LỊCH SỬ VÀ ĐẶC ĐIỂM NGHỀ HÁT
CHÈO VIỆT NAM
"Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa xoan lớp lớp rụng rơi đầy
Hội chèo làng Ðặng đi qua ngõ
Mẹ bảo thôn Đoài hát tối nay"
Từ bao đời nay hát chèo đã trở thành một loại hình sinh hoạt văn hóa nghệ thuật
quen thuộc của người dân Việt Nam, nuôi dưỡng đời sống tinh thần dân tộc bởi cái
chất trữ tình đằm thắm sâu sắc. Trong kho tàng văn hóa nghệ thuật dân gian dân tộc,
chèo là một loại hình sân khấu kịch hát đậm đà tính dân tộc, với sự kết hợp nhuần
nhuyễn của hàng loạt yếu tố: hát, múa, nhạc, kịch mang tính nguyên hợp vô cùng độc
đáo.
Lịch sử nghề Hát chèo
Kinh đô Hoa Lư - Ninh Bình được coi là đất tổ của sân khấu chèo, và người
sáng lập là bà Phạm Thị Trân, một vũ ca tài ba trong hoàng cung nhà Đinh vào thế kỷ
10. Sau này loại hình nghệ thuật biểu diễn này đã được phát triển rộng ra đồng bằng
Bắc Bộ. Địa bàn phố biến từ Nghệ - Tĩnh trở ra.
Đồng bằng châu thổ sông Hồng luôn là cái nôi của nền văn minh lúa nước của
người Việt. Mỗi khi vụ mùa được thu hoạch, họ lại tổ chức các lễ hội để vui chơi và
cảm tạ thần thánh đã phù hộ cho vụ mùa no ấm. Từ thiên niên kỷ thứ nhất trước Công
nguyên, họ đã biết biểu diễn các vở chèo đầu tiên trên sân đình. Nhạc cụ chủ yếu của
chèo là trống chèo. Chiếc trống là một phần của văn hoá cổ Việt Nam, người nông dân
thường đánh trống để cầu mưa và biểu diễn chèo.
Chèo bắt nguồn từ âm nhạc và múa dân gian, nhất là trò nhại từ thế kỷ 10. Qua
thời gian, người Việt đã phát triển các tích truyện ngắn của chèo dựa trên các trò nhại
này thành các vở diễn trọn vẹn dài hơn.
Sự phát triển của chèo có một mốc quan trọng là thời điểm một binh sỹ quân
đội Mông Cổ đã bị bắt ở Việt nam vào thế kỷ 14. Binh sỹ này vốn là một diễn viên nên
đã đưa nghệ thuật Kinh kịch của Trung Quốc vào Việt Nam. Trước kia chèo chỉ có
phần nói và ngâm các bài dân ca, nhưng do ảnh hưởng của nghệ thuật do người lính bị
bắt mang tới, chèo có thêm phần hát.
Một cảnh trong vở
Vào thế kỷ 15, vua Lê Thánh Tông đã không Hồ Xuân Hương
cho phép biểu diễn chèo trong cung đình, do chịu ảnh
hưởng của đạo Khổng. Do không được triều đình ủng hộ, chèo trở về với những người
hâm mộ ban đầu là nông dân, kịch bản lấy từ truyện viết bằng chữ Nôm. Tới thế kỷ 18,
hình thức chèo đã được phát triển mạnh ở vùng nông thôn Việt Nam và tiếp tục phát
triển, đạt đến đỉnh cao vào cuối thế kỷ 19. Những vở nổi tiếng như Quan Âm Thị
Kính, Lưu Bình Dương Lễ, Kim Nham, Trương Viên xuất hiện trong giai đoạn này.
Đến thế kỷ 19, chèo ảnh hưởng của tuồng, khai thác một số tích truyện như Tống Trân,
Phạm Tải, hoặc tích truyện Trung Quốc như Hán Sở tranh hùng. Đầu thế kỷ 20, chèo
được đưa lên sân khấu thành thị trở thành chèo văn minh. Có thêm một số vở mới ra
đời dựa theo các tích truyện cổ tích, truyện Nôm như Tô Thị, Nhị Độ Mai.
Chèo sân đình, còn được gọi là chèo cổ: Là loại hình chèo cổ của những
phường chèo xưa, thường được biểu diễn ở các sân đình, sân chùa, sân nhà các gia
đình quyền quý. Sân khấu chèo sân đình thường chỉ là một chiếc chiếu trải ngoài sân,
đằng sau treo chiếc màn nhỏ, diễn viên và nhạc công ngồi hai bên mép chiếu tạo dàn
đế. Chèo sân đình diễn theo lối ước lệ, cảnh trí chỉ được thể hiện theo ngôn ngữ, động
tác cách điệu của diễn viên. Đạo cụ của người diễn hay sử dụng là chiếc quạt.
Trên đường xâm nhập ngày càng sâu vào mọi mặt sinh hoạt đời thường của bà
con thôn xóm, những người làm chèo đã nhanh chóng kịp thời chuyển địa điểm diễn
qua sân đình, từ lòng đình hoặc thềm đình quay ra ba phương sáu hướng, lấy đấy làm
khán trường ngoài trời rộng rãi phóng khoáng. Cứ thế, dần hình thành cả loạt nguyên
tắc kịch thuật linh hoạt độc đáo, mà nhiều nhà chuyên môn gọi là sân khấu ba mặt.
Quá trình tìm cách thể hiện các tích mới, nhân vật mới, tình huống mới, nghệ
nhân đã vay mượn các loại dân ca, dân vũ trò diễn dân gian và "chèo hoá" chúng dần
cho tới khi thành thủ pháp của vốn nghề nhà. Không loại trừ những cái mới không thể
không sáng tạo, ban đầu có thể còn vụng về, gồ ghề, sau được người này kẻ kia uốn
nắn sửa sang mà thành hay dần, đẹp dần, với sức diễn tả mạnh dần.
Dường như trong chèo cổ, cái cười ngày càng chiếm thời gian dài, càng chú ý
phản ánh những thói hư tật xấu của đời thường. Ðiều đó, làm cho tính xã hội của chèo
ngày mỗi nổi đậm về sau. Nổi bật hơn cả là lớp việc làng chỉ bằng nói thường, nói lối,
nói rao, "ngâm thơ", với đủ thành phần nhân sự của bộ máy chính quyền cơ sở đại
diện cho pháp luật, tập tục, đạo lý, tôn giáo, bị vạch mặt thật ê chề.
Song nhà nghề trân trọng gìn giữ, coi là mẫu mực cho nghề Tổ, còn là cả loại
hình tượng nhân vật nữ tốt có, chưa hẳn tốt có, chưa hẳn xấu cũng có, đặc biệt là số
nhân vật nữ vượt khỏi vòng kiềm toả của đạo lý phong kiến, như Thị Màu, đào Huế,
Suý Vân,...
Có điều, nếu Thị Màu chỉ là nhân vật đối tỷ cốt
làm bật rõ sự nhẫn nhục của Thị Kính lần nữa, để đức
độ nàng khả dĩ đủ mức lên toà sen thành Phật Quan Âm;
nhân vật đào Huế tuy chẳng ai nói là "phản diện" nhưng
cũng không được nhà Nho "ưa", vẫn chỉ là chi tiết phụ,
mà nếu có lược đi cũng không hại gì đến kết cấu và chủ
đề tích truyện; còn Suý Vân, người phụ nữ bất đắc dĩ
đành bỏ chồng, lại nằm vào bản thân (tích) trò, hay nói
đúng hơn, dễ tới 2/3 thời gian diễn tích Kim Nham là để
Một cảnh trong vở
thể hiện nàng.
Quan Âm thị Kính
Thị Màu, Ðào Huế, Suý Vân đều được nghệ nhân sáng tạo thành khuôn diễn
với nhiều bài hát múa dành riêng, độc đáo, tới nay vẫn giữ nguyên giá trị thẩm mỹ và
giá trị nghệ thuật.
Những tính cách, chính là đức độ bản sắc nhân vật ấy thường bộc lộ thụ động,
tức là họ chỉ phô bày tâm trạng và cách ứng phó khi sự biến đã xẩy ra, bằng cách diễn
xuất mang nội dung và hình thức nhiều ít hấp dẫn đủ sức làm gương cho người xem.
Chỉ số ít mang tính cách vượt khỏi quan điểm phong kiến mới phô bày một cách chủ
động, mà có đúng là cố ý, khi nghệ nhân dùng những làn điệu và khuôn diễn thật đặc
sắc làm rạng rỡ nghệ thuật cổ truyền: tính từ những nhân vật Thày Ðồ, Thày Bói, Phù
Thuỷ, Vợ Mõ đến Thị Màu, Ðào Huế, Suý Vân.
Ðồng thời với sự xuất hiện lần lượt những cái mới trên, tính xung đột hay
thường gọi là tính kịch trong một số bản trò cùng tuỳ người soạn, tuỳ tích, tuỳ phường
gánh và khán giả mà gia tăng đáng kể. Ðiều này đi theo với việc bộc lộ tính cách nhiều
hay ít chủ động của nhân vật. Như xung đột trực diện và quyết liệt giữa Ðào Huế và
Tuần Ty (với đào Nấp) là một bước "mới" so với xung đột cũng trực diện trước đấy
giữa Châu Long và Lưu Bình, hoặc giữa Vợ Mõ với Xã Trưởng.
Ở đây cũng thấy rõ quá trình thu hút hòa nhập số loại hình dân ca, dân vũ, diễn
xướng và trò diễn dân gian làm thành bản thân nghệ thuật chèo, mà thực tế diễn xuất
của số vở truyền thống còn hằn rõ dấu vết. Cho nên, nói "chèo ra đời từ thời Ðinh, xây
dựng trên cơ sở trò nhại và hát múa" như một nhà nghiên cứu đã viết là chưa thỏa
đáng. Thực ra, chèo từ loại Giáophát triển thành có tích, có nhân vật, từ đấy du nhập,
chuyển biến các loại hát bỏ bộ (trong sinh hoạt hát Xoan, hát Dậm, hát Dô,...), các loại
hát nói(trong hát ả đào, hát văn, hát xẩm,...), kết hợp với số động tác trong múa(hát)
chèo đò, múa (hát) cửa đình(các khuôn múa bàn tay, múa lượn ngón, múa cánh tay),
múa mâm đên, múa qnạt, múa cờ,...; với cả những trò nói mặt, trò trình nghềvốn rất
phổ biến trong những hội làng, đánh dấu từng mức trình độ sáng tạo và thưởng ngoạn
nghệ thuật của đồng bào từng vùng.
Như vậy, chèo sân đình hình thành ngôn ngữ nghệ thuật ngay khi thành hình và
phát triển kịch chủng, là đã lưu ý nhiều đến số lớp trò chuyên dùng, xếp cạnh số lớp
trò đa dùng, trong đó, âm nhạc giữ vai trò rất quan trọng. Nói cách khác, những gì làm
người xem phân biệt chèo với các kịch chủng cùng nằm trong loại hình kịch hát dân
tộc (Việt) như tuồng, kể thêm cải lương, chưa nói ôpêra, ôpêrét hay kịch nói, những
cái lọt vào tai, hiện ra trước mắt người xem (dù là tâm tư tình cảm nhân vật hay không
gian thời gian xẩy ra sự biến) chính là âm nhạc, gồm cả nhạc gõ, nhạc khí và làn điệu
qua nghệ thuật biểu diễn của nhà nghề.
Do phải phụ thuộc hoặc chịu ảnh hưởng nhiều ít của những biến thiên văn hóa
xã hội mỗi thời kỳ lịch sử mà từ Lý Trần về trước, nhạc dân gian và nhạc cung đình
hòa hợp gần như là một; sang đời Hậu Lê có lúc nhạc cung đình hướng ngoại cố giữ vị
trí chủ lưu, song không bao lâu cũng chịu bất lực để "tục nhạc" (trong đó có nhạc
chèo) bùng lên, ùa tràn vào các lễ nghi triều miếu, bất chấp mấy lần vua Lê chúa Trịnh
ra sắc chỉ cấm đoán ngăn chặn, như từng chép ở Ðại Việt sử lý, Vũ trung tuỳ bút. Tới
thế kỷ XIX, nhà Nguyễn có lúc muốn thâu tóm tất cả những gì thuộc lễ nhạc về một
mối, lập hẳn một Thự, rồi một ban Hiệu Thư chuyên lo mà cũng chỉ cản trở chuyện đó
phần nào. Bởi chèo sân đìnhnhờ bám chắc vào đời sống đông đảo bà con và các Hội
làng, nên dù ở hoàn cảnh nào cũng được nhân dân bù trì khích lệ mà tồn tại và lớn dần
đến ngày nay.
Con đường gần 5 thế kỷ từ chèo Thuyền bản đến chèo Kiều, hoặc có thể nói, từ
trò nhà Phật (có thể gọi là chèo sân chùa?) chuyển sang chèo sân đình qua biết bao
biến thiên văn hóa xã hội, cả chính trị, đã để lại cho đời cả một kho tàng nghệ thuật
sân khấu dân tộc quý giá, đòi các thế hệ sau quan tâm bảo tồn, kế thừa, phát huy và
phát triển.
Sự hình thành khuôn diễn cho từng loại nhân vật hay cho từng nhân vật cụ thể
là cả một công trình nghệ thuật mang tính tập thể cao độ, trong đó, mỗi người mỗi góp
vào, phần nhiều từ ứng diễn ứng tác truyền đời trên cơ sở bản trò. Vì thế hình tượng
vai đóng đã hầu thành khuôn diễn chung trên đường nét cơ bản đòi kẻ đi sau phải cố
gắng tuân thủ, nhất thể đối với số vai hay, vở diễn hay, đã được giới nghề coi là vốn cũ
truyền thống.
Một cảnh trong vở Trương Viên
Chèo cải lương là một dạng chèo cách tân do Nguyễn Đình Nghi khởi xướng
và theo đuổi để thực hiện từ đầu những năm 1920 đến trước Cách mạng tháng Tám
1945, theo xu hướng phê phán tính ước lệ của chèo cổ. Chèo cải lương được soạn
thành màn, lớp, bỏ múa và động tác cách điệu trong diễn xuất, xử lý những mô hình
làn điệu chèo cổ, đưa nguyên những bài dân ca có sẵn vào bổ sung cho hát chèo. Bộ
"Tám trận cười" của Nguyễn Đình Nghi gồm những vở nổi tiếng.
Chèo chải hê, còn gọi là chèo nhị thập tứ hiếu bắt nguồn từ nội dung diễn
xướng: Là loại hình dân ca hát vào rằm tháng bảy hàng năm, hoặc trong đám tang,
đám giỗ của người có tuổi thọ, có nguồn gốc từ việc kết nghĩa giữa 2 làng Vân Tương
(Bắc Ninh) và Tam Sơn (Đông Anh, Hà Nội), gồm có các phần:
1. Giáo roi
2. Nhị thập tứ hiếu
3. Múa hát chèo thuyền cạn
4. Múa hát kể thập ân.
Kết thúc chương trình hát chèo chải hê thường là hát quan họ.
Điều thú vị là chèo Chải Hê ban đầu nhằm diễn xướng trong các đám tang hiếu
của người cao tuổi, về sau, nhu cầu giải trí, giao lưu văn nghệ càng lên cao, nó có thêm
những bài hát chèo thuyền và hát huê tình tươi tắn, sinh động. Xưa kia, làng Lũng
Giang có đến ba phường chèo Chải Hê tại ba xóm Chùng, Chinh, Đông, thường hát thi
với nhau.
Đặc điểm của chèo Việt
Không giống tuồng chỉ ca tụng hành động anh hùng của các giới quyền quý,
chèo miêu tả cuộc sống bình dị của người dân nông thôn. Khát vọng sống thanh bình
giữa một xã hội phong kiến đầy bất công. nhiều vở chèo còn thể hiện cuộc sống vất vả
của người phụ nữ sẵn sàng hy sinh bản thân vì người khác. Nội dung của các vở chèo
lấy từ những truyện cổ tích, truyện Nôm; được nâng lên một mức cao bằng nghệ thuật
sân khấu mang giá trị hiện thực và tư tưởng sâu sắc. Trong chèo, cái thiện luôn thắng
cái ác, các sỹ tử tốt bụng, hiền lành, luôn đỗ đạt, làm quan còn người vợ thì tiết nghĩa,
cuối cùng sẽ được đoàn tụ với chồng. Các tích trò chủ yếu lấy từ truyện cổ tích, truyện
Nôm; ca vũ nhạc từ dân ca dân vũ; lời thơ chủ yếu là thơ dân gian. Lối chèo thường
diễn những việc vui cười, những thói xấu của người đời như các vai: Thầy mù, Hương
câm, Đồ điếc, Quan Âm Thị Kính. Ngoài ra chèo còn thể hiện tính nhân đạo, như
trong vở Trương Viên.
Chèo luôn gắn với chất "trữ tình", thể hiện những xúc cảm và tình cảm cá nhân
của con người, phản ánh mối quan tâm chung của nhân loại: tình yêu, tình bạn, tình
thương.
Nhân vật trong chèo
Nhân vật trong chèo thường mang tính ước lệ,
chuẩn hóa và rập khuôn. Tính cách của các nhân vật
trong chèo thường không thay đổi với chính vai diễn đó.
Những nhân vật phụ của chèo có thể đổi đi và lắp lại ở
bất cứ vở nào, nên hầu như không có tên riêng. Có thể
gọi họ là thầy đồ, phú ông, thừa tướng, thư sinh, hề
v.v...Tuy nhiên, qua thời gian, một số nhân vật như Thiệt
Thê, Thị Kính, Thị Mầu, Súy Vân đã thoát khỏi tính ước
Vai Hề
lệ đó và trở thành một nhân vật có cá tính riêng.
Diễn viên đóng chèo nói chung là những người không chuyên, hợp nhau trong
những tổ chức văn nghệ dân gian gọi là phường chèo hay phường trò..."Hề" là một vai
diễn thường có trong các vở diễn chèo. Anh hề được phép chế nhạo thoải mái cũng
như những anh hề trong cung điện của vua chúa châu Âu. Các cảnh diễn có vai hề là
nơi để cho người dân đả kích những thói hư tật xấu của xã hội phong kiến hay kể cả
vua quan, những người có quyền, có của trong làng xã. Có hai loại hề chính bao gồm:
hề áo dài và hề áo ngắn.
Kỹ thuật kịch
Đây là loại hình nghệ thuật tổng hợp các yếu tố dân ca, dân vũ và các loại hình
nghệ thuật dân gian khác ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nó là hình thức kể chuyện bằng
sân khấu, lấy sân khấu và diễn viên làm phương tiện giao lưu với công chúng, và có
thể được biểu diễn ngẫu hứng. Sân khấu chèo dân gian đơn giản, những danh từ chèo
sân đình, chiếu chèo cũng phát khởi từ đó. Đặc điểm nghệ thuật của chèo bao gồm yếu
tố kịch tính, kỹ thuật tự sự, phương pháp biểu hiện tính cách nhân vật, tính chất ước lệ
và cách điệu. Ngôn ngữ chèo có những đoạn sử dụng những câu thơ chữ Hán, điển cố,
hoặc những câu ca dao với khuôn mẫu lục bát rất tự do, phóng khoáng về câu chữ.
Chèo không có cấu trúc cố định năm hồi một kịch như trong sân khấu châu Âu
mà các nghệ sỹ tham gia diễn chèo thường ứng diễn. Do vậy, vở kịch kéo dài hay cắt
ngắn tuỳ thuộc vào cảm hứng của người nghệ sỹ hay đòi hỏi của khán giả. Không
giống các vở opera buộc các nghệ sỹ phải thuộc lòng từng lời và hát theo nhạc trưởng
chỉ huy, nghệ sỹ chèo được phép tự do bẻ làn, nắn điệu để thể hiện cảm xúc của nhân
vật. Số làn điệu chèo theo ước tính có khoảng trên 200.
Nhạc cụ
Chèo sử dụng tối thiểu là hai loại nhạc cụ dây là đàn nguyệt và đàn nhị, đồng
thời thêm cả sáo nữa. Ngoài ra, các nhạc công còn sử dụng thêm trống và chũm chọe.
Bộ gõ nếu đầy đủ thì có trống cái, trống con, trống cơm, thanh la, mõ. Trống con dùng
để giữ nhịp cho hát, cho múa và đệm cho câu hát. Có câu nói “phi trống bất thành
chèo” chỉ vị trí quan trọng của chiếc trống trong đêm diễn chèo. Trong chèo hiện đại
có sử dụng thêm các nhạc cụ khác để làm phong phú thêm phần đệm như đàn thập lục,
đàn tam thập lục, đàn nguyệt, tiêu v.v...
Chèo hay là thế, độc đáo là thế, nhưng bộ môn nghệ thuật truyền thống này với
đặc điểm hiện diện là biểu diễn - các trình thức múa hát xung quanh một thân trò, bởi
thế cho nên, chèo được lưu truyền chủ yếu qua một trật tự hết sức tự nhiên: thày giáo
già- con hát trẻ. Thế hệ nghệ sỹ sau nối tiếp thế hệ trước, giữ nghề bằng cách truyền
nghề trực tiếp, bắt tay chỉ ngón, dạy từng cách diễn, cách hát. Phần kịch bản văn học
của chèo cổ cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay với một vài bản nôm, gần hơn là một vài
bản bằng chữ quốc ngữ in trong trời Pháp thuộc (nhưng những bản này lại không mấy
chính xác so với những lớp diễn của các nghệ nhân!). Thực tế này là một khó khăn,
thách thức lớn đối với công việc nghiên cứu, sưu tầm chèo cổ.
Từ năm 1959 đến năm 1964, Bộ văn hoá (nay là Bộ VH,TT&DL) đã tổ chức
các Hội nghị nghệ nhân. Mỗi đợt hội nghị diễn ra trong vòng từ một đến ba tháng. Tại
đây, qua sự giới thiệu của các Ty Văn Hoá địa phương, các nghệ nhân chèo đã được
mời đến với mục đích phục hồi các tiết mục chèo cổ.
Trong thời gian họp lại với nhau, các cụ nghệ nhân đã chia tổ, cùng nhau nhớ,
ghim ghép các mảnh trò, trò diễn lại với nhau. Trong quá trình hội nghị, vốn liếng cá
nhân đã dần dần đi tới thống nhất tương đối về mặt cấu trúc của các trò diễn. Từ
những sáng tạo biểu diễn riêng biệt, mỗi chiếng diễn một khác, mỗi cụ diễn một khác
đối với cùng một trò diễn hay vai diễn, các nghệ nhân đã gạn đục khơi trong, xây dựng
những trích đoạn những vai diễn tiêu biểu, sau này chúng ta lấy đó làm mẫu.
Cho đến hôm nay, 7 vở chèo truyền thống được gìn giữ, bảo tồn đã cho thấy
hành trình bảo tồn, sáng tạo nghệ thuật không chỉ tính bằng tháng năm thông thường
mà phải được tính bằng đời nghệ sỹ, tính bằng những thăng trầm và lòng nhiệt huyết
với nghề tổ. Các nghệ nhân được quy tụ, tập hợp, khuyến khích sáng tạo trong môi
trường lao động nghệ thuật đúng hướng và thực chất sẽ mang lại hiệu quả lớn mà thời
gian và công chúng thưởng thức nghệ thuật sẽ là thước đo đánh giá chính xác.
Trên đường phát triển của mình, chèo đã tiếp nhận nhiều nhân tố mới lạ cả về
cấu trúc lẫn âm nhạc, múa, mỹ thuật... Những thủ pháp cấu trúc của kịch nói (gốc
phương Tây) đã được du nhập vào chèo để phục vụ cho việc kể chuyện của chèo thêm
hấp dẫn, nhưng đã được "chèo hóa", hài hòa trong mạch kể. Những làn điệu dân ca các
vùng, miền Trung, miền Nam, các dân tộc miền núi, thậm chí của cả nước khác trên
thế giới cũng được "chèo hóa" đi cho phù hợp với phong cách của nó, phù hợp với
"khẩu vị" của người dân quê đồng bằng Bắc bộ Việt Nam. Có thể nói, người Việt Nam
đã hình thành nên một kiểu "Văn hóa chèo" bền vững và đầy sức sống (bao gồm Văn
chèo, Nhạc chèo, Múa chèo, Mỹ thuật chèo và Cách diễn chèo). Nó không bị đồng
hóa, mà còn có khả năng tự làm phong phú bằng cách đồng hóa các yếu tố ngoại nhập
trên con đường phát triển của mình và luôn luôn đào thải những gì không phù hợp với
nó. Cái chất dân dã mộc mạc, nhắn nhủ duyên dáng, hài hước đã tạo dựng lên cái
xương cốt của chèo với phong vị riêng. Nó nghiêm chỉnh đấy nhưng cũng hài hước
ngay được. Cái bi tưởng đến tột cùng nhưng lại xóa ngay được bằng cái hài ý vị, thoắt
hư thoắt thực, có lúc nhân cái phi lí để làm rõ cái có lý, cứ thế dẫn người xem vào một
cuộc hành trình đầy bất ngờ và thú vị.
Trải qua trăm năm thời gian, con người đất Việt đã tạo nên xung quanh tâm hồn
mình một cơ tầng văn hoá với những vỉa trầm tích quý giá, đó chính là hàng trăm,
hàng nghìn câu ca dao, tục ngữ, dân ca, điệu hò… và nghệ thuật chèo truyền thống.
Chúng ta có thể tự tin để nói với nhau rằng- qua hệ thống các nhân vật tạo nên các tích
trò lý thú, nghệ thuật chèo đã mang lại cho con người Việt Nam truyền thống sự thanh
lọc tâm hồn.