tử (giống như các linh kiện điện tử trong các bo mạch điện tử thông thường). s Sự cải tiến của bo mạch chủ Máy tính nguyên thủy có rất ít thiết bị tích hợp. Chúng chỉ có các cổng, bàn phím và hộp băng lưu trữ. Thiết bị điều hợp màn hình hay điều khiển ổ mềm, ổ cứng đều được kết nối qua khe cắm mở rộng. Đây là mặt trước và mặt sau của mẫu bo mạch chủ IBM dành cho PC đầu tiên vào năm 1981. Các chip được nối với nhau như một cái lưới. Ảnh: International Business Machines Corporation. Về sau, có nhiều thiết bị hơn được tích hợp vào bo mạch chủ. Dù vậy, quá trình này cũng khá lâu dài, ví dụ cổng I/O (nối cáp đầu vào/đầu ra) hay thiết bị điều khiển đĩa thường được kết nối bằng thẻ mở rộng cho đến năm 1995. Nhiều thiết bị khác liên quan đến đồ họa, mạng, âm thanh vẫn tách rời khỏi mainboard. Nhiều hãng sản xuất đã thử nghiệm với nhiều mức độ tích hợp khác nhau. Tuy nhiên, việc này cũng gây ra nhiều hạn chế vì người dùng sẽ khó nâng cấp một tính năng nào đó, ví dụ, bạn muốn đẩy khả năng đồ họa lên cao sẽ đồng nghĩa với việc thay cả mainboard. Do đó, các bộ phận cần nâng cấp nhiều như RAM, CPU và vi xử lý đồ họa thường được đặt ở khe cắm dạng slot (cắm đứng) hay socket (đặt nằm) để dễ thay thế. Các bộ phận ít được sử dụng tới như SCSI sau này bị bỏ đi để giảm chi phí sản xuất. Hiện tại bo mạch chủ tích hợp các chip đồ họa, mạng… thường xuất hiện ở dòng máy tính giá rẻ. PC cấu hình cao dùng cho việc chơi game hay thiết kế đồ họa, xử lý phim ảnh thường dùng bo mạch chủ không tích hợp để tiện nâng cấp. Trên bo mạch chủ trước kia, vào khoảng năm 1995, vi xử lý dạng socket rất phổ biến. Đến cuối năm 1998, dạng slot bắt đầu chiếm lĩnh thị trường, mở đầu là Slot 1 ở dòng Pentium II. Tìm hiểu về bus Thiết kế PC hiện nay dùng nhiều bus khác nhau để kết nối các bộ phận của chúng. Tuy nhiên, bus rộng và có tốc độ cao rất khó sản xuất do các tín hiệu truyền đi với tốc độ “chóng mặt”, đến mức ngay cả khoảng cách chỉ vài centimetre cũng gây lỗi định thời gian. Ngoài ra, các rãnh kim loại trên bản mạch có tác dụng như chiếc anten vô tuyến thu nhỏ, truyền tiếng ồn điện từ gây ra tình trạng nhiễu các tín hiệu ở những chỗ khác trong hệ thống. Vì vậy, các kỹ sư thiết kế PC luôn đặt bus nhanh ở chỗ có diện tích nhỏ hẹp và bus chậm ở nơi thoáng hơn. Bus là hệ thống dây nối để truyền dữ liệu từ bộ phận này đến bộ phận khác trong máy tính. Nói một cách ví von, bus giống như con đường cao tốc, càng rộng càng truyền được nhiều dữ liệu đi với tốc độ cao. Tất cả các bus đều bao gồm 2 phần: bus địa chỉ và bus dữ liệu. Bus dữ liệu sẽ chuyển dữ liệu thực sự, còn bus địa chỉ sẽ truyền thông tin về đích đến của thông tin đó. Kích thước của bus, được hiểu như độ rộng của đường cao tốc, là yếu tố quan trọng quyết định lượng dữ liệu được chuyển đi mỗi lần. Ví dụ, bus 16 bit, 32 bit… có thể truyền từng đó dữ liệu một lần. Mỗi bus đều có xung đồng hồ được đo bằng MHz. Bus càng nhanh thì dữ liệu được chuyển đi càng nhanh, giúp cho ứng dụng trên máy tính hoạt động trơn tru và nhanh nhẹn hơn. Trên PC, bus ISA đang dần được thay thế bằng bus có tốc độ nhanh hơn như PCI. Hầu hết máy tính hiện nay đều có bus nội dành cho dữ liệu, yêu cầu tốc độ truyền tải nhanh như tín hiệu video. Bus nội này như một con đường cao tốc nối trực tiếp với vi xử lý. Theo vnexpress.net Tìm hiểu các linh kiện Lắp máy tính (1): Tìm hiểu các linh kiện Nếu mớ dây nối loằng ngoằng, các bản mạch trông như mê cung khiến người chưa biết nhiều về máy tính bối rối, hãy thử tự lắp ráp chúng. Chủ đề này bắt đầu bằng việc tìm hiểu các bộ phận cấu thành nên chiếc PC. Về tổng thể, một bộ PC bao gồm 2 phần chính là màn hình và Ảnh: Scotch. bộ xử lý trung tâm CPU. Màn hình là nơi hiển thị kết quả xử lý và quá trình thao tác với máy tính. Còn bộ xử lý trung tâm nằm trong một hộp kim loại (gọi là case), bao gồm nhiều vi mạch điện tử, ổ lưu trữ, quạt gió… bên trong và các cổng giao tiếp (để cắm các đầu dây, ổ nhớ rời…) ở bên ngoài. Phần màn hình - Màn hình: Hiện có 2 loại CRT và LCD với kích thước từ 14 inch trở lên. Màn CRT loại cong có hại cho mắt vì các tia cathode phóng trực tiếp về phía trước; màn CRT phẳng và LCD hạn chế tác hại hơn do các tia này bị phân tán. Nếu chỉ có CRT cong, người dùng có thể mua thêm tấm kính chắn với giá chỉ 2-3 chục nghìn. - Chuột: Đây là thiết bị ngoại vi dùng để thao tác trên màn hình máy tính. Hiện có các loại chuột bi, chuột quang, chuột không dây có gắn Bluetooth với giá dao động từ vài chục nghìn đến hơn một triệu đồng. - Bàn phím: Đây cũng là thiết bị ngoại vi dùng để nhập dữ liệu. Bàn phím có nhiều loại, từ loại thường giá chưa đến một trăm nghìn tới bàn phím không dây hoặc loại có thiết kế đặc biệt giá hơn một triệu đồng. Phần case - Bộ vi xử lý: là trung tâm tính toán, xử lý dữ liệu của máy tính với hàng triệu phép tính/giây. Gần đây, nhiều người nhắc đến sức mạnh của vi xử lý lõi kép với 2 nhân trên một chip, giúp tốc độ tính toán nhanh hơn và do đó, giá cả cũng đắt hơn. - Bo mạch chủ (mainboard): là nơi để gắn các thiết bị như chip, card đồ họa, card âm thanh, ổ cứng… Nó đóng vai trò là một “trung tâm điều phối”, giúp cho mọi thiết bị máy tính hoạt động nhịp nhàng và ổn định. Giá cả của bo mạch chủ tùy biến theo số thiết bị đã được tích hợp sẵn (trong các báo giá có từ “on-board”). - Ổ cứng: là nơi lưu trữ dữ liệu. Dung lượng ổ cứng càng lớn thì càng lưu được nhiều dữ liệu và giúp cho máy chạy êm khi có nhiều không gian trống. - RAM: bộ nhớ trong tạm thời là nơi lưu mọi hoạt động của các chương trình chạy trên máy tính. Khi RAM càng lớn, các chương trình vận hành trơn tru và nhanh hơn. - Card đồ họa: là thiết bị xử lý hình ảnh, video. Khi card đồ họa mạnh, hình ảnh hiển thị trên máy tính sẽ sắc nét và có nhiều hiệu ứng thật hơn. Những người chơi game “nặng” và hay làm việc với đồ họa sẽ yêu cầu cầu cao đối với thiết bị này. Chú ý một số mainboard đã tích hợp sẵn card đồ họa. - Card âm thanh: là thiết bị xử lý âm thanh, giúp cho người dùng nghe được tiếng trên máy tính. Một số mainboard cũng tích hợp sẵn card này. - Card mạng: là thiết bị hỗ trợ nối mạng Internet hay mạng nội bộ. Có loại card mạng tích hợp sẵn trên bo mạch chủ, có loại card mạng rời phải mua riêng. - Ổ đa phương tiện: các loại ổ CD trước đây hiện đang bị DVD “qua mặt” vì chúng có khả năng đọc cả CD lẫn DVD. Ngoài ra, nếu có nhu cầu, người dùng có thể mua loại ổ DVD đọc-ghi DVD hay đọc DVD, ghi được CD. - Ổ mềm: loại ổ lưu trữ này hiện đang “mất giá” vì bản thân đĩa mềm lưu dữ liệu không nhiều và hay hỏng. Nếu có USB gắn ngoài, bạn không cần đến loại ổ này. - Quạt gió: là thiết bị nhỏ nhưng rất cần thiết để làm mát những bộ phận tạo nhiệt trong quá trình hoạt động. Trục trặc ở quạt gió dễ làm thiết bị nóng quá mức và hỏng hẳn. Nhiều hãng để chỗ gắn quạt gió ở khắp mọi nơi như chip, nguồn, ổ cứng… Tuy nhiên, một quạt đường kính 120 mm ở case rộng rãi cũng có thể đảm bảo an toàn cho máy tính. Xem thêm bài này. - Nguồn điện: là nơi chuyển điện từ ngoài vào trong máy. Nguồn điện là thiết bị quan trọng trong việc giữ cho điện áp ổn định, giúp các thiết bị trong case được an toàn khi có sự cố. Nguồn điện có công suất lớn phù hợp với những máy gắn nhiều thiết bị tiêu tốn điện năng như quạt làm mát bằng nước, ổ cứng có tốc độ quay cao, ổ DVD nhiều chức năng… Bạn cũng có thể mua thêm loa ngoài, webcam, ổ USB, ổ cứng ngoài… để phục vụ nhu cầu giải trí và làm việc của mình. Chú ý khi tự chọn mua linh kiện lắp ráp, người dùng cần xem chúng có tương thích với nhau hay không. Bạn có thể tìm thông tin trên mạng về những dòng sản phẩm này để quyết định chính xác. Chuẩn bị lắp ráp - Dụng cụ cần dùng là một tô-vít 4 cạnh. - Nơi để máy tính cần khô và thoáng, ít bụi bẩn. Bề mặt để máy tính cần phẳng và vững chắc. T.H. Gắn linh kiện trên bo mạch chủ Lắp máy tính (2): Gắn linh kiện trên bo mạch chủ Bo mạch (mainboard) là trung tâm kết nối và điều phối mọi hoạt động của các thiết bị trong máy tính. Lắp ráp linh kiện vào bảng mạch này cần sự cẩn thận và một số mẹo nhỏ. Một trong các loại bo mạch chủ. Ảnh: Cdrinfo. Chú ý trước khi lắp - Mặc dù bo mạch chủ đã được gắn ở vị trí cố định bên trong hộp máy, vị trí của các card tích hợp sẵn và các loại ổ (cứng, mềm, CD) trong khoang có thể thay đổi đến một giới hạn nào đó. Tuy nhiên, tốt hơn hết là đặt chúng cách xa nhau vì dây cáp nối bị chùng một đoạn khá lớn. Để các thiết bị xa nhau cũng tạo khoảng không gian thoáng đãng, tránh tương tác điện từ gây hại. - Bo mạch chủ chứa các bộ phận nhạy cảm, dễ bị “đột quỵ” vì tĩnh điện. Do đó, bảng mạch này cần được giữ trong trạng thái chống tĩnh điện nguyên vẹn trước khi lắp ráp. Sản phẩm được bọc trong một bao nhựa đặc biệt, trên đó có quét các vệt kim loại. Vì vậy, trước khi lắp linh kiện, không nên để bảng mạch hở ra khỏi bao nhựa trong thời gian dài. Trong quá trình lắp ráp, bạn cần đeo một vòng kim loại vào cổ tay có dây nối đất. Loại vòng này có bán ở các cửa hàng tin học hoặc bạn tự chế bằng cách quấn một đoạn dây đồng nhiều lõi vào cổ tay và nối tiếp đất. Đây cũng là yêu cầu khi lắp các loại card. - Cần thao tác cẩn thận với các linh kiện. Nếu một vật như tô-vít rơi vào bo mạch chủ, nó có thể làm hỏng những mạch điện nhỏ, khiến cả thiết bị này trở nên vô dụng. Quy trình lắp ráp Bạn cần xác định xem case này có gắn đệm phủ hợp để đặt bảng mạch không. Miếng đệm này có tác dụng tránh cho bo mạch chủ chạm vào bề mặt kim loại của case sau khi lắp đặt, tránh chập mạch hoặc hỏng hóc khi máy tính bị va đập. Bất kỳ case mới nào cũng có loại đệm bằng nhựa hay kim loại. Chúng có thể được lắp sẵn vào case hoặc không. - Đặt tấm vỏ máy rời trên mặt bàn và gắn bo mạch lên một cách nhẹ nhàng rồi siết chặt đinh ốc. Ảnh: Source Force. - Nhẹ nhàng đưa vi xử lý vào khe ZIF (viết tắt của từ Zero Insertion Force), không cần dùng sức. Nếu được đặt đúng, nó sẽ trôi vào khe. Chú ý chân răm số 1 phải được đặt chính xác. Nếu không thể đặt bản chip thăng bằng, chú ý không được ấn. Khi lắp vi xử lý xong, khóa khe này bằng cái lẫy. Ảnh: Source Force. Các cửa hàng có bán chip đã gắn sẵn cùng quạt gió ngay trên bo mạch chủ. Nếu muốn “tận hưởng” cảm giác của dân tự lắp máy, bạn có thể mua loại chip rời. Tùy theo kiểu khe cắm slot (cắm đứng) hay socket (đặt nằm ngang) trên các hệ máy khác nhau, việc lắp chip có khác nhau đôi chút. Bôi một lớp keo IC mỏng (hoặc dán giấy dẫn nhiệt) lên đáy quạt chip. Vật liệu này giúp hơi nóng trong quá trình vi xử lý được dẫn lên quạt gió. Sau khi bôi keo, đặt quạt gió lên vi xử lý và khóa các lẫy tương ứng. Chú ý, cần làm sạch bề mặt trước khi bôi keo, có thể dùng cồn. Ảnh: Source Force. - Lắp RAM Đặt bản RAM vào khe slot và nhấn xuống, hai miếng nhựa màu trắng hai bên sẽ tự động “quặp” chặt khi thanh RAM vào khe vừa vặn. Trên bo mạch có chỗ đặt vài thanh và dung lượng của chúng sẽ được cộng với nhau. Trong trường hợp RAM hỏng, bạn chỉ cần nhấc ra khỏi khe và cắm lại RAM mới. Cách cắm SDRAM, DDRAM, RDRAM… có đôi chút khác biệt. Thanh RAM được đưa vào khe slot. Ảnh: Pcstats. Các kết nối từ bo mạch chủ Các dây cáp để nối đến ổ và khe cắm bằng chân răm có vẻ loằng ngoằng khiến bạn rối trí. Chú ý cắm chính xác để không làm hỏng các chân răm này. Chân số 1 ở cáp nằm về phía vạch đỏ trên dây. Tên cáp Kết nối với… Số chân răm IDE Ổ cứng, CD-ROM 40 Floppy IDE Ổ mềm 34 6×2 đối với dòng AT và 20 Cáp nguồn Từ bộ nguồn SMPS đến bo mạch chủ với ATX Loa, Đèn báo ổ cứng, đèn báo nguồn, đèn Đèn báo Khác nhau ở từng kiểu. khởi động lại. Các cổng sau PS/2, USB, LPT, COM 1, COM 2… Khác nhau ở từng kiểu. case Nối card Cáp tiếng ở CD-ROM… Khác nhau ở từng kiểu. Ngoài ra, còn có các loại cáp khác như nguồn điện cho ổ cứng, ổ mềm, CD-ROM, … không kết nối vào bo mạch chủ, nguồn điện cho quạt gió. Cấu hình chân răm trên bo mạch chủ Có nhiều vị trí để cắm cáp trên bo mạch chủ. Sau đây là danh sách: Tên thiết Số chân răm bị/slot LPT 26 COM 10 IDE 40 IDE Floppy 36 Lúc này, đặt bo mạch chủ vào case và vặn chặt các đinh ốc (một số loại dùng chân nhựa). T.H. (theo Source Force) Còn nữa Theo Vnexpress.net Lắp máy tính (3): Cắm các loại ổ Lắp máy tính (3): Cắm các loại ổ Các ổ lưu trữ (cứng, mềm) và đa phương tiện đều dùng cáp dữ liệu IDE để kết nối với bo mạch chủ. Một dây cáp có thể nối với 2 ổ cùng loại một lúc, tạo ra sự tiện lợi cho người sử dụng. Lắp ổ cứng Ở phía mặt sau ổ cứng có 2 chỗ để cắm. Một là phần dành để cắm nguồn (có 4 chân), nằm về phía bên tay phải. Phần chân cắm dài hơn phái bên trái dùng để cắm cáp dữ liệu. Dây cáp IDE có 3 đầu cắm, 1 dành để cắm vào khe trên bo mạch chủ (gọi là IDE 0), 2 dành để nối vào ổ cứng. Khi chỉ dùng một ổ cứng duy nhất, người ta thường dùng đầu cáp còn lại (IDE1). Một đầu của cáp IDE được cắm vào khe slot trên bo mạch chủ. Ảnh: T.H. Dây nguồn đã có một đầu cắm sẵn vào nguồn điện của máy tính, phần còn lại có 3 đầu, 2 đầu to dùng để cắm ổ cứng/ổ CD, 1 đầu nhỏ (cũng 4 chân) dành để cắm vào ổ mềm. Một dây nguồn có 3 đầu nối. Ảnh: T.H. Cả hai dây này chỉ vừa ổ theo chiều duy nhất. Kinh nghiệm cắm đúng là viền màu đỏ/xanh trên cáp dữ liệu IDE “úp mặt” về phía sợi dây màu đỏ của cáp nguồn. Viền màu đỏ trên cáp IDE quay về phía sợi dây màu đỏ trên cáp nguồn. Ảnh: T.H. Khi muốn cắm 2 ổ cứng trên cùng 1 máy, bạn chú ý đến phần chân răm nằm giữa và sơ đồ trên mặt ổ. Lúc này, bạn phải quy định ổ chính (master) và ổ phụ (slave) theo sơ đồ này. Chân răm màu trắng sẽ được kéo ra khỏi chỗ để ban đầu của nhà sản xuất và cắm vào vị trí đúng (ví dụ cắm vào vị trí số 2 để làm ổ master, số 3 để làm ổ slave). Sau đó, bạn sẽ phải thiết lập quy định này trong Bios. Chân răm màu trắng thường được để ở đây. Nếu ổ này Sơ đồ gắn chân răm để làm ổ được làm ổ chính/ phụ, nó sẽ chính hoặc phụ. Ảnh: được lấy ra để cắm vào vị trí PCstats. khác (thường là số 2,3). Ảnh: PCstats. Cuối cùng, đưa ổ cứng vào khoang và vít đinh chặt ở hai bên (thường là 4 đinh ốc cho mỗi ổ). Lắp ổ đa phương tiện Ổ đĩa quang như CD hay DVD đọc/ghi đều được nối với bo mạch chủ bằng cáp IDE và nguồn điện như ổ cứng. Tuy nhiên, ở những máy chưa có ổ CD/DVD, bạn phải mua thêm dây cáp khi muốn lắp thêm loại ổ này (cáp có giá vài nghìn đồng). Phần chân răm quy định ổ chính/phụ nằm bên cạnh bộ chân cắm cáp IDE. Thường thì sơ đồ cho chân răm này được in nổi hoặc dập chìm trên bề mặt ổ, tương ứng với vị trí của chân cắm. M là viết tắt cho master, S là viết tắt cho slave. Phần khe cắm 4 chân bên cạnh đó dành để nối cáp tín hiệu analog từ CD-ROM vào card âm thanh. Nếu ổ đa phương tiện của bạn có hỗ trợ Digital Audio thì cắm cáp vào khe tương ứng và nối đầu còn lại với card sound. Gỡ bỏ miếng nhựa ở khoang trên thùng máy và đưa ổ CD vào khoang, vít đinh ốc cẩn thận ở 2 bên. Khi đẩy ổ CD nhô ra phía trước, chú ý để ổ không bị lệch, tránh tình trạng kẹt khay chứa đĩa. Dây nối từ khe cắm analog vào chip âm thanh tích hợp trên bo mạch chủ. Ảnh: T.H. T.H. Còn nữa Theo Vnexpress.net Lắp máy tính (4): Cắm card và thiết bị ngoại vi Nếu không muốn dùng bo mạch chủ tích hợp sẵn chip âm thanh, đồ họa…, bạn có thể dùng card rời để dễ dàng nâng cấp về sau này. Cách lắp card và các thiết bị ngoại vi cũng khá dễ dàng, chỉ cần người dùng biết khái niệm về chúng. Cắm các loại card Trong máy tính, người ta dùng các loại card như sound (nhập vào và cho ra dữ liệu dạng âm thanh), video/graphics (nhập và xuất dữ liệu dạng hình ảnh), network (dành cho việc nối mạng LAN/Internet…). Hiện nay nhiều mainboard đã tích hợp sẵn các loại card này dưới dạng chip. Nếu muốn nâng cấp chúng về sau này, người dùng có thể chọn loại bo mạch chủ chưa tích hợp và mua card rời. Vị trí cắm của các thiết bị cần đến sự đồng bộ của bo mạch chủ và case. Ví dụ: mainboard có khe cắm card mạng ở dưới cùng nhưng vỏ máy không có lỗ để đặt cổng ở vị trí tương ứng sẽ khiến người dùng không thể cắm được dây mạng, ngoài cách tự khoan lấy. Do đó, bạn cần tham khảo sơ đồ bo mạch chủ và case trước khi mua hàng tự lắp. Card âm thanh Một loại card âm thanh với các đầu cắm. Ảnh: Answer. Phần lớn các sản phẩm loại này được sản xuất từ năm 1999 đến nay đều tuân theo chuẩn PC 99 của Microsoft. Theo đó, màu sắc của đầu cắm có ý nghĩa như sau: Màu Chức năng Hồng Cắm microphone dạng tín hiệu analog. Xanh dương Cắm đầu line-in dạng analog (như ampli, nhạt đầu đĩa…) Cho ra tín hiệu stereo (ở loa trước hoặc tai Xanh lá cây nghe) Đen Cho ra tín hiệu ở loa sau. Cho ra tín hiệu kỹ thuật số giao diện Da cam S/PDIF. Ở các máy tính phổ thông thường chỉ có 2 đầu cắm màu hồng và xanh lá cây. Tùy theo chân của card thuộc dạng nào, bạn cắm vào khe tương ứng. Có 3 loại slot là AGP, PCI và ISA. AGP có màu nâu, PCI màu trắng và dài hơn AGP một chút, còn ISA là slot đen và dài.
DMCA.com Protection Status Copyright by webtailieu.net