Giáo trình Luật kinh doanh - CN. Trần Đoàn Hạnh
Giáo trình Luật kinh doanh do CN Trần Đoàn Hạnh biên soạn nhằm giúp các bạn nắm được lý luận chung về luật kinh doanh, pháp luật về doanh nghiệp nhà nước, các loại hình doanh nghiệp, các hợp đồng trong thương mại, pháp luật về phá sản, giải quyết tranh chấp trong kinh doanh,...Mời các bạn cùng tham khảo giáo trình để nắm rõ chi tiết nội dung.
HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG
LUẬT KINH DOANH
(Dùng cho sinh viên hệ đào tạo đại học từ xa)
Lưu hành nội bộ
HÀ NỘI - 2007
HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG
LUẬT KINH DOANH
Biên soạn : CN. TRẦN ĐOÀN HẠNH
LỜI NÓI ĐẦU
Pháp Luật kinh doanh nói chung và Luật kinh doanh nói riêng được coi là bộ phận cấu
thành của cơ chế kinh tế, giữ vai trò ngày càng quan trọng trong đời sống kinh tế của đất nước. Lý
luận về Luật kinh doanh hiện nay ở nước ta đang là một vấn đề phức tạp do Việt Nam đang trong
quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Trong
điều kiện khi môi trường pháp luật đang chịu những thay đổi thì việc nghiên cứu hệ thống pháp
Luật kinh doanh hiện hành đang đặt ra nhiều vấn đề lý luận mới.
Trong những năm qua, cùng với sự chuyển đổi nhanh chóng của nền kinh tế Việt Nam,
pháp luật kinh tế đã thay đổi cơ bản ngành luật kinh tế được đổi tên gọi thành Luật kinh doanh,
Luật thương mại cho phù hợp hơn với các quan hệ kinh tế trong tình hình mới. Luật kinh doanh
đã được đưa vào giảng dạy tại các trường chuyên ngành luật như Khoa Luật - Trường Đại học
quốc gia Hà nội, Đại học Luật Hà nội và các trường đào tạo về kinh tế và quản trị kinh doanh.
Cũng như vậy đây là môn học thuộc phần kiến thức giáo dục đại cương theo chương trình khung
đào tạo đại học ngành Quản trị kinh doanh của Học viện công nghệ bưu chính viễn thông. Đây là
môn học hết sức cần thiết cho các nhà quản lý kinh doanh trong tương lai vì nó trang bị những
kiến thức hết sức cơ bản, thực tế về các thành phần kinh tế hiện nay trong nền kinh tế thị trường
Việt Nam như pháp luật về các loại hình doanh nghiệp trong nước và nước ngoài đang tồn tại.
Cũng như các hiện tượng của đời sống kinh tế như pháp luật về các loại hợp đồng trong thương
mại, về phá sản, về cạnh tranh và chống độc quyền, về các phương thức giải quyết tranh chấp
trong kinh doanh...
Tài liệu được kết cấu thành 7 chương theo đề cương môn Luật kinh doanh dành cho chương
trình đại học ngành Quản trị kinh doanh của Học viện CNBCVT. Trong đó chương I trình bày các
vấn đề lý luận chung về Luật kinh doanh, các chương sau trình bày về các loại hình doanh nghiệp,
pháp luật về đầu tư, pháp luật về các loại hợp đồng trong thương mại, pháp luật về phá sản, pháp
luật về cạnh tranh và chống độc quyền, pháp luật về các phương thức giải quyết tranh chấp trong
kinh doanh... Đây là những quan hệ kinh tế rất phổ biến đang tồn tại trong đời sống xã hội hiện
nay cần được điều chỉnh bằng pháp luật.
Do được biên soạn lần đầu tiên một cách chính thức, mặc dù tác giả đã cố gắng cập nhập
những văn bản pháp luật mới nhất trong lĩnh vực này và có sự tham khảo giáo trình, tài liệu của
một số trường Đại học nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế nhất định. Mong
nhận được sự đóng góp để tài liệu được hoàn thiện hơn./.
Hà Nội, tháng 04 năm 2007
Tác giả
3
Chương I: Lý luận chung về Luật kinh doanh
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ LUẬT KINH DOANH
GIỚI THIỆU CHƯƠNG I
Nội dung của chương I trình bày những vấn đề lý luận chung về Luật kinh doanh với tư
cách là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Từ những khái niệm về Luật
kinh doanh để đưa tới cho người học những hiểu biết nhất định về đối tượng điều chỉnh và
phương pháp điều chỉnh của ngành luật này là những quan hệ xã hội nào? Sự tác động của ngành
luật đó lên các quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của mình sẽ bằng những phương pháp và cách
thức nào để đạt được mục đích điều chỉnh?
Trong nội dung chương I cũng đề cập tới chủ thể của ngành Luật kinh doanh là ai qua đó
cũng đề cập tới các điều kiện để trở thành chủ thể của ngành luật này. Mỗi một ngành luật trong
hệ thống pháp luật Việt Nam đều có những chủ thể riêng với những yêu cầu nhất định của mình,
cũng như vậy muốn trở thành chủ thể của Luật kinh doanh phải đáp ứng các điều kiện được pháp
luật kinh tế quy định. Quy định này được áp dụng riêng với cá nhân và cơ quan tổ chức. Từ đó
tiến hành phân loại các chủ thể của Luật kinh doanh, trong đó đặc biệt chú ý đến chủ thể kinh
doanh.
Trong thời đại ngày nay, nhà nước nào cũng có chức năng và vai trò kinh tế, chức năng điều
tiết, định hướng và quản lý các hoạt động kinh tế. Vì vậy để thực hiện chức năng đó, nhà nước
bao giờ cũng ban hành một hệ thống các quy phạm pháp luật để điều chỉnh một bộ phận lớn và
đặc thù của các quan hệ xã hội, các quan hệ kinh tế. Các quan hệ kinh tế nảy sinh trong đời sống
xã hội ngày càng đa dạng, phong phú và năng động. Sự phát triển của các quan hệ xã hội trong
lĩnh vực kinh tế tất yếu sẽ dẫn tới sự trưởng thành của cơ chế điều chỉnh pháp luật nói chung và
của hệ thống pháp luật về quản lý kinh tế nói riêng. Để điều chỉnh các quan hệ kinh tế, nhà nước
sử dụng nhiều ngành luật khác nhau với phương pháp và đối tượng điều chỉnh khác nhau, trong
đó Luật kinh doanh giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Trong phần cuối của chương I đã đề cập đến
vai trò của Luật kinh doanh trong nền kinh tế, trong đó vai trò của Luật kinh doanh được so sánh
ở hai thời kỳ, hai giai đoạn với hai cơ chế quản lý kinh tế khác nhau. Đó là trong giai đoạn nền
kinh tế tập trung và giai đoạn nền kinh tế thị trường.
NỘI DUNG
1.1- KHÁI NIỆM LUẬT KINH DOANH
1.1.1- Định nghĩa Luật kinh doanh:
1. Quan niệm về Luật kinh doanh:
Ở Việt Nam, thuật ngữ " Luật kinh doanh" hay "Pháp luật kinh doanh" được bàn đến vào
những năm đầu của thập kỷ 90 thế kỷ XX, trong các đề tài nghiên cứu khoa học và hội thảo khoa
học. Theo PGS.TS Lê Hồng Hạnh " Luật kinh doanh điều chỉnh các quan hệ gắn liền với hoạt
động sản xuất kinh doanh ". Cũng theo PGS.TS Dương Đăng Huệ, pháp Luật kinh doanh nói một
cách nôm na nhất là tổng hợp các văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá
trình tổ chức hoạt động và giải thể doanh nghiệp. Nội dung của kinh doanh gồm bốn bộ phận cơ
5
Chương I: Lý luận chung về Luật kinh doanh
bản cấu thành là: pháp luật về các loại hình doanh nghiệp; pháp luật về hành vi kinh doanh; pháp
luật về vỡ nợ, phá sản; pháp luật về cơ quan tài phán trong kinh doanh.
Từ những quan niệm trên cho thấy dù quan niệm Luật kinh doanh là ngành luật hay môn
học thì nội dung cơ bản của nó cũng chứa đựng hai vấn đề pháp lý cơ bản đó là: pháp luật về hoạt
động kinh doanh của các chủ thể kinh doanh và pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt động
kinh doanh. Suy cho cùng, những vấn đề trong nội dung của Luật kinh doanh cơ bản giống như
nội dung cơ bản của luật kinh tế, có chăng chỉ khác về cách thức, mức độ can thiệp (quản lý) bằng
pháp luật của các nhà nước đối với hoạt động kinh doanh trong từng thời kỳ lịch sử.
2. Khái niệm Luật kinh doanh:
Luật kinh doanh là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, điều chỉnh các
quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình tổ chức và quản lý kinh tế của Nhà nước và trong quá
trình kinh doanh của các chủ thể kinh doanh với nhau.
a. Đối tượng điều chỉnh
Đối tượng điều chỉnh của Luật kinh doanh là những quan hệ kinh tế do Luật kinh doanh tác
động vào bao gồm:
* Nhóm quan hệ quản lý kinh tế:
Là quan hệ phát sinh trong quá trình quản lý kinh tế giữa các cơ quan quản lý nhà nước về
kinh tế với các chủ thể kinh doanh.
Nhóm quan hệ này có đặc điểm:
- Quan hệ quản ký kinh tế phát sinh và tồn tại giữa các cơ quan quản lý và cơ quan bị quản
lý (các chủ thể kinh doanh) khi các cơ quan quản lý thực hiện chức năng quản lý của mình.
- Chủ thể tham gia quan hệ này ở vị trí không bình đẳng (vì quan hệ này được hình thành và
được thực hiện trên nguyên tắc quyền uy phục tùng).
- Cơ sở pháp lý: chủ yếu thông qua các văn bản pháp lý do các cơ quan quản lý có thẩm
quyền ban hành.
* Quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình kinh doanh giữa các chủ thể kinh doanh với
nhau: Đây là những quan hệ kinh tế thường phát sinh do thực hiện hoạt động sản xuất, hoạt động
tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện các hoạt động dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi
nhuận. Trong hệ thống các quan hệ kinh tế thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật kinh doanh, nhóm
quan hệ này là quan hệ chủ yếu, thường xuyên và phổ biến nhất.
Nhóm quan hệ này có đặc điểm:
- Chúng phát sinh trực tiếp trong quá trình kinh doanh nhằm đáp ứng các yêu cầu kinh
doanh của các chủ thể.
- Chúng phát sinh trên cơ sở thống nhất ý chí của các bên thông qua hình thức pháp lý là
hợp đồng kinh tế hoặc những thoả thuận khác.
- Chủ thể của những quan hệ này chủ yếu là các chủ thể kinh doanh thuộc các thành phần
kinh tế, tham gia vào các quan hệ này trên nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện và cùng có lợi.
- Đây là nhóm quan hệ hàng hoá tiền tệ với mục đích kinh doanh.
* Quan hệ kinh tế phát sinh trong nội bộ một số doanh nghiệp:
6
Chương I: Lý luận chung về Luật kinh doanh
Là các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh giữa Tổng công ty,
tập đoàn kinh doanh và các đơn vị thành viên cũng như giữa các đơn vị thành viên trong nội bộ
Tổng công ty hoặc Tập đoàn kinh doanh đó với nhau.
Cơ sở pháp lý của quan hệ là thông qua nội quy, quy chế, điều lệ, cam kết.
* Quan hệ kinh tế phát sinh trong hoạt động tài phán trong kinh doanh, trong phá sản
doanh nghiệp: nhóm này bao gồm các quan hệ tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan, tổ
chức tài phán kinh tế và thủ tục giải quyết các tranh chấp kinh tế, phá sản doanh nghiệp.
b. Phương pháp điều chỉnh:
Luật kinh doanh vừa điều chỉnh các quan hệ quản lý kinh tế giữa các chủ thể bất bình đẳng,
vừa điều chỉnh các quan hệ sản xuất kinh doanh giữa các chủ thể bình đẳng, do vậy mà nó sử
dụng và phối hợp nhiều phương pháp điều chỉnh khác nhau.
* Phương pháp mệnh lệnh:
Được sử dụng chủ yếu để điều chỉnh nhóm quan hệ quản lý kinh tế giữa các chủ thể có vị trí
không bình đẳng với nhau. Để phù hợp với đặc trưng của nhóm quan hệ này, Luật kinh doanh đã
tác động vào chúng bằng cách quy định cho các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế trong phạm
vi chức năng của mình, có quyền ra quyết định mang tính chất bắt buộc đối với các chủ thể kinh
doanh (bên bị quản lý) và bên này có nghĩa vụ thực hiện quyết định đó.
* Phương pháp thỏa thuận:
Được sử dụng để điều chỉnh các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình kinh doanh giữa
các chủ thể bình đẳng với nhau. Bản chất của phương pháp này thể hiện ở chỗ: Luật kinh doanh
quy định cho các bên tham gia quan hệ kinh tế có quyền bình đẳng với nhau, cùng thỏa thuận
những vấn đề mà hai bên cùng quan tâm. Khi thiết lập hoặc chấm dứt quan hệ kinh tế sẽ không bị
phụ thuộc vào ý chí của bất kỳ cá nhân, cơ quan hay tổ chức nào. Điều này có nghĩa là pháp luật
quy định quan hệ kinh tế chỉ được coi là hình thành trên cơ sở có sự thống nhất ý chí của các bên
và không trái với quy định của nhà nước.
1.1.2- Chủ thể của Luật kinh doanh
Luật kinh doanh có hệ thống các chủ thể riêng, bao gồm những cơ quan, tổ chức và cá nhân
có đủ điều kiện để tham gia vào những quan hệ do Luật kinh doanh điều chỉnh.
1- Điều kiện (dấu hiệu) để trở thành chủ thể của Luật kinh doanh
a. Đối với cơ quan, tổ chức:
- Phải được thành lập hợp pháp: những cơ quan, tổ chức được coi là thành lập hợp pháp khi
chúng được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định thành lập, cấp giấy phép đầu tư hoặc
cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động.
- Phải có tài sản riêng: để tham gia vào các quan hệ kinh tế, cơ quan tổ chức phải có tài sản
riêng, đồng thời có quyền chi phối khối lượng tài sản đó để có thể tự chịu trách nhiệm độc lập về
tài sản trong hoạt động của mình. Quyền chi phối tài sản riêng của tổ chức hoặc cá nhân thường
thể hiện dưới hình thức quyền sở hữu hoặc quyền quản lý tài sản.
- Phải có thẩm quyền kinh tế: thẩm quyền kinh tế là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ về kinh
tế được pháp luật ghi nhận hoặc công nhận. Thẩm quyền kinh tế của chủ thể Luật kinh doanh luôn
7
Chương I: Lý luận chung về Luật kinh doanh
phải tuơng ứng với chức năng, nhiệm vụ và lĩnh vực hoạt động của nó. Vì vậy, trên thực tế các
chủ thể Luật kinh doanh có những quyền và nghĩa vụ cụ thể không hoàn toàn giống nhau.
b. Đối với cá nhân:
- Phải có năng lực hành vi dân sự hoàn toàn: năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả
năng của cá nhân bằng chính hành vi của mình để xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự.
Điều đó có nghĩa là cá nhân có khả năng nhận thức được hành vi của mình và tự chịu trách nhiệm
về hành vi đó. Pháp luật nước ta quy định, người đủ 18 tuổi trở lên không mắc bệnh tâm thần hoặc
bệnh lý khác làm mất hoặc hạn chế khả năng nhận thức hành vi của mình là có đủ năng lực hành
vi dân sự.
- Có giấy phép hoạt động và đã đăng ký kinh doanh hoặc được cấp giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh: cá nhân có năng lực hành vi dân sự chỉ mới là điều kiện cần. Để trở thành chủ thể
kinh doanh, phần lớn các cá nhân còn phải xin phép hoặc đăng ký kinh doanh (tùy theo ngành
nghề kinh doanh) ở các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Chỉ sau khi được cấp giấy phép kinh
doanh và đã đăng ký kinh doanh, cá nhân mới có năng lực pháp luật trong quan hệ Luật kinh
doanh, có quyền hoạt động kinh doanh và khi đó mới trở thành chủ thể của Luật kinh doanh.
2- Phân loại chủ thể của Luật kinh doanh:
* Chủ thể là các cơ quan quản lý Nhà nước về kinh tế:
- Chính phủ
- Các Bộ quản lý chuyên ngành kinh tế - kỹ thuật như công nghiệp, nông nghiệp, giao thông
vận tải, bưu chính viễn thông, điện lực...
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ có thẩm quyền quản lý theo
chức năng hoạt động như tài chính, ngân hàng, kế hoạch đầu tư,...
- Các Uỷ ban nhân dân địa phương
- Các Sở, phòng kinh tế ở địa phương.
* Chủ thể là các đơn vị kinh tế:
- Doanh nghiệp Nhà nước
- Tổ chức kinh tế tập thể (Hợp tác xã, Liên hiệp Hợp tác xã)
- Doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp: Công ty TNHH, Công ty cổ phần, Công ty hợp
danh, doanh nghiệp tư nhân
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
- Hộ kinh doanh cá thể.
3- Chủ thể kinh doanh:
Mặc dù khái niệm chủ thể kinh doanh không được định nghĩa về mặt pháp lý nhưng xuất
phát từ khái niệm về hành vi kinh doanh thì chủ thể của hành vi kinh doanh hiểu theo nghĩa thực
tế và pháp lý là những pháp nhân hay thể nhân thực hiện trên thực tế những hành vi kinh doanh.
Theo điều 4 Luật doanh nghiệp quy định thì " Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một,
một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc
cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi ". Như vậy theo định nghĩa này thì một
hành vi được coi là hành vi kinh doanh nếu đáp ứng được các dấu hiệu sau:
- Hành vi đó phải mang tính chất nghề nghiệp
8
Chương I: Lý luận chung về Luật kinh doanh
- Hành vi đó phải diễn ra trên thị trường
- Hành vi phải diễn ra thường xuyên, liên tục
- Hành vi đó có mục đích sinh lợi.
Như vậy, có thể hiểu chủ thể kinh doanh bao gồm hai loại pháp nhân và thể nhân.
* Pháp nhân: là một thực thể pháp lý
- Được thành lập hay thừa nhận một cách hợp pháp
Những cơ quan, tổ chức được coi là thành lập hợp pháp khi chúng được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền ra quyết định thành lập hoặc cho phép thành lập hoặc tuân thủ các thủ tục do luật
định ra, được tổ chức dưới những hình thức nhất định với chức năng, nhiệm vụ và phạm vi hoạt
động rõ ràng theo các quy định của pháp luật.
- Có tài sản riêng: 1 tổ chức được coi là có tài sản riêng khi
+ Tổ chức đó có một khối lượng tài sản nhất định phân biệt với tài sản của cơ quan cấp
trên hoặc của các tổ chức khác
+ Có một số quyền năng nhất định để chi phối khối lượng tài sản đó và tự chịu trách
nhiệm độc lập bằng chính tài sản đó.
- Tự chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình bằng số tài sản riêng đó
- Là nguyên đơn hay bị đơn trước cơ quan tài phán
* Thể nhân: là những thực thể pháp lý độc lập về tư cách chủ thể, song ở đó không có sự
tách bạch về tài sản giữa phần của thực thể đó với chủ sở hữu của nó.
Tóm lại chủ thể kinh doanh hợp pháp trên thực tế là những đơn vị kinh doanh có tư cách
pháp nhân hoặc không có tư cách pháp nhân, nhưng đây không phải là điều kiện để xác định sự
tồn tại hợp pháp hay không của các chủ thể kinh doanh. Vấn đề pháp nhân hay thể nhân chỉ liên
quan đến việc xem xét chế độ trách nhiệm về mặt tài sản trong kinh doanh là hữu hạn hay vô hạn
mà thôi.
Trách nhiệm vô hạn được hiểu là tính vô hạn (thậm chí vĩnh cửu) của nghĩa vụ trả nợ
Trách nhiệm hữu hạn là tính có giới hạn về khả năng trả nợ của các doanh nghiệp.
1.2- VAI TRÒ CỦA LUẬT KINH DOANH TRONG NỀN KINH TẾ
1.2.1- Luật kinh doanh trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, Luật kinh doanh được coi là một ngành luật trong
hệ thống pháp luật Việt Nam. Điều đó được thể hiện khá rõ nét trong các giáo trình của các trung
tâm đào tạo cử nhân luật ở nước ta. Theo quan niệm trong các giáo trình đó, Luật kinh doanh
được hiểu là tổng thể những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ kinh tế phát sinh trong
quá trình lãnh đạo và thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh giữa các tổ chức kinh tế XHCN
với nhau.
Như vậy Luật kinh doanh là ngành luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh chủ yếu
giữa các tổ chức XHCN với nhau trong quá trình lãnh đạo và thực hiện hoạt động sản xuất kinh
doanh. Chủ thể của Luật kinh doanh chủ yếu là những tổ chức XHCN. Trong thời kỳ bao cấp,
việc kinh doanh chủ yếu được các tổ chức thuộc thành phần kinh tế quốc doanh tiến hành. Chính
vì vậy, để điều chỉnh các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình kinh doanh XHCN, Luật kinh
9
Chương I: Lý luận chung về Luật kinh doanh
doanh trong thời kỳ này tập trung ghi nhận các chế độ pháp lý liên quan đến việc tổ chức và hoạt
động của các tổ chức kinh tế quốc doanh. Cụ thể, nội dung của Luật kinh doanh gồm có những
chế độ pháp lý chủ yếu như: địa vị pháp lý của các chủ thể Luật kinh doanh, chế độ pháp lý về tài
sản của các đơn vị kinh tế quốc doanh; chế độ pháp lý về kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân; chế
độ pháp lý hạch toán kinh tế; chế độ hợp đồng kinh tế và trọng tài kinh tế.
Nói tóm lại, do tính chất của kinh doanh trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, Luật kinh
doanh trong thời kỳ này chủ yếu ghi nhận về tổ chức và hoạt động kinh doanh của các đơn vị kinh
tế quốc doanh. Tuy nhiên trong thời kỳ này, Luật kinh doanh là phương tiện pháp lý của nhà nước
để điều chỉnh các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình xây dựng và thực hiện kế hoạch nhà
nước, góp phần to lớn vào việc xây dựng và thực hiện kế hoạch hàng năm, kế hoạch dài hạn của
Nhà nước.
1.2.2- Luật kinh doanh trong nền kinh tế thị trường
Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã làm thay đổi cơ bản tính chất của các quan hệ trong kinh
doanh. Điều này cũng đưa đến yêu cầu tất yếu phải có sự thay đổi trong nội dung của Luật kinh
doanh cho phù hợp với thực tế khách quan.
Về thực chất, Luật kinh doanh trong giai đoạn này vẫn được hiểu là tổng hợp các quy phạm
pháp luật do Nhà nước ban hành, điều chỉnh những quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình hoạt
động sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp hoặc giữa chúng với cơ quan quản lý nhà nước
về kinh tế nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước. Nội dung của Luật kinh
doanh có bốn bộ phận quy phạm pháp luật cơ bản đó là: pháp luật về chủ thể kinh doanh; chế độ
hợp đồng kinh tế; pháp luật về phá sản doanh nghiệp; pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, các quyền tự do kinh doanh của công dân, tự do cạnh tranh
của các tổ chức kinh tế cũng như các quyền năng động sáng tạo của họ phải được ghi nhận. Đồng
thời để ngăn ngừa các hiện tượng tiêu cực như cạnh tranh không lành mạnh, gian dối, lừa đảo
trong kinh doanh... nên không thể thiếu được sự quản lý của nhà nước trên cơ sở pháp luật, nhất là
Luật kinh doanh đối với toàn bộ nền kinh tế. Với ý nghĩa nêu trên, Luật kinh doanh đóng vai trò
hết sức quan trọng được thể hiện qua các điểm sau:
- Thông qua Luật kinh doanh, Nhà nước đã thể chế hoá các đường lối, chủ trương, chính
sách kinh tế của Đảng thành các quy định pháp lý có tính chất bắt buộc chung đối với các chủ thể
của Luật kinh doanh.
- Luật kinh doanh tạo hành lang pháp lý thuận lợi để khuyến khích tổ chức, cá nhân trong
và ngoài nước đầu tư vào kinh doanh nhằm tăng nguồn vốn kinh doanh, mở rộng các hoạt động
kinh doanh, các hình thức tổ chức kinh doanh, các ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh. Thông qua
đó thúc đẩy nền kinh tế ổn định và tăng trưởng.
- Luật kinh doanh là cơ sở pháp lý xác định địa vị pháp lý cho các chủ thể kinh doanh với
đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý của nó
- Luật kinh doanh điều chỉnh các hành vi kinh doanh của các chủ thể kinh doanh, đảm bảo
hoạt động kinh doanh diễn ra lành mạnh.
- Luật kinh doanh quy định các vấn đề tài phán trong kinh doanh, quy định trình tự, thủ tục,
các cơ quan có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp trong kinh doanh vừa bảo đảm được quyền
tự định đoạt của các chủ thể kinh doanh vừa đảm bảo nguyên tắc pháp chế XHCN.
10
Chương I: Lý luận chung về Luật kinh doanh
- Luật kinh doanh quy định điều kiện và trình tự thủ tục giải quyết việc phá sản doanh
nghiệp, nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ nợ, doanh nghiệp mắc nợ và các
bên có liên quan; thúc đẩy doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có hiệu quả và bảo đảm trật tự kỷ
cương trong hoạt động kinh tế và trật tự xã hội.
Tóm lại, trong nền kinh tế thị trường Luật kinh doanh đóng vai trò hết sức quan trọng. Nó
đảm bảo cho Nhà nước kiểm soát các hoạt động kinh doanh của các chủ thể kinh doanh một cách
hiệu quả, đồng thời không can thiệp sâu vào hoạt động của các tổ chức kinh tế, góp phần đảm bảo
nền kinh tế quốc dân ổn định và tăng trưởng vững chắc.
TÓM TẮT CHƯƠNG I
1. Khái niệm Luật kinh doanh:
Luật kinh doanh là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, điều chỉnh các
quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình tổ chức và quản lý kinh tế của nhà nước và trong quá
trình kinh doanh giữa các chủ thể kinh doanh với nhau.
2. Đối tượng điều chỉnh của Luật kinh doanh:
- Quan hệ quản lý kinh tế
- Quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình kinh doanh giữa các chủ thể kinh doanh.
- Quan hệ kinh tế phát sinh trong nội bộ một số doanh nghiệp
- Quan hệ phát sinh trong hoạt động tài phán
Đặc điểm và cơ sở pháp lý của từng nhóm quan hệ.
3. Phương pháp điều chỉnh của Luật kinh doanh:
- Phương pháp mệnh lệnh
- Phương pháp thỏa thuận
4. Chủ thể của Luật kinh doanh:
- Điều kiện để trở thành chủ thể của Luật kinh doanh
+ Đối với cơ quan, tổ chức:
Được thành lập hợp pháp
Có tài sản riêng
Có thẩm quyền kinh tế
+ Đối với cá nhân:
Có năng lực hành vi dân sự hoàn toàn
Có giấy phép hoạt động, đã đăng ký kinh doanh hoặc được cấp giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh.
- Phân loại chủ thể của Luật kinh doanh
+ Các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế
+ Các đơn vị kinh tế
- Chủ thể kinh doanh
+ Pháp nhân
+ Thể nhân
11
Chương I: Lý luận chung về Luật kinh doanh
5. Vai trò của Luật kinh doanh trong nền kinh tế
- Vai trò của Luật kinh doanh trong nền kinh tế tập trung
- Vai trò của Luật kinh doanh trong nền kinh tế thị trường
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG I
1. Các quan niệm về Luật kinh doanh? Khái niệm Luật kinh doanh?
2. Đối tượng và phương pháp điều chỉnh của Luật kinh doanh?
3. Điều kiện (dấu hiệu) để trở thành chủ thể của Luật kinh doanh đối với cơ quan, tổ chức?
4. Điều kiện (dấu hiệu) để trở thành chủ thể của Luật kinh doanh đối với cá nhân?
5. Phân loại chủ thể của Luật kinh doanh?
6. Khái niệm chủ thể kinh doanh?
7. Vai trò của Luật kinh doanh trong nền kinh tế tập trung?
8. Vai trò của Luật kinh doanh trong nền kinh tế thị trường?
12
Chương II: Pháp luật về doanh nghiệp nhà nước
CHƯƠNG II: PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
GIỚI THIỆU CHƯƠNG II
Nền kinh tế Việt Nam đang vận động và phát triển theo cơ chế nền kinh tế nhiều thành
phần, có sự quản lý của Nhà nước và theo định hướng XHCN trên nguyên tắc Hiến định là tất cả
các thành phần kinh tế đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Tuy nhiên Đảng và Nhà nước ta vẫn
luôn xác định thành phần kinh tế Nhà nước (kinh tế quốc dân) giữ vai trò chủ đạo, là cán cân cho
toàn bộ nền kinh tế.
Xuất phát từ chủ trương quan điểm trên pháp luật về doanh nghiệp Nhà nước ra đời nhằm
điều chỉnh các quan hệ phát sinh quanh thành phần kinh tế quan trọng này. Tại chương II sẽ tìm
hiểu những nội dung cơ bản nhất về doanh nghiệp nhà nước theo Luật doanh nghiệp Nhà nước
năm 2003 bao gồm các khái niệm về doanh nghiệp nhà nước, phân loại, trình tự thành lập, quyền
và nghĩa vụ, tổ chức quản lý và các nội dung cơ bản khác.
Những nội dung sẽ được trình bày trong chương này sẽ cho thấy sự giống và khác nhau
giữa doanh nghiệp nhà nước với các loại hình doanh nghiệp khác do tính sở hữu về vốn đặc thù
của nó. Tuy nhiên, trên nguyên tắc tất cả các thành phần kinh tế đều bình đẳng về quyền và nghĩa
vụ nên về cơ bản doanh nghiệp nhà nước giống các loại hình doanh nghiệp khác đặc biệt là về
quyền và nghĩa vụ trong các lĩnh vực.
NỘI DUNG
2.1 KHÁI NIỆM DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC:
2.1.1 Khái niệm doanh nghiệp nhà nước:
Doanh nghiệp Nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có
cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công
ty trách nhiệm hữu hạn.
2.2.2 Phân loại doanh nghiệp nhà nước:
Doanh nghiệp Nhà nước được phân thành các loại như sau:
- Công ty nhà nước: là doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ, thành lập, tổ
chức quản lý, đăng ký hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp Nhà nước. Công ty Nhà
nước được tổ chức dưới hình thức Công ty nhà nước độc lập, Tổng công ty nhà nước.
- Doanh nghiệp có 100% vốn Nhà nước được tổ chức dưới hình thức: Công ty cổ phần Nhà
nước, Công ty TNHH nhà nước một hoặc hai thành viên trở lên.
+ Công ty cổ phần Nhà nước: là công ty cổ phần mà toàn bộ cổ đông là các công ty nhà
nước hoặc tổ chức được nhà nước ủy quyền góp vốn, được tổ chức và hoạt động theo quy định
của Luật doanh nghiệp.
+ Công ty TNHH nhà nước 1 thành viên: là công ty TNHH do nhà nước sở hữu toàn bộ vốn
điều lệ, được tổ chức quản lý và đăng ký hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp.
13
Chương II: Pháp luật về doanh nghiệp nhà nước
+ Công ty TNHH nhà nước có 2 thành viên trở lên: là công ty TNHH trong đó tất cả các
thành viên đều là công ty nhà nước hoặc có thành viên là công ty nhà nước và thành viên khác là
tổ chức được nhà nước ủy quyền góp vốn, được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật
doanh nghiệp.
- Công ty có 1 phần vốn góp của nhà nước là doanh nghiệp mà phần vốn góp của nhà nước
trong vốn điều lệ chiếm từ 50% trở xuống.
2.2 THÀNH LẬP CÔNG TY NHÀ NƯỚC:
2.2.1 Ngành, lĩnh vực, địa bàn được thành lập mới công ty nhà nước:
- Ngành, lĩnh vực cung cấp sản phẩm, dịch vụ thiết yếu cho xã hội
- Ngành, lĩnh vực ứng dụng công nghệ cao, tạo động lực phát triển nhanh cho các ngành,
lĩnh vực khác và toàn bộ nền kinh tế, đòi hỏi đầu tư lớn.
- Ngành, lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh cao.
- Địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn mà các thành phần kinh tế khác
không đầu tư.
2.2.2 Thẩm quyền đề nghị thành lập Công ty nhà nước:
- Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
2.2.3 Thẩm quyền quyết định thành lập công ty nhà nước:
- Thủ tướng Chính phủ.
- Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ
- Chủ tịch UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc TW.
2.2.4 Hồ sơ đề nghị thành lập công ty nhà nước:
- Tờ trình đề nghị thành lập công ty
- Đề án thành lập công ty (sự cần thiết thành lập, địa điểm đặt trụ sở, dự kiến mô hình tổ
chức quản lý công ty)
- Dự thảo điều lệ công ty
- Đơn xin giao đất, thuê đất
- Đơn đề nghị được hưởng ưu đãi đầu tư theo quy định của pháp luật về khuyến khích đầu
tư (nếu có).
2.2.5 Thẩm định hồ sơ:
Sau khi nhận được hồ sơ đề nghị thành lập công ty nhà nước, người có thẩm quyền ký quyết
định thành lập phải lập Hội đồng thẩm định hồ sơ trên cơ sở các điều kiện sau:
- Có hồ sơ hợp lệ theo quy định tại Khoản 4 Điều 7 Luật doanh nghiệp Nhà nước
- Bảo đảm đủ điều kiện về vốn; mức vốn điều lệ phù hợp với ngành nghề kinh doanh đòi
hỏi phải có vốn pháp định.
- Dự thảo điều lệ của công ty không được trái với quy định của Luật doanh nghiệp Nhà
nước và các quy định khác của pháp luật.
14
Chương II: Pháp luật về doanh nghiệp nhà nước
- Đề án thành lập mới công ty phải mang tính khả thi.
2.2.6 Quyết định thành lập công ty Nhà nước:
Sau khi hồ sơ thành lập công ty nhà nước đã được thẩm định đủ điều kiện, trong thời gian
30 ngày người có thẩm quyền quyết định thành lập công ty nhà nước ký quyết định thành lập và
phê chuẩn điều lệ, nếu từ chối, phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
2.2.7 Đăng ký kinh doanh:
Trong thời gian 60 ngày kể từ ngày có quyết định thành lập, công ty phải đăng ký kinh
doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật doanh nghiệp. Công ty nhà nước có
tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Sau đó công ty mới
được tiếp nhận vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước hoặc huy động vốn để đầu tư, xây dựng doanh
nghiệp và hoạt động kinh doanh.
Trong thời gian 30 ngày kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, công ty
phải đăng báo hàng ngày của địa phương và trung ương trong 5 số liên tiếp.
2.3 TỔ CHỨC QUẢN LÝ CÔNG TY NHÀ NƯỚC:
Tổ chức quản lý công ty nhà nước theo hai mô hình:
2.3.1 Công ty nhà nước không có Hội đồng quản trị:
Công ty nhà nước không có Hội đồng quản trị có cơ cấu quản lý gồm: Giám đốc, các Phó
giám đốc, Kế toán trưởng và Bộ máy giúp việc.
(Quyền và nghĩa vụ cụ thể được quy định từ Điều 24 - 27 Luật doanh nghiệp NN)
- Giám đốc là người điều hành công ty, đại diện theo pháp luật của công ty và chịu trách
nhiệm trước người bổ nhiệm, người ký hợp đồng thuê và trước pháp luật về việc thực hiện các
quyền, nhiệm vụ được giao.
- Phó Giám đốc là người giúp Giám đốc điều hành công ty theo phân công và ủy quyền của
Giám đốc, chịu trách nhiệm trước Giám đốc và trước pháp luật về nhiệm vụ được phân công và
uỷ quyền.
- Kế toán trưởng có nhiệm vụ tổ chức thực hiện công tác kế toán của Công ty, giúp Giám
đốc giám sát tài chính tại Công ty theo pháp luật về tài chính, kế toán. Chịu trách nhiệm trước
Giám đốc và trước pháp luật về nhiệm vụ được phân công hoặc ủy quyền.
- Bộ máy giúp việc bao gồm Văn phòng và các phòng, ban chuyên môn, nghiệp vụ có chức
năng tham mưu, giúp việc cho Giám đốc, các Phó giám đốc trong quản lý, điều hành công việc.
2.3.2 Công ty Nhà nước có Hội đồng quản trị:
Mô hình này được áp dụng ở các Tổng công ty nhà nước và Công ty nhà nước độc lập bao
gồm:
- Tổng công ty do nhà nước quyết định đầu tư và thành lập
- Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước
- Công ty nhà nước độc lập có quy mô vốn lớn giữ quyền chi phối doanh nghiệp khác.
15
Chương II: Pháp luật về doanh nghiệp nhà nước
Công ty nhà nước có Hội đồng quản trị bao gồm Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng
giám đốc, các phó Tổng giám đốc, Kế toán trưởng và Bộ máy giúp việc (Quyền và nghĩa vụ cụ
thể được quy định từ Điều 29 - 43 Luật doanh nghiệp Nhà nước 2003)
- Hội đồng quản trị là cơ quan đại diện trực tiếp chủ sở hữu nhà nước tại Tổng công ty nhà
nước, công ty nhà nước độc lập có Hội đồng quản trị, có quyền nhân danh công ty để quyết định
mọi vấn đề liên quan đến việc xác định và thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ và quyền lợi của công ty,
trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của chủ sở hữu phân cấp cho các cơ quan, tổ
chức khác là đại diện chủ sở hữu thực hiện.
Hội đồng quản trị chịu trách nhiệm trước người quyết định thành lập Tổng công ty nhà
nước, công ty nhà nước độc lập có Hội đồng quản trị, người bổ nhiệm và trước pháp luật về mọi
hoạt động của Tổng công ty, công ty.
- Tổng Giám đốc là người đại diện theo pháp luật, điều hành hoạt động hàng ngày của công
ty theo mục tiêu, kế hoạch phù hợp với điều lệ công ty và các nghị quyết, quyết định của Hội
đồng quản trị; chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị và trước pháp luật về việc thực hiện các
quyền và nhiệm vụ được giao.
- Phó Tổng giám đốc giúp Tổng giám đốc điều hành công ty theo phân công và ủy quyền
của Tổng giám đốc; chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc và trước pháp luật về nhiệm vụ được
phân công hoặc ủy quyền.
- Kế toán trưởng có nhiệm vụ tổ chức thực hiện công tác kế toán của công ty; giúp Tổng
giám đốc giám sát tài chính tại công ty theo pháp luật về tài chính, kế toán; chịu trách nhiệm trước
Tổng giám đốc và trước pháp luật về nhiệm vụ được phân công hoặc ủy quyền.
- Bộ máy giúp việc bao gồm Văn phòng và các phòng, ban chuyên môn, nghiệp vụ có chức
năng tham mưu, giúp việc cho Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc trong quản lý, điều hành công
việc.
2.4 TỔNG CÔNG TY NHÀ NƯỚC:
2.4.1 Khái niệm Tổng công ty nhà nước:
Tổng công ty nhà nước là hình thức liên kết kinh tế trên cơ sở tự đầu tư, góp vốn giữa các
công ty nhà nước, giữa công ty nhà nước với các doanh nghiệp khác hoặc được hình thành trên cơ
sở tổ chức và liên kết các đơn vị thành viên có mối quan hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế,
công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác, hoạt động trong một hoặc một số chuyên
ngành kinh tế-kỹ thuật chính nhằm tăng cường khả năng kinh doanh và lợi ích của các đơn vị
thành viên và toàn Tổng công ty.
2.4.2 Các loại hình Tổng công ty nhà nước:
Luật doanh nghiệp Nhà nước 2003 quy định 3 loại hình Tổng công ty bao gồm:
- Tổng công ty do Nhà nước quyết định đầu tư và thành lập: là hình thức liên kết và tập hợp
các công ty thành viên hạch toán độc lập có tư cách pháp nhân, hoạt động trong một hoặc một số
chuyên ngành kinh tế-kỹ thuật chính, nhằm tăng cường tích tụ, tập trung vốn và chuyên môn hoá
kinh doanh của các đơn vị thành viên và toàn Tổng công ty.
Loại hình Tổng công ty này có thể có các đơn vị thành viên là: các đơn vị do Tổng công ty
đầu tư toàn bộ vốn điều lệ (gồm công ty thành viên hạch toán độc lập; đơn vị hạch toán phụ thuộc;
16
Chương II: Pháp luật về doanh nghiệp nhà nước
đơn vị sự nghiệp; công ty TNHH nhà nước 1 thành viên hoạt động theo quy định của Luật doanh
nghiệp; công ty tài chính), các công ty cổ phần, các công ty TNHH có vốn góp chi phối của Tổng
công ty. Quan hệ giữa Tổng công ty với các đơn vị thành viên chủ yếu là theo tỷ lệ phần vốn của
Tổng công ty ở các đơn vị thành viên.
- Tổng công ty do các doanh nghiệp đầu tư và thành lập: là hình thức liên kết thông qua đầu
tư, góp vốn của công ty nhà nước quy mô lớn do nhà nước sở hữu tồn bộ vốn điều lệ với các
doanh nghiệp khác, trong đó công ty nhà nước giữ quyền chi phối doanh nghiệp khác.
Luật doanh nghiệp Nhà nước 2003 quy định loại hình Tổng Công ty này nhằm tạo ra 1
khung pháp lý cho việc đầu tư, chi phối lẫn nhau giữa các doanh nghiệp, dần chuyển thành các tập
đoàn kinh tế có sự tham gia của các thành phần kinh tế khác, phù hợp với việc mở rộng quyền tự
chủ, tự chịu trách nhiệm của các doanh nghiệp. Đây là loại Tổng công ty nhà nước theo mô hình
Công ty mẹ - công ty con. Loại hình Tổng công ty này không có tư cách pháp nhân mà chỉ là hình
thức liên kết bằng vốn đầu tư giữa các doanh nghiệp có tư cách pháp nhân với nhau. Trong cơ cấu
của Tổng công ty này có loại Tổng công ty nhà nước quy mô lớn nắm giữ quyền chi phối công ty
khác (được gọi là công ty mẹ) và loại công ty thành viên bị chi phối (được gọi là công ty con),
liên kết rất bền chặt bằng vốn đầu tư giữa các doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, hoàn toàn tự
nguyện và phụ thuộc vào năng lực tài chính của các doanh nghiệp liên kết.
- Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước: là tổng công ty được thành lập để thực
hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với Công ty TNHH nhà nước 1 thành viên chuyển đổi từ
các công ty nhà nước độc lập và các công ty TNHH nhà nước 1 thành viên do mình thành lập;
thực hiện chức năng đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước và quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu đối
với cổ phần, vốn góp của nhà nước tại các doanh nghiệp đã chuyển đổi sở hữu hoặc hình thức
pháp lý từ các công ty nhà nước độc lập.
Tổng công ty này nhằm thực hiện chức năng đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước tại các doanh
nghiệp, kể cả đầu tư thành lập mới doanh nghiệp, đồng thời thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở
hữu nhà nước đối với phần vốn đầu tư của nhà nước ở các doanh nghiệp khác.
2.5 QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CÔNG TY NHÀ NƯỚC:
2.5.1 Quyền và nghĩa vụ đối với vốn và tài sản: Điều 13 - 14 Luật DNNN
- Công ty nhà nước có quyền chiếm hữu, sử dụng vốn, tài sản của công ty để kinh doanh,
thực hiện các lợi ích hợp pháp từ vốn và tài sản của công ty. Riêng quyền định đoạt đối với vốn và
tài sản của công ty được tính theo giá trị tổng tài sản của công ty. Thẩm quyền quyết định phụ
thuộc vào loại hình công ty có hoặc không có Hội đồng quản trị.
+ Công ty không có Hội đồng quản trị được quyết định các dự án đầu tư, bán tài sản có giá
trị đến 30% tổng giá trị tài sản còn lại trên sổ kế toán của công ty hoặc tỷ lệ nhỏ hơn do điều lệ
công ty quy định.
+ Công ty có Hội đồng quản trị được quyết định dự án đầu tư đến 50% tổng giá trị tài sản
còn lại trên sổ kế toán của công ty hoặc tỷ lệ nhỏ hơn.
- Sử dụng và quản lý các tài sản được Nhà nước giao, cho thuê là đất đai, tài nguyên theo
quy định của pháp luật về đất đai, tài nguyên.
17
Chương II: Pháp luật về doanh nghiệp nhà nước
- Công ty Nhà nước có nghĩa vụ bảo toàn và phát triển vốn nhà nước và vốn công ty tự huy
động, chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số
tài sản của công ty.
Người đại diện chủ sở hữu nhà nước chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài
sản khác của công ty trong phạm vi số vốn của nhà nước đầu tư tại công ty. Điều đó có nghĩa là
nhà nước chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn đối với vốn và tài sản của công ty nhà nước.
2.5.2 Quyền và nghĩa vụ về kinh doanh: Điều 15 - 16 Luật DNNN
- Về cơ bản công ty nhà nước có các quyền kinh doanh tương tự như các doanh nghiệp hoạt
động theo quy định của Luật doanh nghiệp như: chủ động tổ chức sản xuất kinh doanh, tổ chức bộ
máy quản lý theo yêu cầu kinh doanh và bảo đảm kinh doanh có hiệu quả; kinh doanh những
ngành nghề pháp luật không cấm; mở rộng quy mô kinh doanh theo khả năng của công ty và nhu
cầu của thị trường trong và ngoài nước. Quyền quyết định các dự án đầu tư theo quy định của
pháp luật về đầu tư, quyết định sử dụng vốn, tài sản của công ty để liên doanh, liên kết...
- Công ty nhà nước phải kinh doanh đúng những ngành nghề như đã đăng ký, bảo đảm chất
lượng sản phẩm và dịch vụ do công ty thực hiện theo tiêu chuẩn đã đăng ký; thực hiện chế độ
kiểm toán, chịu sự kiểm tra, giám sát của chủ sở hữu nhà nước...
2.5.3 Quyền và nghĩa vụ về tài chính: Điều 17 - 18 Luật DNNN
- Công ty nhà nước có quyền huy động vốn để kinh doanh dưới các hình thức: phát hành
trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu công ty; vay vốn của các tổ chức ngân hàng, tín dụng, các tổ chức
tài chính khác, của cá nhân, tổ chức ngoài công ty; vay vốn của người lao động và các hình thức
huy động vốn khác theo quy định của pháp luật. Việc huy động vốn để kinh doanh theo nguyên
tắc tự chịu trách nhiệm hoàn trả, bảo đảm hiệu quả sử dụng vốn huy động, không được làm thay
đổi hình thức sở hữu công ty.
- Chủ động sử dụng vốn cho hoạt động kinh doanh của công ty; được sử dụng và quản lý
các quỹ của công ty theo quy định của pháp luật.
- Được hưởng các chế độ trợ cấp, trợ giá hoặc các chế độ ưu đãi khác của nhà nước khi thực
hiện các nhiệm vụ hoạt động công ích, quốc phòng, an ninh, phòng chống thiên tai hoặc cung cấp
các sản phẩm, dịch vụ theo chính sách giá của nhà nước mà không đủ bù đắp chi phí sản xuất sản
phẩm, dịch vụ này của công ty.
- Kinh doanh có lãi, bảo đảm chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư do đại diện chủ sở
hữu nhà nước giao; đăng ký, kê khai và nộp đủ thuế, thực hiện nghĩa vụ đối với chủ sở hữu và các
nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật.
- Chấp hành đầy đủ chế độ quản lý vốn, tài sản, các qũy, chế độ hạch toán, kế toán, kiểm
toán theo quy định của pháp luật; chịu trách nhiệm về tính trung thực và hợp pháp của các hoạt
động tài chính của Công ty.
- Thực hiện chế độ báo cáo tài chính, công khai tài chính hàng năm và cung cấp các thông
tin cần thiết để đánh giá trung thực về hiệu quả hoạt động của công ty.
2.5.4 Quyền và nghĩa vụ khi tham gia hoạt động công ích: Điều 19 LDNNN
- Sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích trên cơ sở đấu thầu.
18
Chương II: Pháp luật về doanh nghiệp nhà nước
- Chịu trách nhiệm trước Nhà nước về kết quả hoạt động công ích của công ty; chịu trách
nhiệm trước khách hàng, trước pháp luật về sản phẩm, dịch vụ công ích do công ty thực hiện.
- Được xem xét đầu tư bổ sung tương ứng với nhiệm vụ công ích được giao; phải hạch toán
và được bù đắp chi phí hợp lý phục vụ hoạt động công ích và bảo đảm lợi ích cho người lao động.
- Xây dựng, áp dụng các định mức chi phí, đơn giá tiền lương trong giá thực hiện thầu,
trong dự toán do Nhà nước đặt hàng hoặc giao kế hoạch.
2.6 HÌNH THỨC VÀ NỘI DUNG THAM GIA QUẢN LÝ CÔNG TY NHÀ NƯỚC
CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG:
2.6.1 Hình thức tham gia quản lý công ty nhà nước của người lao động:
Người lao động tham gia quản lý công ty nhà nước thông qua các hình thức và tổ chức sau
đây:
- Đại hội toàn thể hoặc Đại hội đại biểu công nhân viên chức được tổ chức từ tổ, đội, phân
xưởng, phòng, ban đến công ty.
- Tổ chức công đoàn của công ty.
- Ban thanh tra nhân dân
- Thực hiện quyền kiến nghị, khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật.
2.6.2 Nội dung tham gia quản lý công ty nhà nước của người lao động:
Người lao động có quyền tham gia thảo luận, góp ý kiến trước khi cấp có thẩm quyền quyết
định các vấn đề sau đây:
- Phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch, biện pháp phát triển sản xuất, kinh doanh, sắp xếp lại
sản xuất công ty.
- Phương án cổ phần hoá, đa dạng hoá sở hữu công ty.
- Các nội quy, quy chế của công ty liên quan trực tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ của người
lao động.
- Các biện pháp bảo hộ lao động, cải thiện điều kiện làm việc, đời sống vật chất và tinh
thần, vệ sinh môi trường, đào tạo và đào tạo lại người lao động của công ty.
- Bỏ phiếu thăm dò tín nhiệm đối với chức danh Chủ tịch Hội đồng quản trị, thành viên Hội
đồng quản trị (nếu có), Tổng Giám đốc hoặc Giám đốc, Kế toán trưởng khi được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền yêu cầu.
- Thông qua Đại hội toàn thể hoặc Đại hội đại biểu công nhân, viên chức và tổ chức công
đoàn, người lao động có quyền thảo luận và biểu quyết quyết định các vấn đề sau đây:
+ Nội dung hoặc sửa đổi, bổ sung nội dung thoả ước lao động tập thể để đại diện tập thể
người lao động ký kết với Tổng giám đốc hoặc Giám đốc công ty nhà nước.
+ Quy chế sử dụng các quỹ phúc lợi, khen thưởng và các chỉ tiêu kế hoạch của công ty có
liên quan trực tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động phù hợp với quy định của nhà
nước.
+ Đánh giá kết quả hoạt động và chương trình hoạt động của Ban thanh tra nhân dân.
+ Bầu Ban thanh tra nhân dân.
19
Chương II: Pháp luật về doanh nghiệp nhà nước
2.7 CHUYỂN ĐỔI SỞ HỮU CÔNG TY NHÀ NƯỚC:
2.7.1 Các hình thức chuyển đổi sở hữu:
Công ty nhà nước được chuyển đổi sở hữu theo các hình thức sau đây:
- Cổ phần hoá công ty nhà nước
- Bán toàn bộ một công ty nhà nước
- Bán một phần công ty nhà nước để thành lập Công ty TNHH có hai thành viên trở lên,
trong đó có 1 thành viên là đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước.
- Giao công ty nhà nước cho tập thể người lao động để chuyển thành công ty cổ phần hoặc
Hợp tác xã.
2.7.2 Loại công ty nhà nước được chuyển đổi sở hữu:
Công ty nhà nước hoạt động trong những ngành, lĩnh vực mà nhà nước không cần giữ
100% vốn điều lệ là đối tượng được áp dụng các hình thức chuyển đổi sở hữu.
2.7.3 Mục tiêu chuyển đổi sở hữu công ty nhà nước:
Chuyển đổi sở hữu công ty nhà nước nhằm:
- Cơ cấu lại sở hữu của công ty mà nhà nước không cần tiếp tục giữ 100% vốn điều lệ để sử
dụng có hiệu quả hơn số tài sản mà nhà nước đã đầu tư ở công ty.
- Huy động thêm các nguồn vốn đầu tư của cá nhân, tổ chức trong và ngoài công ty để hình
thành công ty có nhiều nguồn vốn chủ sở hữu, để đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ,
nâng cao sức cạnh tranh của công ty.
- Tạo điều kiện cho người lao động góp vốn thực sự làm chủ công ty và có việc làm.
2.7.4 Thẩm quyền chuyển đổi:
- Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch
UBND tỉnh lựa chọn và quyết định hình thức chuyển đổi sở hữu công ty nhà nước.
- Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND cấp
tỉnh tổ chức xác định giá trị công ty; quyết định giá trị công ty; phê duyệt phương án chuyển đổi
sở hữu công ty thuộc quyền quản lý.
Quyết định tổ chức lại công ty phải được gửi đến các chủ nợ và thông báo cho người lao
động biết trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày ra quyết định tổ chức lại.
Trường hợp tổ chức lại công ty dẫn đến thay đổi hình thức pháp lý hoặc mục tiêu, ngành
nghề kinh doanh, vốn điều lệ thì công ty phải làm thủ tục đăng ký lại hoặc đăng ký bổ sung với cơ
quan đăng ký kinh doanh.
- Trình tự và thủ tục chuyển đổi sở hữu công ty nhà nước do Chính phủ quy định
2.7.5 Quyền của công ty chuyển đổi sở hữu:
- Được hưởng ưu đãi đối với công ty thành lập mới theo quy định của pháp luật về khuyến
khích đầu tư.
- Được miễn thuế trước bạ chuyển quyền sở hữu đối với tài sản của công ty nhà nước
chuyển thành sở hữu của người mua cổ phần, mua công ty.
20