KHOA HỌC LÔGÍC - HỌC THUYẾT VỀ KHÁI NIỆM
tài liệu “Bách khoa thư các khoa học triết học – Khoa học logic” được biên soạn với mục đích để thử nhận diện mục đích, ý nghĩa và tầm quan trọng của tác phẩm trong sự nghiệp.Là sức mạnh bản thể tồn tại cho mình, Khái niệm là cái gì tự do,và; vì lẽ từng mỗi moomen của nó là cái toàn bộ giống như bản thân.khái niệm và được thiết định như là sự thống nhất không thể tách rời với nó....
KHOA HỌC LÔGÍC - HỌC
THUYẾT VỀ KHÁI NIỆM
KHOA H C LÔGÍC
PH N III
H C THUY T V KHÁI NI M
KHOA H C LÔGÍC
PH N III
H C THUY T V KHÁI NI M
§160
Là s c m nh b n th t n t i-cho-mình, Khái ni m là cái gì t do; và, vì l
t ng m i mômen c a nó là cái toàn b [gi ng] như b n thân Khái ni m và
ư c thi t nh như là s th ng nh t không th tách r i v i nó, nên Khái
ni m là [cái] toàn th ; vì th , trong s ng nh t c a nó v i chính nó, Khái
ni m là cái ư c xác nh t -mình và cho-mình.
Giảng thêm:
Nói chung, quan điểm về Khái niệm là quan điểm của thuyết duy tâm tuyệt
đối; và triết học [sẽ] là nhận thức thấu hiểu bằng khái niệm, trong chừng mực
tất cả những gì có giá trị đối với những hình thức khác của ý thức như là cái
gì tồn tại – và do là trực tiếp, nên độc lập-tự chủ – đều được nhận biết trong
triết học chỉ đơn thuần như là một mômen có tính ý thể mà thôi. Trong Lôgíc
học của giác tính, Khái niệm thường được xem như là một hình thức đơn
thuần của tư duy, và, chính xác hơn, như một biểu tượng phổ biến; và chính
quan niệm thứ cấp này về Khái niệm đã làm cơ sở quy chiếu cho khẳng định
được lặp đi lặp lại – nhân danh cảm xúc và trái tim – rằng Khái niệm, xét như
là Khái niệm, là cái gì chết cứng, trống rỗng và trừu tượng. Nhưng, trong
thực tế, tình hình là hoàn toàn ngược lại: nói một cách đúng đắn, Khái niệm
chính là nguyên tắc của mọi sự sống, và qua đó, đồng thời là cái gì hoàn toàn
cụ thể.
482
Điều như thế là kết quả của toàn bộ vận động lôgíc cho tới nay và vì thế, ta
không cần đến bây giờ mới phải chứng minh ở đây. Sự đối lập giữa hình thức
và nội dung – có giá trị hiệu lực khi Khái niệm bị nhầm tưởng là cái gì đơn
thuần có tính hình thức – bây giờ đã bị bỏ lại sau lưng chúng ta, cùng với tất
cả những sự đối lập khác mà sự phản tư [của giác tính] đã bám chặt vào. | Tất
cả chúng đã được vượt qua một cách biện chứng, nghĩa là, thông qua chính
bản thân chúng; và, Khái niệm thực sự là cái bao hàm tất cả mọi tính quy
định tư duy trước đây như đã được vượt bỏ bên trong chính mình. Hẳn rằng
Khái niệm phải được xem như một hình thức, nhưng chỉ có điều đó là một
hình thức vô hạn và sáng tạo, vừa bao hàm sự phong phú của tất cả nội dung
ở trong mình, vừa buông thả [nội dung ấy] ra khỏi chính mình(a). Tất nhiên,
Khái niệm cũng có thể được gọi là “trừu tượng”, nếu ta hiểu “cụ thể” chỉ như
cái cụ thể cảm tính, và, nói chung, như cái gì có thể tri giác được một cách
trực tiếp, bởi Khái niệm, xét như Khái niệm, không để cho ta có thể dùng tay
mà nắm bắt được nó, và, nói chung, khi nói về Khái niệm thì việc nghe và
thấy là những gì đã thuộc về quá khứ. Dù vậy, như đã nói, Khái niệm cũng là
cái gì hoàn toàn cụ thể, chính bởi vì nó chứa đựng cả Tồn tại lẫn Bản chất, và,
do đó, chứa đựng tất cả mọi sự phong phú của cả hai lĩnh vực này ở bên
S308 trong nó trong sự thống nhất mang tính ý thể.
Như ta đã nói trước đây, các cấp độ khác nhau của Ý niệm lôgíc có thể được
xem như một chuỗi những định nghĩa về cái Tuyệt đối. | Do đó, định nghĩa
được mang lại ở đây là: “cái Tuyệt đối là Khái niệm”. Để được đúng là như
thế, chắc chắn ta phải hiểu Khái niệm theo một nghĩa khác và cao hơn so với
ý nghĩa về “Khái niệm” trong Lôgíc học của giác tính, là nơi nó chỉ đơn thuần
được xem như một hình thức của tư duy chủ quan của ta, mà không có bất kỳ
nội dung nào của riêng nó. Ở đây, trong Lôgíc học tư biện, vì lẽ Khái niệm có
một ý nghĩa hoàn toàn khác so với ý nghĩa mà ta thường nối kết với thuật
ngữ này, nên thoạt tiên câu hỏi có thể được đặt ra là: “tại sao một cái gì hoàn
toàn khác như thế mà vẫn được gọi là “Khái niệm”? Há nó không tạo cơ hội
cho sự hiểu lầm và lẫn lộn hay sao? Câu trả lời cho câu hỏi này phải là: cho
dù khoảng cách giữa Khái niệm của Lôgíc học hình thức và Khái niệm tư biện
có lớn đến đâu đi nữa, thì một sự xem xét cặn kẽ hơn sẽ cho thấy rằng ý nghĩa
sâu xa hơn của Khái niệm tuyệt nhiên vẫn không xa lạ với việc sử dụng ngôn
ngữ nói chung như mới thoạt nhìn. Ta vẫn nói về việc “diễn dịch” một nội
dung từ Khái niệm của nó; chẳng hạn, về việc diễn dịch những quy định luật
pháp liên quan đến tư hữu từ Khái niệm về tư hữu; và ngược lại, ta nói về
việc quy một nội dung thuộc loại ấy về lại cho Khái niệm của nó. Điều này
cho thấy sự thừa nhận rằng Khái niệm không đơn thuần là một hình thức
không có bất kỳ nội dung nào của riêng nó, bởi, một mặt, không có gì có thể
được diễn dịch hay suy diễn từ một hình thức như thế cả, và mặt khác, quy
một nội dung được cho về lại với hình thức trống rỗng của Khái niệm không
khác gì tước bỏ nội dung của tính quy định của nó, chứ không phải là nhận
thức được nó.
(a)
aus sich entläßt / releases it from itself. (Xem: Chú gi i cho §244).
483
CHÚ GI I D N NH P: §160
PH N III: H C THUY T V KHÁI NI M
Tư c khi i vào vi c phân chia n i dung c a Khái ni m, Hegel dành ba ti u o n u
tiên (§§160-162) d n nh p chung v Khái ni m như là s t do ng nh t v i mình
và như là cái toàn th ư c quy nh t -mình-và-cho-mình.
Khái ni m là cái t do như là s c m nh b n th t n t i cho-mình và là [cái] toàn
th ”…
- Là m t s th ng nh t v i mình, t c là s tr c ti p t thi t nh do vi c th i h i s
trung gi i, Khái ni m (như ã th y các ti n trình trư c ây) không ch là “s t do”
nói chung mà là “cái gì ang t do”, hay cái t do (das Freie / what is free / le libre).
Th t ra, b n th ã mang trong mình m m m ng c a s t do trong ch ng m c s c
m nh tuy t i c a nó làm ch (m t cách ph nh) i v i t t c s phong phú c a
n i dung c a nó (§151). Tuy nhiên, b n th v n còn g n bó quá tr c ti p v i n i
dung-tùy th c a nó, và n i dung-tùy th này, vì th , chưa có ư c m t s c l p-t
t n y cho s th ng nh t ph nh c a hình th c t o nên m t s t do úng
th t, nghĩa là, t o nên m t s ph n tư-trong-mình trong cái khác c a mình.
Ngư c l i, trong Khái ni m – như là tác ng hi n th c hóa mình trong cái khác-hi n
th c c a mình – ta ã th y s c m nh-b n th này t nay là tuy t i cho-mình như là
s ph nh-hi n th c i v i m t s ph nh hi n th c. Vì th , khi k t h p b dày
c a b n th và s trong su t ch quan c a cái cho-mình (“s c m nh-b n th t n t i-
cho-mình”), Khái ni m th c s là t do.
- S t do-khái ni m (k t h p c hai i u trên ây) không ph i là m t s tr u tư ng
n a mà là m t s t -quy nh hi n th c, do ó, là toàn th . Toàn th ch là toàn th
trong ch ng m c nó th ng nh t toàn b các mômen c u thành trong s t do. Sau
này, các mômen khác nhau này s là: cái ph bi n, cái c thù và cái cá bi t, nhưng
ây, chính là nh ng gì ã ư c nêu §159 trư c ây: a) s ph n tư-trong-chính-mình
c a B n ch t ánh hi n; b) t n t i hi n th c là nơi s ánh hi n có s t t n tr c ti p, và
c) cái “t ngã”, t c cái “trong-chính-mình” c a vi c ánh hi n. Song, vì l b n ch t ã
th hi n tri t trong t n t i, và t n t i chuy n hoàn toàn sang b n ch t, nên Khái
ni m không bên ngoài hay bên kia các tính quy nh c u t o nên các mômen khác
nhau c a nó, trái l i, luôn là cái toàn b trong t ng m i mômen y, và ch qua ó,
484
Khái ni m là “toàn th ”. Ta bi t r ng, b n ch t – v i tư cách là cơ s – cũng ã là cái
toàn th vì nó hoàn toàn có m t trong t ng m i mômen v sau c a nó (toàn b b n
ch t có m t trong “hi n h u”, trong “s v t”, trong “hi n tư ng" v.v…). Tuy nhiên, vì
v n còn thu c v lĩnh v c chung c a s ph n tư, nên b n ch t-cơ s t -ph n tư trong
các ph m trù mà nó t cơ s , ng th i các ph m trù này t -ph n tư trong nó, nhưng
quan h hai chi u này v n chưa tri n khai trong s ng nh t minh nhiên c a m t cái
vô h n cho-mình. Trái l i, trong Khái ni m, m i m t mômen khác nhau ch a ng
cái toàn b , còn Khái ni m-toàn b t ti p di n tuy t i trong m i m t mômen c u
thành (cái cá bi t, cái c thù và cái ph bi n u có m t trong nhau), do ó, là t
do trong và b i b n thân cái toàn th . Vì th , Hegel b o: “s ng nh t v i mình”
tương ng v i s “t do” c a Khái ni m, còn “t n t i ư c quy nh t -mình-và-cho-
mình” tương ng v i “toàn th ” c a nó. Ta c n làm rõ hơn m t chút v nh nghĩa
này cu i ph n Chính văn: … “trong s ng nh t v i mình, Khái ni m là cái ư c
quy nh [nh t nh] t -mình-và-cho-mình” (das an und für sich Bestimmte / what is
in and for itself determinate / ce qui est déterminé en et pour soi):
- Ngay trong s ng nh t v i mình, Khái ni m không ph i là s vô-quy nh tr ng
r ng và tr u tư ng mà là ư c quy nh nh t nh m t cách t -mình-và-cho-mình.
T i sao? Ta ã g p cái “t n t i ư c quy nh nh t nh t -mình-và-cho-mình” này
§98 trên bình di n ch t c a cái M t. ây cũng th nhưng c p c th hơn nhi u.
Ta l n lư t xét:
- Trư c h t, Khái ni m là “ ư c quy nh nh t nh” ngay trong s ng nh t v i
mình, vì nó ch là t do như là cái toàn th , có nghĩa, ch là t do trong t ng m i
mômen ư c quy nh nh t nh, là nơi Khái ni m có m t hoàn toàn trong m i
mômen nh t nh y.
- Nó còn ư c quy nh “t -mình”, vì m i tính quy nh c a nó u ư c bao hàm
trong tính tuy t i ơn gi n và trong s ng nh t b n th c a s ngang b ng c a nó
v i nó.
- Nó cũng ư c quy nh “cho-mình” vì s quy nh c a nó b i và cho m t cái khác là
ng nh t v i s quy nh c a nó trong chính-mình. Nó tuy là cái gì t quy nh m t
cách hi n th c, nhưng ch b i chính mình và v n minh nhiên là chính mình ngay
trong s quy nh c a mình. (xem l i nh nghĩa v “t n t i cho-mình” cu i §95).
Nói ng n, Khái ni m là s t do ngay trong lòng cái toàn th ư c quy nh nh t
nh, nghĩa là, ngay trong s quy nh d bi t hóa cái t -mình c a nó, nó v n tuy t
485
i là cho-mình. ó chính là s t -quy nh (Selbstbestimmung / Autodetermination)
hay “s quy nh t -mình-và-cho-mình) (xem l i nh nghĩa d báo trư c ây v
“Khái ni m” trong §83).
§161
Di n trình ti n lên c a Khái ni m không còn là s chuy n sang cái khác
l n s ánh hi n vào trong cái khác n a mà là s phát tri n; b i nh ng
mômen ư c phân bi t ng th i l p t c ư c thi t nh như là cái ng
nh t v i nhau và v i cái toàn b , và [m i] tính quy nh là m t cái t n t i
t do c a toàn b Khái ni m.
Giảng thêm:
Trong lĩnh vực của Tồn tại, tiến trình biện chứng là việc chuyển sang cái khác,
còn trong lĩnh vực của Bản chất, nó là việc ánh hiện vào trong cái khác. Ngược
lại, vận động của Khái niệm là sự phát triển, qua đó chỉ được thiết định những
gì đã có sẵn đó một cách tự-mình [mặc nhiên]. Tương ứng với cấp độ này của
Khái niệm ở trong giới Tự nhiên, đó là sự sống hữu cơ. Chẳng hạn, một cái
S309 cây phát triển từ hạt mầm của nó: hạt mầm đã chứa đựng toàn bộ cái cây bên
trong nó, nhưng trong một cách có tính ý thể, khiến ta không được xem sự phát
triển của nó như thể các bộ phận khác nhau của cái cây: rễ, thân, lá v.v… như
là đã hiện diện một cách realiter [latinh: thực tồn] ở trong hạt mầm, dù chỉ ở
trong một hình thức rất nhỏ bé. Đó là giả thuyết gọi là “đóng vào hộp”(a)(1):
khuyết điểm của giả thuyết này là những gì thoạt đầu chỉ có mặt theo kiểu có
tính ý thể lại được xem là đã hiện hữu. Tuy nhiên, chỗ đúng của giả thuyết
này chính là ở chỗ: Khái niệm vẫn ở-trong-nhà-nơi-chính mình trong tiến
trình của nó, và tiến trình không thiết định điều gì mới về mặt nội dung, mà
chỉ tạo ra một sự biến đổi về hình thức. “Bản tính” này của Khái niệm – thể
hiện trong tiến trình của nó như là sự phát triển chính nó – là điều người ta
luôn nghĩ tới khi nói về những ý niệm bẩm sinh trong con người, hay khi
người ta nói – như bản thân Plato đã làm – rằng mọi việc học chỉ đơn thuần là
sự nhớ lại, nhưng, tuy vậy, việc “nhớ lại” không nên hiểu như thể những gì
tạo nên nội dung của ý thức đã được đào tạo bằng việc học là đã có sẵn trước
đó trong ý thức ấy trong sự phát triển nhất định của nó.
(a)
Einschachtelungshypothese / Chinese box hypothesis / Involution.
(1)
Trư c Kant, thuy t ti n hóa (theo nghĩa cũ) xem toàn b sinh th h u cơ – v i t t c m i b ph n
c a nó – u ã có s n trong tr ng và tinh d ch (thuy t ti n l p). Kant ã thành công trong vi c ngh
g i thuy t này là “Involution” hay “Einschachtelung”: thuy t cu n (vào) trong, còn dành ch “ti n
hóa” (Evolution) (theo nghĩa ngày nay) cho quan ni m v “Epigenesis” (“h u thành”). Epigenesis (t
g c Hy L p: epi: thêm vào; genesis: ra i) là s hình thành sinh th h u cơ thông qua s phát tri n
nh ng t ch t m m m ng ch không ph i ã ư c ki n t o hoàn t t ngay t trư c như ch trương c a
Chr. Wolff (1759). (Kant cũng ch trương thuy t “h u thành” hay “n i sinh” v các ph m trù tiên
nghi m, bác b thuy t b m sinh. Xem: Phê phán lý tính thu n túy, B167 và Phê phán năng l c phán
oán, B376).
486
- Có thể nói sự vận động của Khái niệm phải được xem chỉ như là một trò chơi:
cái khác được thiết định bởi sự vận động của nó, trong thực tế, không phải là
một cái khác. Trong học thuyết của Kitô giáo, điều này được phát biểu bằng
sự khẳng định rằng Thượng đế không chỉ đã sáng tạo nên một thế giới đối
lập lại với Người như một cái khác, trái lại, Người đã tạo ra một Người Con
trai từ vĩnh hằng, và ở trong Người Con ấy, Người – với tư cách là Tinh thần
– tồn tại-trong nhà-nơi chính mình.
CHÚ GI I D N NH P: §161
- Ti u o n d n nh p th hai này bàn v phong cách hay ki u ti n lên v lôgíc c a Khái
ni m so v i c a t n t i và b n ch t trư c ây.
Th t th , theo Hegel, vì l Logos là tính ph nh, là s mâu thu n và v n ng, nên
Khái ni m (nói chung) – dù th hi n như là T n t i, B n ch t hay Khái ni m ( úng
nghĩa) –, nó ch y u v n là s ti n lên phía trư c (Fortgehen / progression). Nhưng,
có s khác bi t sâu s c gi a phong cách và ki u “ti n lên” c a c ba.
- Trong lĩnh v c T n t i – hay là nơi Khái ni m ch m i là t -mình –, tính ph nh
năng ng c a Khái ni m còn gi u mình àng sau s thay i tr c ti p c a các tính
quy nh ang-t n t i ơn thu n (seiend / being-there / étantes) c a Logos (§84). Vì
th , khi phơi bày ra bên ngoài, tính ph nh y ch th hi n như là s quá b t-liên
t c hay s chuy n sang nhau m t cách d tính c a m t ph m trù tr c ti p này sang
m t ph m trù khác; nói ng n, s ti n lên lôgíc c a T n t i (hay c a Khái ni m t -
mình) ch là m t s “chuy n sang cái khác” (Übergehen in Anderes / the passing into
the other / passage-dans-de-l’autre).
- Trong lĩnh v c B n ch t (hay Khái ni m ã ư c thi t nh), tính ph nh c a Khái
ni m ã n i t i hóa, vì nó th hi n trong tính tương quan n i t i, nh ó T n t i ch
trung gi i v i mình nh vào s ph nh chính-mình, nghĩa là, ch quan h v i chính-
mình như là quan h v i cái khác (§112). Tuy nhiên, vì cái khác này – trong ó B n
ch t kh ng nh chính mình b ng cách ánh hi n trong ó – (khi chưa t nc p
c a hành ng tương tác (§155)), chưa có ư c “ph m giá” ngang hàng v i b n ch t:
tính ph nh c a Khái ni m ch th hi n trong b n ch t như là s ph n tư (c a nó)
trong cái i l p: s ti n lên lôgíc c a b n ch t (hay c a Khái ni m ch ơn thu n
487
ư c thi t nh) ch là m t s “ánh hi n” (mình) trong-cái khác” (Scheinen in
Anderes / shining in the other / paraître (de soi)-dans-de-l’Autre).
- Ngư c l i, trong lĩnh v c c a s t do (t do là toàn th và toàn th là t do) hay nói
khác i, trong lĩnh v c c a Khái ni m v a là t -mình (= cho-cái khác), v a tuy t i
là cho-mình (= là mình ngay trong b n thân cái khác), s ti n lên lôgíc c a Khái ni m
không th b quy gi n thành m t s “quá ” hay “chuy n sang” cái khác, cũng không
thành m t s ánh hi n ơn thu n trong cái khác, mà t nay là s PHÁT TRI N
(Entwicklung / development / développement). Khái ni m “s phát tri n” r t g n gũi
v i khái ni m “năng lư ng" và “s t bi u l chính mình” ã g p trong ph n Nh n
xét c a §142. Th s “phát tri n” là gì? M t th c t i t phát tri n là m t th c t i t
ph n tư trong mình và i sâu m t cách b n ch t vào trong chính mình tương ng
chính xác v i s bi u l ra bên ngoài và v i s ngo i t i hóa tr c ti p. (Trong ph n
Gi ng thêm, Hegel nêu m t ví d trong lĩnh v c t nhiên minh h a: m t cái cây
(b n ch t-b n th ) khi t o ra b r , cành, lá “ bên ngoài” mình (t n t i tr c ti p) thì
cũng là chính mình và t kh ng nh trong tính cá bi t c a mình (Khái ni m t do).
Trong s ti n lên (s tăng trư ng c a cây), có nhi u y u t bi n thành s v t khác m t
cách tr c ti p (ví d : n thành hoa hay lá) và cũng có s “ánh hi n-trong-cái khác”
mà th c ch t là s t phân chia và t d bi t hóa trong t n t i tr c ti p (r , n , hoa,
lá…), nhưng rút c c, s quá c a m t s tr c ti p này sang s tr c ti p khác và s
ph n tư c a b n ch t trong s tr c ti p u ư c bao hàm h t trong s phát tri n
duy nh t chính mình c a cái cây: nó thu h i m i v n ng c a s tr c ti p mà nó thi t
nh và ch làm công vi c t kh ng nh chính mình b ng cách ánh hi n trong nh ng
mômen khác nhau c a nó).
- Như s th y, vì l m i mômen c a Khái ni m là b n thân toàn b Khái ni m, nên m i
h n t trong nh ng h n t ư c d bi t hóa ( ây, trong c p Khái ni m s là cái
ph bi n, cái c thù và cái cá bi t) l p t c ng th i ư c thi t nh như là ng
nh t v i h n t khác và v i cái toàn b . S “ti n lên” t nay là m t s t phát tri n
liên t c c a Khái ni m ngay trong s khác bi t c a các mômen nh t nh c a nó. Tính
quy nh (“ph bi n”, “ c thù”, “cá bi t”) ây cũng không còn là m t t n t i-khác
hi u như m t ranh gi i và m t s chuy n sang cái khác, cũng không còn là m t t n
t i- ư c thi t nh như là ánh tư ng hay v ngoài ư c ti n-thi t nh, m t s ánh
hi n trong cái khác; trái l i, t kh ng nh như là m t t n t i t do c a toàn b Khái
ni m, nghĩa là không còn như m t ranh gi i hay m t cái ti n-thi t nh mà như cái
t n t i tr c ti p, và, trong m i s thay i, Khái ni m tìm l i chính mình hoàn toàn,
488
và, như th , ch ánh hi n m t cách hi n th c trong-chính-mình. Nói cách khác, Khái
ni m là ngu n su i và là cơ s tuy t i t do c a các tính quy nh c a chính nó. Ta
có ây khía c nh khác trong nghĩa t nguyên c a ch “Khái ni m”: khái ni m
(conceptus) còn là “quan ni m” (conceptio) và là s s n sinh m i tính quy nh lôgíc:
chúng ra i t nó như t “nguyên t c sáng t o” c a chúng.
§162
H c thuy t v Khái ni m chia ra thành:
1. h c thuy t v Khái ni m ch quan hay Khái ni m [ ơn thu n] hình
th c(a);
2. h c thuy t v tính khách quan [hay tính khách th ] hay v Khái ni m như
là ư c quy nh [ ] tr thành s tr c ti p;
3. h c thuy t v Ý ni m, hay v Ch th -Khách th , v s th ng nh t c a
Khái ni m v i tính khách quan, v Chân lý tuy t i.
Lôgíc h c thông thư ng ch bao g m nh ng ch t li u ư c ta bàn ây
như m t ph n thu c v ph n th ba [k trên ây] c a cái toàn b , cùng
v i nh ng cái g i là “nh ng quy lu t c a tư duy” ta ã g p trư c ây. |
Và, trong Lôgíc h c ng d ng, có th o lu n thêm m t ít v nh n th c,
k t h p v i ch t li u tâm lý h c, siêu hình h c và thư ng nghi m khác,
b i l b n thân nh ng hình th c nói trên c a tư duy rút c c cho th y t
chúng là không còn n a, nhưng k t qu là môn khoa h c này ã ánh
m t phương hư ng v ng ch c c a nó. – V l i, nh ng hình th c nói trên
S310 – tuy ít ra cũng thu c v lĩnh v c ích th c c a Lôgíc h c – v n ch
ư c n m l y như là nh ng s quy nh c a tư duy có ý th c, nhưng
chính xác hơn, ch là c a tư duy có ý th c c p c a giác tính ch
không ph i c p c a lý tính.
Nh ng quy nh Lôgíc trư c ây – t c nh ng quy nh c a t n t i và
b n ch t – t t nhiên, không ch là nh ng quy nh ơn thu n c a tư
tư ng; [th t ra], trong mômen bi n ch ng c a vi c chuy n sang hay quá
c a chúng và trong vi c chúng quay tr v l i vào trong b n thân
chúng và trong [tính] toàn th c a chúng, chúng t ch ng t là nh ng
Khái ni m. Nhưng, chúng (xem: §84 và §122) ch là nh ng Khái ni m
nh t nh, nh ng Khái ni m [còn là] t -mình [m c nhiên] (an sich) hay,
cũng ng nghĩa như th , là nh ng Khái ni m cho-ta (für uns). | Vì l ,
cái khác (mà m i m t s quy nh chuy n sang hay quá sang nó, hay
ánh hi n vào trong nó, và, vì th , như là cái gì-có-tính-quan h ) không
ư c xác nh như là cái c thù(a) mà cũng không ph i cái [mômen] th
(a)
formell / [merely] formal.
(a) (b) (c)
Besonderes / something-particular; Einzelnes / something-singular; Allgemeinheit /
(d)
universality; Historie / description.
489
ba c a nó ư c xác nh như cái cá bi t(b) hay như ch th : s ng nh t
c a s quy nh trong cái i l p c a nó, [t c] s t do c a nó, là
không ư c thi t nh, b i nó không ph i là tính ph bi n(c). – Nh ng
“khái ni m” ư c hi u thông thư ng như là nh ng s quy nh c a giác
tính, hay cũng ch như là nh ng bi u tư ng ph bi n: do ó, nh ng “khái
ni m” như th bao gi cũng là nh ng s quy nh h u h n (endliche
Bestimmungen) (xem §62).
Lôgíc h c v Khái ni m thư ng ư c hi u như là m t khoa h c ơn
thu n có tính hình th c, theo nghĩa nh ng gì áng k ây ch là hình
th c ơn thu n c a khái ni m, phán oán và suy lu n, ch tuy t nhiên
không quan tâm li u cái gì [trong ó] là úng th t: chân lý úng th t
ư c gi nh là ph thu c duy nh t vào n i dung. N u qu th t nh ng
hình th c lôgíc c a Khái ni m ch là nh ng “thùng ch a”, nh ng bi u
tư ng hay nh ng tư tư ng ch t c ng, b t ng và d ng dưng, thì t ki n
th c v chúng ch là m t s mô t có tính l ch s (d) hoàn toàn h i h t và
không c n thi t. Nhưng, th t ra, hoàn toàn ngư c l i: nh ng hình th c
c a Khái ni m là Tinh th n s ng ng c a cái Hi n th c; và nh ng gì là
úng th t c a cái Hi n th c ch là úng th t là nh vào nh ng hình th c
này, thông qua chúng và trong chúng. Th nhưng [ti c r ng] chân lý
c a nh ng hình th c này, xét cho riêng chúng (für sich), cho n nay v n
chưa bao gi ư c xem xét và nghiên c u, và càng ít hơn n a v s n i
k t t t y u c a chúng.
CHÚ GI I D N NH P: §162
Ti u o n d n nh p th ba này gi i thi u ba b ph n c a Ph n h c thuy t v Khái ni m:
1. H c thuy t v Khái ni m ch quan hay Khái ni m hình th c. Ta nên c n th n v i
ch “ch quan” (subjektiv / subjective / subjectif) ây! Trư c h t, Khái ni m ư c
g i là “ch quan” không theo nghĩa là “ch quan c a u óc con ngư i” mà có ý
nghĩa tích c c r ng v i nó, Logos ã không ch là b n th mà còn là ch th n a*.
Tính “ch th ” hay tính “ch quan” này c a Logos là ch : trong Khái ni m, b n
ch t ã th i h i quan h c a nó v i m t t n t i hay v i ánh tư ng ư c ti n-thi t nh,
và, vì th , không còn bên ngoài chính mình khi t quy nh, trái l i, là s c l p-t
t n tuy t i t quy nh m t cách t do trong chính mình. Do ó, tính ch th hay
tính ch quan là s ph n tư-trong-mình m t cách vô h n, là s t do ã ư c m r ng
c a nó như là v n ng tu n hoàn c a vi c thi t nh chính mình m t cách tuy t i
* Xem: L i T a (§17) c a quy n Hi n tư ng h c Tinh th n, “Theo cách nhìn c a tôi [Hegel]…,
t t c v n là ch ph i lĩnh h i và di n t cái úng th t không [ch ] như là b n th mà c như
là ch th ”, S d, tr. 30; Chú gi i d n nh p c a BVNS, 1.3, S d, tr. 147-150.
490
trong cái t n t i-khác c a mình. Nhưng, n u tính ch th bi u th tích c c tính n i t i
c a cái gì t ph n tư trong mình ngay trong cái khác, thì nó cũng bi u th m t cách
tiêu c c v tính n i t i còn quá tr c ti p c a Khái ni m, vì s t do c a nó tho t u
ch m i t kh ng nh như là m m m ng, như là “nguyên t c” hay “quan ni m” còn
phong kín m i tính quy nh xa hơn, ch chưa như là s tr c ti p có s b n v ng ã
phát tri n m t cách hi n th c. Chính trong nghĩa y mà Khái ni m tho t u ch là
hình th c thu n túy c a n i dung mà nó t mang l i cho mình: ch “ch quan”, vì th ,
còn hi u theo nghĩa là: ơn thu n “hình th c”. (Vì th , trong thu t ng Hegel, ch
“Khái ni m” có hai ý nghĩa tùy theo c p : là “m m m ng”, “nguyên t c m c
nhiên” c a m t th c t i, và “là Khái ni m ã phát tri n”. Trong Hi n tư ng h c Tinh
th n, ta luôn g p hai ý nghĩa khác nhau này c a ch “Khái ni m”).
Tóm l i, Khái ni m ch quan không có nghĩa là hành vi hay s n ph m c a tính ch
th suy tư ng c a chúng ta; nó cũng không ph i là “hình th c” theo nghĩa là s tr u
tư ng ch quan kh i m i n i dung c th . Trái l i, nó là s t do n i t i c a lúc ban
u, chưa bi u l minh nhiên, và là “hình th c”, vì n i dung c a nó còn m c nhiên và
chưa ư c hi n th c hóa ra bên ngoài.
2. H c thuy t v “tính khách quan” hay “tính khách th ” (Objectivität) (§§194-
212)
H c thuy t v khách th s là h c thuy t v Khái ni m ã i ra kh i chính mình, ra
kh i lĩnh v c còn b t nh (vô-quy nh) c a s trung gi i thu n túy n i t i và, do ó,
t quy nh thành s tr c ti p ngo i t i c a s t n t i-hi n có hi n th c c a nó. Khi t
khách th hóa, Khái ni m cũng mang l i cho chính mình t t c n i dung-b n th
phong phú mà khi xu t hi n như là tính ch th , nó ã h p thu s b n v ng t t y u
vào trong s trong su t c a s t do c a nó.
3. H c thuy t v Ý ni m (§§213-243):
H c thuy t v Ý ni m là h c thuy t v Khái ni m ã trút b hay thoát ly kh i s
phi n di n c a tính ch quan l n c a tính khách quan tr c ti p c a nó. V y, ó là h c
thuy t v Ch th -Khách th , nghĩa là v s th ng nh t c a Khái ni m ch quan và
khách quan, t c v Chân lý tuy t i c a Logos.
- Ph n Nh n xét cho §162
- Ta c n chú ý ph n th hai c a Nh n xét khi Hegel nêu câu h i: trong ch ng m c nào
các quy nh lôgíc c a T n t i và B n ch t (trư c khi có các quy nh c a Khái ni m
úng nghĩa) v n có tính khái ni m? Hegel tr l i như sau:
491
- Các quy nh lôgíc c a T n t i và B n ch t không ph i là “nh ng quy nh ơn gi n
c a tư tư ng" (Gedankenbestimmungen) theo nghĩa là các quy nh tr u tư ng và b
cô l p, không có quan h h u cơ v i nhau. Trái l i, trong s t -th i h i và quá
sang các tính quy nh i l p (t c mômen bi n ch ng như nh nghĩa §81), chúng
i vào m i quan h v i nhau, qua ó chúng t ào sâu hơn, quay v trong chính mình
và t ng bư c t o nên nh ng “toàn th ” ngày càng r ng hơn, ó là c lĩnh v c c a T n
t i nói chung và lĩnh v c c a B n ch t trong tính toàn di n c a nó. V i tư cách là s
quay v trong mình, là s toàn th hóa, chúng qu là các khái ni m (theo nghĩa: “n m
chung l i” / con-capere). Nhưng, như ã th y, các cái “toàn th ” do chúng t o nên
chưa ph i là Khái ni m t -mình-và-cho-mình mà ch m i là các khái ni m ư c quy
nh nh t nh, t c các khái ni m h u h n, là nơi Khái ni m không t phát tri n b n
thân nó d a theo các òi h i c a s t do c a chính nó mà ch theo ki u phi n di n do
s tr c ti p c a T n t i hay tính ph n tư c a B n ch t áp t lên nó. T n t i và B n
ch t tuy có ch a ng s năng ng c a Khái ni m nhưng chưa tri n khai minh nhiên
như là Khái ni m, do ó, còn là “t -mình” (theo hai nghĩa: “ti m năng” và “cho ta”
ch chưa ph i “cho mình” [cho b n thân nó]). Như th , T n t i ch m i là Khái ni m
tr c ti p, tr u tư ng trong s ng nh t tr ng r ng: “Khái ni m t mình” (§84 và
§§91, 92). Cũng th , B n ch t ch là Khái ni m ư c thi t nh, t c b lôi cu n vào
m t tính quan h , chưa t ph n tư hoàn h o trong chính mình (§112).
- Khi m khuy t ch y u c a T n t i và B n ch t là thi u b n thân s t do c a Khái
ni m khi t phát tri n t -mình-và-cho-mình, nói khác i, thi u s c m nh tuy t i
ti p t c là chính mình trong cái khác c a mình. C u trúc hình th c này c a s t do-
khái ni m s ư c phân tích §163 ti p theo nh vào ba ph m trù: tính ph bi n, tính
c thù và tính cá bi t. C ba mômen này c a Khái ni m ã ư c d báo ây: là
chính mình m t cách tuy t i (t c: là ch th hay cái cá bi t) nghĩa là t ti p t c m t
cách ng nh t (t c: m t cách ph bi n) trong cái khác c a mình (t c: trong tính
c thù quy nh t bên trong), ó là s t do c a Khái ni m xét như là Khái ni m
(Begriff als solcher / the Concept as such / le Concept comme tel).
- có cái nhìn sơ b , ta th y: chính các tính quy nh c a T n t i và B n ch t u
thi u s t do này c a Khái ni m:
- Vì t ch i s trung gi i, T n t i chuy n tr c ti p sang cái khác (trung gi i nó t bên
ngoài);
- Vì t ch i s tr c ti p, B n ch t ánh hi n m t cách trung gi i trong m t cái khác
ư c ti n-thi t nh tr c ti p.
492
- Tóm l i, c T n t i và B n ch t u là các Khái ni m ư c quy nh nh t nh, vì cái
khác – trong ó m i quy nh chuy n sang hay trong ó nó ánh hi n (như cái gì có
quan h ) – chưa ư c quy nh (như s x y ra trong Khái ni m úng nghĩa) như là
m t tính c thù hay m t cái c thù, trong ó (t c trong cái khác c a nó) tính quy
nh v n tuy t i ngang b ng v i chính mình, không có s thay i.
- Nói cách khác, trong T n t i và B n ch t, cái h n t th ba (trong ó m i tính quy
nh h p nh t chính nó và cái khác c a nó) chưa ư c quy nh như là ch th t do
hay như là Khái ni m cá bi t t thi t nh nên chúng.
S dĩ tính quy nh c a T n t i và B n ch t chưa có ư c tính ph bi n, là vì chúng
không ph i là nh ng cái “ph bi n” t “ c thù hóa” m t cách t do trong “chính
mình”; nghĩa là, không có quy nh nào trong chúng ư c thi t nh trong s ng
nh t c a nó v i và trong cái i l p c a nó, t c, trong s t do c a vi c liên t c là
“chính mình” m t cách “ph bi n” trong cái khác, là cái làm công vi c “ c thù hóa”
hay phân chia nó). Ngư c l i, trong Khái ni m, cái khác không ph i là cái Khái
ni m chuy n sang hay ánh hi n vào, mà là tính c thù n i t i trong ó nó t liên t c
m t cách ph bi n và t kh ng nh m t cách t do như là ch th cá bi t.
493
S311 A
KHÁI NI M CH QUAN
a. Khái ni m xét như là Khái ni m
§163
Khái ni m, xét như là Khái ni m, ch a ng:
- mômen c a tính ph bi n như là s ngang b ng t do v i chính mình
trong tính quy nh (Bestimmheit) c a mình;
- mômen c a tính c thù, hay c a tính quy nh, trong ó cái ph bi n v n
c ngang b ng v i chính mình m t cách không b v n c; và
- mômen c a tính cá bi t, như là s ph n tư-vào trong-mình c a nh ng tính
quy nh: tính ph bi n và tính c thù. | S th ng nh t ph nh v i
mình c a tính cá bi t này là cái ư c xác nh t -mình và cho-mình, và,
ng th i là ng nh t v i mình hay là [cái] ph bi n.
Cái cá bi t cũng như cái hi n th c, ngo i tr vi c nó [cái cá bi t] ra i
t Khái ni m, và, do ó, ư c thi t nh như cái ph bi n, hay, như là s
ng nh t ph nh v i mình. Vì l cái hi n th c ch m i là s th ng
nh t c a b n ch t và hi n h u m t cách t -mình hay tr c ti p, nên nó có
th tác ng [có ti m năng tr thành hi n th c], trong khi tính cá bi t
c a Khái ni m hoàn toàn là cái tác ng (das Wirkende) – và, t t nhiên,
nó không còn tác ng như là nguyên nhân v i v ngoài là t o nên m t
cái khác, mà là cái tác ng [cái gì t t o nên] chính mình. – Tuy nhiên,
tính cá bi t không ư c hi u theo nghĩa c a tính cá bi t ơn thu n tr c
ti p, gi ng như khi ta nói v nh ng s v t cá bi t hay nh ng con ngư i
cá bi t v.v…; tính quy nh này v tính cá bi t ch có m t khi [ta] có s
phán oán. B t kỳ mômen nào c a Khái ni m thì b n thân cũng là toàn
b Khái ni m (§160), nhưng, tính cá bi t, ch th , là Khái ni m ư c
thi t nh như là [cái] toàn th .
Giảng thêm 1:
Khi ta nói về Khái niệm, ta thường chỉ có tính phổ biến trừu tượng ở trong
đầu; và Khái niệm, do đó, thường được định nghĩa như là một biểu tượng
khái quát. Theo đó, ta nói về khái niệm màu sắc, cây cối, thú vật v.v…, và
những khái niệm này sở dĩ ra đời là do sự gạt bỏ cái đặc thù làm cho những
màu sắc, cây cối, thú vật… khác nhau có thể được phân biệt với nhau, và ta
S312 nắm chặt lấy cái gì chúng có chung với nhau. Đó là cách hiểu về khái niệm của
giác tính; và tình cảm có lý khi bảo rằng những khái niệm như thế là trống
rỗng và không có nội dung, là những sơ đồ và những bóng mờ đơn thuần.
Thế nhưng, cái phổ biến của Khái niệm không phải đơn thuần là một cái
chung, còn cái đặc thù có sự tự tồn cho riêng mình, đối lập lại với nó, mà
đúng hơn là: cái phổ biến là cái gì tự đặc thù hóa (dị biệt hóa) và vẫn trong nhà-
494
nơi-chính mình trong cái khác của nó, trong sự trong sáng không bị vẩn đục.
Điều cực kỳ quan trọng đối với nhận thức lẫn cho sự hành xử thực tiễn của ta
là không được lẫn lộn giữa cái “chung” đơn thuần với cái phổ biến đúng thật,
hay với cái phổ quát(a). Mọi sự chê trách đối với tư duy nói chung và, nhất là
đối với tư duy triết học từ quan điểm của tình cảm, cũng như sự khẳng định
thường lặp đi lặp lại về tính nguy hiểm của một tư duy gọi là bị đẩy đi quá xa
như thế đều có nguồn gốc ở trong sự lẫn lộn này. Vả chăng, cái phổ biến
trong ý nghĩa đúng thật và bao trùm của nó là một tư tưởng mà ta phải nói
rằng nó đã cần nhiều thiên niên kỷ trước khi đi vào được trong ý thức của
con người, và là tư tưởng chỉ mới đạt được sự thừa nhận trọn vẹn là nhờ Kitô
giáo. Những người Hy Lạp [cổ đại] tuy đã được đào luyện rất cao về văn hóa
vẫn chưa biết về Thượng đế cũng như cả về con người trong tính phổ biến
đúng thật. Những vị Thần linh của người Hy Lạp đã chỉ là những quyền lực
đặc thù của Tinh thần, còn Thượng đế phổ biến, Thượng đế của mọi quốc gia-
dân tộc thì, đối với họ, vẫn là một Thượng đế còn bị ẩn giấu. Chính vì thế mà
đối với người Hy Lạp, có một hố ngăn cách tuyệt đối giữa bản thân họ với
những người “dã man”; và, con người, xét như là con người, vẫn đã chưa
được thừa nhận trong giá trị vô hạn và trong sự biện minh [tính chính đáng]
vô hạn của con người. Ta cũng có thể đã tự hỏi đâu là lý do khiến cho chế độ
nô lệ đã biến mất ở Châu Âu hiện đại, và khi thì viện đến hoàn cảnh này, khi
thì viện đến hoàn cảnh đặc thù khác để giải thích hiện tượng này. Nhưng, lý
do đúng thật tại sao ở Châu Âu Kitô giáo không còn những người nô lệ nữa
không thể tìm ở đâu khác hơn là trong nguyên tắc của bản thân Kitô giáo.
Kitô giáo là nền tôn giáo của sự Tự do tuyệt đối, và chỉ đối với người Kitô
hữu thì con người mới có giá trị như là con người, trong tính vô hạn và tính
phổ biến của con người. Cái thiếu đối với người nô lệ là sự thừa nhận “tính
nhân vị” hay “tính nhân cách” (Persönlichkeit) của họ; song, nguyên tắc của
tính nhân vị hay tính nhân cách là tính phổ biến. Người chủ nô không xem kẻ
nô lệ như một “con người”, “một nhân cách” (Person) mà như là một Sự vật-
không có tự ngã, và bản thân người nô lệ không được xem là có giá trị như
một “cái Tôi”, bởi lẽ kẻ chủ nô mới là cái “Tôi” của người nô lệ.
- Sự phân biệt trên đây giữa cái “chung” đơn thuần với cái phổ biến đúng thật
đã được phát biểu một cách đúng đắn trong tác phẩm nổi tiếng Khế ước xã hội
(Du contrat social) của J. J. Rousseau, khi ông nói rằng, những luật pháp của
một Nhà nước phải được ra đời từ “Ý chí phổ biến” (volonté générale) chứ
S313 không cần phải tính tới ý chí “của tất cả mọi người” (volonté de tous) [tiếng Pháp
trong nguyên bản]. Đối với lý luận về Nhà nước, ắt Rousseau đã đạt được
nhiều điều thấu đáo hơn nữa, nếu ông lúc nào cũng nhớ kỹ sự phân biệt này.
Ý chí phổ biến là Khái niệm của nguyện vọng, còn những luật lệ là những sự
quy định đặc thù của nguyện vọng được đặt cơ sở ở trong Khái niệm này.
(a)
dem wahrhaft Allgemeine, dem Universellen / what is truly universal.
495
Giảng thêm 2:
Ta phải bổ sung thêm một nhận xét về việc giải thích nguồn gốc và sự hình
thành của những Khái niệm thường được đưa ra trong Lôgíc học của giác
tính. Không phải chúng ta là kẻ “hình thành” nên những Khái niệm, và, nói
chung, Khái niệm không nên được xem như cái gì “được sinh ra đời”. Chắc
chắn Khái niệm không phải chỉ là Tồn tại hay là cái gì trực tiếp, vì, tất nhiên,
nó cũng có sự trung giới. Nhưng, sự trung giới nằm ngay trong bản thân Khái
niệm, và Khái niệm là cái gì được trung giới bởi chính nó và với chính nó. Vì
thế, sẽ là một sai lầm khi cho rằng, trước hết, có những đối tượng hình thành
nên nội dung của những biểu tượng của ta, và rồi, hoạt động chủ quan của ta
sẽ đến sau để hình thành những Khái niệm về chúng thông qua thao tác trừu
tượng hóa nói trước đây và tổng kết những gì những đối tượng có chung với
nhau. Thay vào đó, Khái niệm là cái thực sự đến trước, còn những sự vật sở
dĩ tồn tại như chúng đang tồn tại là thông qua hoạt động của Khái niệm vốn
ở bên trong chúng và tự khai mở ở trong chúng. Điều này có mặt trong ý thức
tôn giáo của ta, khi ta nói rằng Thượng đế đã sáng tạo nên thế giới từ hư vô,
hay, nói khác đi, mọi sự vật hữu hạn đều đã ra đời từ sự tròn đầy của những
tư tưởng của Thượng đế và từ những an bài thần linh của Người. Điều này
thừa nhận rằng tư tưởng, và, nói dúng hơn, Khái niệm là hình thức vô hạn,
hay, là hoạt động sáng tạo, tự do không cần một chất liệu có sẵn nào ở bên
ngoài nó để hiện thực hóa bản thân nó.
CHÚ GI I D N NH P: §163
A. Khái ni m ch quan: a) Khái ni m xét như là Khái ni m
- “Khái ni m xét như là Khái ni m” nghĩa là gì? Ta bi t r ng Khái ni m ánh d u m t
s b t u m i trong vi c trình bày cái Logos. ây m i th c s là s b t u úng
th t vi c tri n khai c a Tư tư ng, t c t -phát tri n d a theo quy lu t riêng c a nó là
s t do. V y, Khái ni m ánh d u s b t u c a vi c phát tri n chính mình m t
cách t do c a Logos. T t nhiên, tuy không còn m t s b t u tr u tư ng vô-quy
nh như t n t i-thu n túy hay th m chí b n ch t-thu n túy, nhưng v n là m t s b t
u như là m m m ng mà các tính quy nh c a nó v n t m th i b phong kín trong
m t tính n i t i còn tr c ti p. Vì th , tho t u, nó ch là Khái ni m ch quan hay
hình th c, hay nói m t cách tr u tư ng hơn n a, là KHÁI NI M XÉT NHƯ LÀ KHÁI
NI M, nghĩa là: Khái ni m chưa b t u t tri n khai bên trong chính mình như là
“phán oán” (§166 và ti p) và “suy lu n” (§181 và ti p) mà còn t gi i h n vi c
496
trình bày c u trúc còn tuy t i mang tính hình th c c a s t do c a nó khi m i xu t
hi n.
- Như th , trư c h t c n nêu các mômen ích th c mang tính khái ni m c a “Khái ni m
như là Khái ni m”, t c c a Khái ni m không còn là b n ch t n a nhưng cũng chưa
ph i là phán oán. Các mômen này chính là ba mômen ã nêu §159 khi nói v c
i m c a Khái ni m khi so sánh v i T n t i và B n ch t, trong ó các mômen này bây
gi ư c suy tư ng m t cách minh nhiên dư i ánh sáng c a mômen quy t nh trong
chúng là mômen th ba c a s t do hay c a “t ngã” c a Khái ni m. Ta ôn l i ba
mômen §159 th y rõ s chuy n hóa c a chúng trong s t do c a Khái ni m:
1. s ph n tư-trong-mình m t cách ng nh t hay là tính b n th -b n ch t c a Logos mà
s ánh hi n t ph nh b ng cách k t tinh thành s tr c ti p c l p-t t n;
2. b n thân s tr c ti p c l p-t t n này – mà t n t i ư c quy nh nh t nh c a nó
cũng tr c ti p t ph nh trư c b n ch t ã thi t nh nó – ch là ch cho b n ch t
ánh hi n t do “trong-chính-mình” trong cái khác c a nó;
3. cái “trong-chính-mình” này quy nh b n thân “t ngã” hay s t do ch quan, là nơi
hai mômen trên h p nh t l i (do s ph nh l n nhau) (t c mômen c a s ng nh t-
b n th và c a tính quy nh tr c ti p hay t n t i c a nó).
Chính ba mômen này bây gi ph i ư c suy tư ng không ph i trong s tr u tư ng
ti n-khái ni m c a chúng – n u th , ta s rơi vào l i trong các lĩnh v c T n t i và B n
ch t trư c ây – mà như là các mômen ã h p nh t và ã ư c toàn th hóa b i s t
do có m t kh p nơi c a Khái ni m úng nghĩa. Trong vi n tư ng y, Khái ni m xét
như là Khái ni m bao g m ba mômen sau ây: 1) tính ph bi n; 2) tính c thù và 3)
tính cá bi t.
1) TÍNH PH BI N (Allgemeinheit / universality / universalité: là s l y l i c p
Khái ni m s ng nh t-b n th (v n là mômen th nh t §159 nói trên), t c là s
ph n tư-trong-mình c a b n ch t luôn ngang b ng v i chính mình trong b n thân s
ánh hi n c a nó (vi c dùng ch “ngang b ng v i chính mình” / Gleichheit mit sich
selbst / equal to itself / égale à soi – v n là m t ph m trù c a B n ch t (§117) nói lên
s ph n tư ngo i t i làm công vi c so sánh s ng nh t c a hai h n t còn tách bi t
nhau – cho th y Khái ni m ch quan chưa th t s t phát tri n b ng s phán oán t
l p c a nó). Nhưng, tính ph bi n “ngang b ng v i chính mình” này (mômen th
nh t) l i ư c suy tư ng minh nhiên trong s th ng nh t không tách r i v i hai
mômen còn l i, t c v i toàn b Khái ni m (§§160-161), vì th , Khái ni m xét như là
497
Khái ni m ch a ng bên trong nó tính ph bi n như là s ngang b ng t do v i-
chính-mình (als freie Gleichheit mit sich selbst), nghĩa là có c mômen th ba (“v i-
chính-mình”) ngay trong lòng tính quy nh hay s bi n i c a nó (mômen th hai).
- Vì th , ta không ư c hi u “tính ph bi n” ây như là “tính chung” (generality /
genéralité collective) theo nghĩa “cái gì có chung i v i m i cái và m i cái” như
cách hi u thông thư ng. úng hơn, tính ph bi n bi u th s c m nh t do c a Khái
ni m t ti p t c chính mình ngay trong b n thân s tr thành v n bao hàm trong
s phát tri n c a nó, gi ng như th m t “vũ tr ” (“univers” trong ch “universality /
universalité) t quy nh và t tri n khai vô h n nhưng không h i ra kh i chính
mình, không ng ng b o t n chính mình m t cách tuy t i trong b n thân cái khác
c a mình. Nói ng n, “Khái ni m như là Khái ni m” là có tính ph bi n ch : nó t
quy nh bên trong b i m t s ph n tư hay ánh hi n n i t i b o t n s ng nh t tuy t
i c a nó ngay trong lòng tính quy nh c thù ( qua s ph nh c a tính quy
nh c thù, nó t trung gi i m t cách c th v i mình). Chính trong nghĩa ó mà cái
ph bi n c a Khái ni m ư c g i là “c th ”, b i nó “bao hàm” tính quy nh trong
chính-mình. Do ó, s phát tri n ti p theo c a Khái ni m s không ph i là m t s quá
hay chuy n sang m t cái gì khác, trái l i, v i tư cách là cái ph bi n, Khái ni m
v n là chính mình trong cái khác c a mình, nói rõ hơn, v n t b o t n ngay trong
b n thân vi c c thù hóa c a nó.
2. TÍNH C THÙ (Besonderheit / particularity / particularité): là s l y l i c p
Khái ni m m t cái t n t i- ư c-quy nh-nh t nh (mômen th hai §159), t c
s tr c ti p c l p-t t n c a b n ch t-hi n th c. Nhưng, bây gi , tính c thù c a
tính quy nh này ư c suy tư ng minh nhiên trong s th ng nh t không tách r i c a
nó v i hai mômen kia, và, qua ó, v i cái toàn b c a Khái ni m. Vì th , tính c thù
không còn là tính quy nh tr u tư ng v n thu c v t n t i v ch t và quy chi u v i
cái khác c a nó như v i cái gì bên kia ranh gi i c a nó. Trái l i, nó là m t mômen
n i t i ngay bên trong cái ph bi n, và cái ph bi n cũng ngay bên trong nó như là
nơi chính mình ch không ph i nơi m t cái khác. V y, tính c thù là tính quy nh
(mômen th hai), trong ó cái ph bi n v n là nó (mômen th nh t) m t cách t do và
tuy t i ngang b ng v i-chính-mình (mômen th ba). (Chú ý: bư c chuy n t “tính
ph bi n” (Allgemeinheit) sang “cái ph bi n” (das Allgemeine / the universal /
l’universel) là s chuy n hóa quen thu c t tr u tư ng sang c th . Chính Khái ni m
– như là ch th c th – có tính ph bi n, và do ó, là cái ph bi n).
498
Tóm l i, tính c thù ch a ng y tính ph bi n như là b n th c a nó, và vì th ,
tính ph bi n ti p t c m t cách t do trong tính c thù, ng th i tính c thù cũng
t do, ít ra là theo nghĩa nó là c l p-t t n m t cách tuy t i vì ch a ng trong nó
tính toàn th c a Khái ni m.
3. TÍNH CÁ BI T (Einzelheit / singularity / singularité): là s l y l i c p Khái
ni m tính t ngã ch quan (t c mômen th ba §159 như là s ph nh c a ph nh
i v i hai mômen trư c), t c là s t do ích th c mang tính khái ni m c a cái
“trong-chính-mình”, qua ó b n ch t t ph n tư trong chính mình ngay khi ánh hi n
trong cái khác c a nó. Nhưng, bây gi , tính cá bi t – là s ph n tư trong chính mình
này – ư c suy tư ng minh nhiên trong s th ng nh t không tách r i v i hai mômen
kia mà nó là s th ng nh t, và, qua ó, v i cái toàn b c a Khái ni m t t p trung
trong nó. Vì th , “Khái ni m như là Khái ni m” ch a ng trong nó tính cá bi t trong
ch ng m c tính cá bi t th hi n minh nhiên s ph n tư t do trong chính mình
(mômen th ba) c a các tính quy nh ph nh l n nhau gi a tính ph bi n (mômen
th nh t) và tính c thù (mômen th hai).
- Ph n Nh n xét cho §163
- u §160, ta ã có nh nghĩa v Khái ni m-t do như là “s c m nh-b n th -t n
t i-cho-mình”, nghĩa là: v i tư cách là t n t i, Khái ni m là c thù; v i tư cách là
s c m nh-b n th , nó là ph bi n, còn v i tư cách là cho-mình, nó là cá bi t. Tính cá
bi t c a Khái ni m là b n thân s t do hay tính ch th c a Khái ni m. Nhưng, Khái
ni m không ph i là m t s “ph nh c a ph nh” nói chung. Nó là s ph n tư
trong-mình c a s ph nh g p ôi này và t kh ng nh như là quan h c a cái ph
nh v i chính mình, nghĩa là, như tính duy nh t tuy t i và lo i tr . Do ó, Khái
ni m t n t i-cho-mình không ch là “tính cá bi t” tr u tư ng mà là cái cá bi t (das
Einzelne / the singular / le singulier).
- Cái cá bi t là b n thân Khái ni m trong s t do c th c a vi c t -quy nh. Theo
m t nghĩa nào ó, nó là “cùng m t cái” như cái hi n th c ã g p trư c ây (§142),
b i cái hi n th c cũng không gì khác hơn là s th ng nh t ph nh gi a b n ch t và
s hi n h u-hi n tư ng gi ng như cái cá bi t là s th ng nh t ph nh gi a cái ph
bi n và cái c thù. Nhưng, có m t s khác bi t l n: cái cá bi t n t Khái ni m ch
không còn t b n ch t n a. V i tư cách là mômen c a Khái ni m, nó là ph bi n theo
nghĩa ti p t c m t cách minh nhiên trong s ph nh và ch ng nh t v i mình trong
ch ng m c t kh ng nh như là tính ph nh tuy t i: là s t do hay tính ch th
hoàn h o. Cái hi n th c, vì l nó tho t u ch m i là s th ng nh t – tuy là ph nh
499
nhưng v nguyên t c, là kh ng nh, như là b n th còn “t -mình” và m t cách tr c
ti p – gi a b n ch t và s hi n h u, nên ch có s c m nh tác ng (Hegel vi t: “nó có
th tác ng” / kann es wirken) không theo nghĩa ơn thu n có kh th mà theo nghĩa
có s c m nh (Macht / might / puissance): cái hi n th c là s c m nh tác ng, nhưng
ch là s c m nh mà thôi, nghĩa là, ch là m t s c m nh mù quáng c a vi c ti p t c là
chính mình trong cái khác c a mình. Trong khi ó, tính cá bi t c a Khái ni m, hay
chính xác hơn, cái cá bi t l i là ch th t do làm ch s c m nh này m t cách sáng t .
Nó không ch là cái hi n th c ang hành ng mà tuy t i là b n thân cái hành ng
(schlechthin das Wirkende / strictly what is effective / l’”effectuant” même de
manière absolue), nghĩa là: không ch là b n th -hi n th c mà là cái (t c ch th )
ang hi n th c hóa.
- Tho t nhìn, có v như cái cá bi t cũng gi ng v i “nguyên nhân nguyên th y” (Ur-
sache) vì ngay khi t o ra k t qu c a nó, nguyên nhân cũng ã là tính ch th tác
ng, t ph n tư m t cách nguyên th y trong mình, trong m t s c l p t t n tuy t
i. Tuy nhiên, trư c khi chuy n sang “hành ng tương tác”, nguyên nhân t o ra k t
qu c a nó h u như là tác ng n m t cái khác v i nó, nên k t qu là cái gì ư c
ti n-gi nh tr c ti p, khác v i nguyên nhân (§§153-154). Trong khi ó, cái cá bi t
không ch là s tác ng lên m t cái khác mà tuy t i và trong su t là cái tác ng
chính mình.
- Vì th , tính cá bi t c a Khái ni m “xét như là Khái ni m” không nên ư c hi u theo
nghĩa thư ng nghi m tr c ti p như cách nói thông thư ng v nh ng s v t hay nh ng
con ngư i cá bi t: quy n sách này, con ngư i này… m t cách cá l . Tính quy nh cá
bi t hóa này c a tính cá bi t s di n ra sau này trong phán oán, là nơi tính cá bi t c a
Khái ni m s t m th i ư c tháo r i ra thành hai mômen c a nó (cá bi t và ph bi n)
và ư c n m l y trong s tr u tư ng c a s tr c ti p. Trong trư ng h p y, tính cá
bi t v n là s th ng nh t ph nh v i mình nhưng, vì ã tr thành tr c ti p, nó có
tính ph nh bên ngoài nó quy nh nó: ví d : con ngư i cá bi t này ư c xác nh
b i quan h ph nh c a ngư i y v i nh ng cá nhân bên ngoài. Tính cá bi t tr c
ti p y cũng s ch g n li n v i tính ph bi n m t cách h i h t như là v i m t tính
“chung” tr u tư ng, có ư c khi phân lo i m i cá th mang cùng m t thu c tính nh t
nh.
Trong khi ó, tính cá bi t c a Khái ni m xét như Khái ni m – là ch th c th –
không ph i là m t tính cá bi t tr c ti p nào ó mà là toàn th c a Khái ni m, hay,
cũng chính là b n thân Khái ni m ph bi n. Do ó, tính cá bi t không bên ngoài
500