Giáo trình Khám bụng ngoại khoa và bệnh án
MỤC TIÊU :
Nắm vững các nội dung của một bệnh án ngoại khoaBiết cách khai thác và phát
hiện các triệu chứng lâm sàng (bao gồm các dấu hiệu cơ năng, toàn thân và thực
hể)Trình bày được giá trị của một số thăm dò cận lấm sàng cơ bảnTrình bày được tóm
ắt bệnh án: triệu chứng chính, các triệu chứng và các hội chứng.
Khám bụng ngoại khoa và bệnh án
MỤC TIÊU :
Nắm vững các nội dung của một bệnh án ngoại khoaBiết cách khai thác và phát
hiện các triệu chứng lâm sàng (bao gồm các dấu hiệu cơ năng, toàn thân và thực
thể)Trình bày được giá trị của một số thăm dò cận lấm sàng cơ bảnTrình bày được tóm
tắt bệnh án: triệu chứng chính, các triệu chứng và các hội chứng.Nắm vững cách thăm
khám bụngXác định được các dấu hiệu bệnh lý về tình trạng thành bụng, ổ bụngNắm
được các triệu chứng của một số bệnh lý cấp cứu bụng thường gặp.
I. HỎI BỆNH :
Trước khi hỏi bệnh, ta bắt buộc phải có những lời chào hỏi xã giao để làm
quen với bệnh nhân, tạo sự tin tưởng của người bệnh với mình đồng thời cũng để tìm
hiểu trình độ dân trí và văn hoá của người bệnh để đề ra những câu hỏi khai thác bệnh
sử một cách thích hợp. Ngoài ra, những câu hỏi xã giao cũng để tìm hiểu thêm về hoàn
cảnh gia đình, xã hội bệnh nhân. Đối với người văn hoá cao, cần có những câu hỏi tế
nhị nhưng đối với những người văn hoá thấp thì lại chọn những câu hỏi đơn giản, cụ
thể. Hiện nay, hầu như các bác sỹ và sinh viên đều bỏ qua mục này và thường có một
thái độ ban ơn, trịch thượng đối với người bệnh. Những biểu hiện này đang làm mất
dần đi tính nhân văn, những thể hiện văn hoá tối thiểu của một con người.
Trong hỏi bệnh và trong khám bệnh, người làm bệnh án phải ghi vào những
dấu hiệu dương tính (những dấu hiệu người bệnh có) và cả những dấu hiệu âm tính
(là những dấu hiệu người bệnh không có) vì nhiững dấu hiệu âm tính có tác dụng rất
lớn trong chẩn đoán phân biệt và chẩn đoán xác định. Ví dụ, đau quặn vùng mạng
sườn có đái ra máu sẽ khác hẳn đau mạng sườn không đái ra máu, hoặc đau vùng dưới
sườn phải có sốt nóng và rét sẽ rất khác đau dưới sườn phải không có sốt.
1. LÝ DO VÀO VIỆN :
Lý do vào viện là lý do khiến người bệnh đi đến tiếp xúc với cơ sở y tế đầu
tiên chứ không phải là lý do hành chính như chuyển viện hay hẹn vào mổ. Lý do vào
viện chính là dấu hiệu chủ đạo để khai thác trong quá trình hỏi bệnh. Ví dụ như bệnh
nhân vào viện vì đau bụng. Khi bệnh nhân vào viện vì đau bụng thì việc khai thác dấu
hiệu xung quanh đau bụng là quan trọng nhất. Đó sẽ là phần chính trong khai thác
bệnh sử. Nếu người bệnh đi đến cơ quan y tế đầu tiên là nôn ra máu thì việc khai thác
các đấu hiệu liên quan đến nôn ra máu sẽ là những phần chính càan khai thác trong
bệnh sử.
2. BỆNH SỬ
Bệnh sử là khai thác các thông tin xung quanh lý do vào viện. Đầu tiên ta phải
hỏi đến cơ hội xuất hiện lý do này rồi vị trí xuất hiện của lý do vào viện đối với
những trường hợp đau vì thông thường mỗi một cơ quan nội tạng đều có một sự tương
ứng ở bên ngoài. Ta bắt đầu hỏi đến thời gian xuất hiện của lý do vào viện vì chúng ta
biết rằng sự tiến triển của bệnh thường tương quan với thời gian. Đó là điều quan trọng
trong sơ bộ nhìn nhận bệnh nhân có ở trong tình trạng cấp cứu hay không. Nếu như lý
do vào viện của bệnh nhân đã có từ lâu thì rất ít khi là một bệnh cấp cứu ngoại khoa và
nếu như có cấp cứu ngoại khoa thì đây là điều tệ hại, có thể do tuyến y tế nhưng cũng
có thể do người bệnh dân trí thấp hoặc không có khả năng kinh tế đi khám bệnh và để
đến khi không chịu đựng nổi họ mới đi khám bệnh. Tiếp theo thời gian xuất hiệu dấu
hiệu đầu tiên ta cần hỏi đến cường độ của dấu hiệu này. Cường độ dữ dội hay vừa
phải chỉ cảm thấy khó chịu. Cùng với hỏi cường độ, ta cần hỏi tiếp đến đặc tính của
dấu hiệu này: có cơn hay không, có liên tục hay không, có lan đi theo hướng nào.
Sau khi đã hỏi đủ và kỹ các dấu hiệu này, ta mới hỏi đến các dấu hiệu khác xuất hiện
kèm theo dấu hiệu này. Lấy một ví dụ khi bệnh nhân bị đau bụng vì phần lớn bệnh
nhân đến khám cấp cứu là vì đau bụng. Để khai thác dấu hiệu này:
- Cơ hội xuất hiện của dấu hiệu đau. Có thể là tự nhiên, nhưng cũng có thể sau
khi ăn cỗ và uống rượu (viêm tuỵ) sau khi lao động nặng (sỏi tiết niệu), hoặc thay đổi
thời tiết (loét dạ dày-tá tràng).
- Đau từ bao giờ, đau ở vùng nào của bụng. Nếu là vùng trên rốn thường ta hay
nghĩ đến dạ dày-tá tràng, nếu đau vùng dưới sườn phải, ta nghĩ đến gan mật, nếu đau
hố chậu phải ta nghĩ đến ruột thừa, nếu đau vùng bụng dưới ta nghĩ đến phần phụ hoặc
bàng quang. Sự suy nghĩ này xuất phát từ vị trí giải phẫu và hệ số tương quan giữa vị
trí bên ngoài với bệnh lý các tạng bên trong. Tuy nhiên nếu chúng ta lại định kiến vào
quan điểm này thì có thể dẫn đến sai lầm trong chẩn đoán. Ví dụ như trẻ em, khi bị
viêm ruột thừa lại thường bắt đầu đau ở vùng trên rốn, hoặc không ít các trường hợp
đau hố chậu phải lại thuộc về bệnh lý phần phụ hay đại tràng.
- Cường độ đau cũng tuỳ thuộc vào từng loại bệnh. Ví dụ như thủng dạ dày
thường xuất hiện đột ngột, cơn đau dữ dội như bị đâm dao vào bụng khiến bệnh nhân
phải gập người lại và vì cơn đau dữ dội nên họ nhớ rất chính xác thời gian xảy ra và
thường đi đến bệnh viện rất sớm trong khi đó viêm ruột thừa lại chỉ đau lâm dâm và do
vậy người bệnh thường đến viện khá muộn, kể cả những người có học vấn hoặc chức
vụ cao.
- Tính chất đau cũng mang tính đặc thù cho từng bệnh. Đau do tắc ruột hoặc
viêm đại tràng, giun lên ống mật, sỏi niệu quản … thường đau thành từng cơn điển
hình.
- Hướng lan của đau cũng mang tính đặc thù cho một số loại bệnh: đau của
viêm tuỵ, sỏi mật thường lan ra sau lưng, đau của thoát vị lỗ bịt thường lan xuống mặt
trong đùi (do chèn vào thần kinh thẹn), viêm túi mật, áp xe gan, viêm gan thường lan
ra sau lưng và lên bả vai, sỏi tiết niệu thường lan xuống bộ phận sinh dục.
- Cũng trong khi hỏi về đau, ta phải hỏi thêm bệnh nhân trong khi đau thì tư thế
nào giúp cho bớt đau: nếu như thủng dạ dày, bệnh nhân không dám thở mạnh và gập
người lại, hai tay ôm ghì lấy vùng bụng trên trong khi cơn đau do giun lên đường mật,
bệnh nhân thường nằm chổng mông hoặc vắt chân lên tường.
- Các dấu hiệu kèm theo của đau bụng cũng mang tính đặc trưng. Ví dụ như sỏi
đường tiết niệu thường kèm theo đái ra máu, đau do tắc ruột, viêm tuỵ thường kèm
theo nôn, bí trung đại tiện. Những trường hợp nhiễm trùng đường mật hoặc áp xe gan
hoặc những nung mủ thường kèm theo dấu hiêụ sốt cao và rét run, đau do viêm bàng
quang hay phần phụ thường kèm theo đái buốt và đái dắt hoặc đau do viêm ruột thưà
thường kèm theo buồn nôn và ngây ngấy sốt.
Điều quan trọng trong khi hỏi bệnh phải kiên nhẫn, không gợi ý cho bệnh nhân
kể theo định hướng của người thầy thuốc, nên đặt các câu hỏi mang tính lựa chọn và
nếu thấy gì nghi ngờ cần hỏi đi hỏi lại để tránh những tưởng tượng của bệnh nhân.
3. TIỀN SỬ
- Khai thác tiền sử có môt giá trị quan trọng không chỉ trong chẩn đoán, điều trị
mà còn góp phần cho nghiên cứu.
- Trong tiền sử, khai thác những bệnh lý trước đây liên quan đến xuất hiện
bệnh lần này. Ví dụ như một người có tiền sử táo bón lâu ngày thì là điều kiện hết sức
thuận lợi để gây nên bệnh trĩ; hoặc tiền sử một người từ lâu có biểu hiện cơn đau kiểu
giun chui ống mật sẽ liên quan đến bệnh sỏi mật, hoặc là tiền sử sốt rét sẽ liên quan
đến lách to… Đó là khai thác tiền sử nhằm hỗ trợ cho chẩn đoán.
- Khai thác trong tiền sử bệnh nhân có bệnh gì kèm theo hay không như cao
huyết áp, đái tháo đường, bệnh tim mạch… hoặc những tiền sử dị ứng như dị ứng với
một loại thuốc nào để trong quá trình gây mê và điều trị ta có kế hoạch trước, tránh
những tại biến đáng tiếc xảy ra. Đó là khai thác tiền sử phục vụ cho điều trị.
- Khai thác tiền sử hỗ trợ cho nghiên cứu khoa học, ta cần khai thác những thói
quen trong sinh hoạt của bệnh nhân như hút thuốc, ăn mặn, uống rượu hoặc uống nước
không đun sôi… để từ đó có thể tìm đến nguyên nhân hoặc điều kiện thuận lợi gây nên
bệnh này. Đồng thời cũng cần khai thác trong gia đình hoặc xóm giềng có ai biểu hiện
bệnh giống của bệnh nhân để từ đó có thể phát hiện bệnh mang tính di truyền hoặc
bệnh sinh ra do tác động của ảnh hưởng môi trường. Vì vậy, tiền sử phải được khai
thác một cách nghiêm túc và tỉ mỉ, tránh qua loa, lấy lệ như hiện nay.
- Trong khi ta hỏi bệnh, đồng thời tiến hành quan sát bệnh nhân từ sắc diện,
màu da, môi, kiểu thở, hơi thở, kiểu nói, tư thế và kiểu đau, thần sắc…để có định
hướng dần những việc sẽ cần làm trong khi khám bệnh.
II. KHÁM BỆNH
- Khám bệnh phải được xây dựng thành một trình tự logic để thành một thói
quen và nhờ thói quen này mà người thày thuốc giỏi ít khi bỏ sót dấu hiệu có thể phát
hiện ra các triệu chứng không đáng bỏ qua.
Trước hết ta phải xem da và niêm mạc, lưu ý niêm mạc mắt (vàng, nhợt …) và
niêm mạc lưỡi (bẩn …), sờ mạch xem rõ, đều, nhanh chậm. Lấy nhiệt độ và đo huyết
áp. Nếu bệnh nhân có biểu hiện thở khó người khám bệnh phải đếm nhịp thở bằng
cách áp bàn tay lên vùng thượng vị, mắt nhìn đồng hồ trong ít nhất một phần tư phút.
Khi thấy người bệnh có biểu hiện bất thường về mạch, huyết áp, nhịp thở mà cụ thể là
mạch nhanh, nhỏ, huyết áp thấp, nhịp thở quá nhanh hoặc quá chậm ta phải có động
tác can thiệp ngay vì đây là những dấu hiệu có nguy cơ ảnh hưởng đến tính mạng
trước khi tiến hành khám để phát hiện bệnh.
- Ví dụ như một phụ nữ đến khám vì đau bụng dữ dội, vào đến phòng khám,
người nhợt, da tái, mạch nhanh nhỏ, huyết áp hạ. Trong tình trạng này nếu người chưa
có kinh nghiệm phải làm ngay động tác ủ ấm, truyền dịch và xét nghiệm máu còn
người có kinh nghiệm sẽ hướng ngay đến chẩn đoán là vỡ khối chửa ngoài dạ con và
chuyển vào phòng mổ để tiếp tục hoàn thiện chẩn đoán và sẵn sàng can thiệp. Nếu lúc
đó chúng ta tiếp tục thăm khám, tìm kiếm dấu hiệu chẩn đoán thì nguy cơ truỵ mạch
đe doạ tính mạng người bệnh là rất lớn và có khi chẩn đoán xong thì đã quá muộn
không còn thời gian để xử lý. Nếu người bệnh đến trong tình trạng mê man, mất ý
thức, tại nơi tiếp nhận phải có biên bản của một nhóm gồm ba người kiểm kê mọi loại
giấy tờ, tài sản, tư trang trên người và trong túi quần áo đồng thời phải ghi tên tuổi địa
chỉ của người đưa đến. Một điều cần lưu ý đối với khám cấp cứu bụng do nguyên nhân
tai nạn giao thông hoặc sinh hoạt như đánh nhau hay đâm chém nhau. Đây là những
trường hợp có liên quan đến yếu tố pháp luật sau này trong việc định tội hoặc giám
ddịnh thương tật vì vậy mọi vết tích có ở trên người nạn nhân phải được thống kê đầy
đủ, mô tả tỷ mỷ trong hồ sơ bệnh án.
1. Khám bụng.
Khám bụng là những thăm khám vùng bụng, vùng bẹn bìu và thăm trực tràng
hoặc thăm âm đạo vì vậy phải có nơi khám kín đáo và đối với phụ nữ khi người thày
thuốc là nam giới khám bệnh thì trong chỗ khám bệnh bắt buộc phải có từ hai người
trở lên.
a. Thăm khám vùng bụng.
Thăm khám vùng bụng người khám bệnh phải yêu cầu người bệnh bộc lộ đầy
đủ từ ngang núm vú xuống tới phần trên của đùi. Người bệnh nằm ngửa, chân chống
xuống giường để bụng và đùi tạo một góc lớn hơn 45 độ làm chùng cơ bụng. Người
khám ngồi bên phải nếu thuận tay phải và ngồi bên trái nếu thuận tay trái. Tuy nhiên
có một số trường hợp đau dữ dội, bệnh nhân không thể nằm ngửa được ví dụ như trong
thủng ổ loét dạ dày tá tràng. Trong những trường hợp này cần ai ủi nhẹ nhàng đả thông
bệnh nhân và nhanh chóng xác định bệnh nhân có co cứng thành bụng hay không để
có chẩn đoán quyết định.
Quan sát.
Trước hết là nhìn. Nhìn xem bụng bệnh nhân có di động theo nhịp thở hay
không, bụng lõm hay chướng.
- Nếu bụng không di động theo nhịp thở, ta có thể phát hiện dấu hiệu co cứng
thành bụng qua quan sát: các múi cơ thẳng của bụng nổi rõ liên tục như người lên gân
bụng.
- Nếu bụng lõm, động tác tiếp theo là tìm kiếm dấu hiệu Bouveret .
- Nếu bụng chướng, động tác tiếp theo là xác định chướng do hơi hay do dịch
bằng cách gõ.
Ngoài ra cần quan sát xem trên bụng có vết mổ cũ hoặc có chỗ nào gồ lên hay
không cũng như vùng bẹn bìu có gì khác lạ hay không…Điều này rất quan trọng trong
mối liên quan chẩn đoán.
- Nếu như bệnh nhân có sẹo mổ hay sẹo thương tích trên thành bụng thì thường
liên quan đến tắc ruột sau mổ.
- Nếu bệnh nhân có những chỗ lồi lên ở vùng bẹn, nếu trên đường Malgaine
(đường nối từ gai chậu trước-trên đến bở trên phải xương mu) thường là khối thoát vị
bẹn, dưới đường này thường là khối thoát vị đùi; lồi lên ở quanh rốn thường là thoát vị
rốn, lồi lên dưới sẹo mổ thường là sa lồi thành bụng. Những lỗ thoát vị này là do điểm
yếu của thành bụng (bẩm sinh hoặc mắc phải) làm cho một số quai ruột nằm ra ngoài ổ
bụng và có thể bị thắt nghẹt lại.
Trong quan sát, ta cũng cần nhìn đến các chất thải của bệnh nhân như chất nôn,
nước tiểu, phân… để có thể hướng tới chẩn đoán ví dụ như nôn ra máu hay đi ngoài
phân đen, đái ra máu hay đái ra mủ, dịch nôn có dịch mật hay không để phân biệt giữa
tắc tá tràng với hẹp môn môn vị.
Sờ nắn bụng.
Mục đích của sờ nắn bụng trong cấp cứu ngoại khoa tập trung cho phát hiện
tình trạng thành bụng đồng thời cũng tìm các dấu hiệu khác trong khám bụng. Tình
trạng thành bụng thể hiện tổn thương của các tạng ở trong ổ bụng vì vậy việc thăm
khám một cách kỹ càng của những người có kinh nghiệm đã mang lại nhiều giá trị
trong chẩn đoán cấp cứu bụng và cho đến nay, với những áp dụng tiến bộ trong các
thăm dò bổ trợ, khám lâm sàng vẫn mang tính chất quyết định trong chẩn đoán và chỉ
định cấp cứu bụng ngoại khoa.
Để đánh giá tình trạng thành bụng, người khám cần áp nhẹ toàn bộ bàn tay của
mình lên bụng bệnh nhân, mềm mại ấn từ từ, không khám bằng các đầu ngón tay vì
các đầu ngón tay sẽ kích thích thành bụng tạo ra những đáp ứng của thành bụng do
phản xạ. Nguyên tắc đặt ra trong khám bụng là khám từ vùng không đau đến vùng đau,
để so sánh tình trạng cơ thành bụng ở các vùng bụng đối diện. Thông thường, chỉ có
khi thành bụng mềm hoàn toàn mới xác định được các khối u hoặc các tạng trong ổ
bụng như gan, lách, túi mật, thận … to ra còn khi thành bụng đã phản ứng hoặc co
cứng, dấu hiệu này rất khó xác định.
Phản ứng thành bụng.
Phản ứng thành bụng là tình trạng cơ thành bụng co lại khi ta ấn nhẹ bàn tay
vào bụng bệnh nhân từ nông xuống sâu. Để tránh tình trạng phản ứng thành bụng giả
tạo do người khám bệnh gây nên, bàn tay người khám bệnh phải được làm ấm trước
khi khám, áp sát toàn bộ bàn tay lên bụng, từ vùng bụng không đau đến vùng bụng bị
đau, so sánh tình trạng thành bụng bên đau với bên đối diện. Phản ứng thành bụng có
thể biểu hiện bằng thớ cơ thành bụng căng lại gần như lên gân bụng, nét mặt đau đớn
và thể hiện động tác đối kháng như giữ tay người khám lại, gạt tay người khám ra
…Nguyên nhân phản ứng thành bụng là một phản xạ của thành bụng nhằm bảo vệ các
tạng bên trong khi bị tổn thương do sang chấn hay viêm nhiễm.
Co cứng thành bụng.
Co cứng thành bụng nghĩa là thành bụng phải co cứng liên tục và ngoài ý muốn
người bệnh
Co cứng thành bụng được chia làm hai loại:
- Co cứng thành bụng cục bộ – chỉ co cứng một nhóm cơ của một vùng bụng –
như chỉ co cứng ở hố chậu phải hay dưới sườn phải, trong khi những nơi khác vẫn còn
mềm
- Co cứng toàn thể các cơ thành bụng.
Cần lưu ý khi xác minh co cứng thành bụng nghĩa là thành bụng phải co cứng
liên tục và ngoài ý muốn người bệnh. Phát hiện dấu hiệu này, chỉ cần áp nhẹ bàn tay
lên bụng bệnh nhân để cảm nhận tình trạng co cứng liên tục của các khối cơ thành
bụng. Khi co cứng cục bộ có nghĩa là một tạng đã bị vỡ nhưng chưa vỡ vào toàn ổ
bụng còn co cứng toàn thể là dấu hiệu sớm của thủng tạng rỗng. Co cứng thành bụng
liên tục toàn thểCảm ứng phúc mạc. Cảm ứng phúc mạc là thể hiện ở thành bụng các
dấu hiệu mà trong ổ phúc mạc có dịch viêm hoặc máu hoặc nói cách khác là tình
trạng thể hiện của thành bụng trong trường hợp phúc mạc bị kích thích do dịch viêm
nhiễm hoặc do máu. Trong những trường hợp này, bụng bệnh nhân thường trướng, vẻ
mặt biểu hiện nhiễm trùng nếu trường hợp có mủ trong ổ bụng hoặc nhợt nhạt nếu có
máu trong ổ bụng. Nắn bụng rất nhẹ nhàng cũng làm người bệnh không chịu nổi hoặc
khi ta bỏ tay đột ngột khỏi thành bụng sau khi ấn sâu vào khiến bệnh nhân đau nảy
người lên. Trong một số trường hợp thể hiện kín đáo, tìm các điểm đau xung quanh
rốn để phát hiện cảm ứng phúc mạc rất có giá trị. Cũng có thể tìm dấu hiệu cảm ứng
phúc mạc bằng cách giảm áp lực đột ngột ổ bụng trong khi khám: Ta áp cả bàn tay ấn
sâu đều vào thành bụng rồi đột ngột bỏ ra. Nếu bệnh nhân đau nảy người lên là thể
hiện dấu hiệu dương tính. Đồng thời với biểu hiện trên thành bụng, nếu ta thăm trực
tràng, bao giờ cũng phát hiện túi cùng Douglas phồng và đau vag dấu hiệu này rất
trung thành và có giá trị…
Tìm các điểm đau.
Nhắc lại về phân khu vùng bụng :
Bụng được chia thành 9 vùng do hai đường thẳng đi từ giữa xương đòn đi
xuống cắt vuông góc với hai đường ngang mà đường ngang thứ nhất tạo bởi đường nối
hai gai chậu trước trên và đường ngang thứ hai nối điểm cắt của đường thẳngvới hai
bờ sườn.
- Vùng trên rốn (tương ứng với dạ dày, đại tràng ngang, tuỵ, thuỳ gan trái).
- Vùng quanh rốn (tương ứng với ruột non) .
- Vùng dưới rốn (tương ứng với bàng quang, tử cung).
- Vùng dưới sườn phải (tương ứng với tá tràng, túi mật, gan, thận phải).
- Vùng mạng sườn phải (tương ứng với đại tràng lên, niệu quản phải).
- Hố chậu phải (tương ứng với ruột thừa, manh tràng, phần phụ).
- Dưới sườn trái (tương ứng với đuôi tuỵ, lách, đại tràng góc lách, thận trái).
- Mạng sườn trái (tương ứng với đại tràng xuống và niệu quản) .
- Hố chậu trái (tương ứng với đaị tràng xích ma, vòi trứng và buồng trứng trái).
Các điểm đau đặc hiệu. Trong khám bụng ngoại khoa cấp cứu, người ta lưu
tâm đến một số điểm như điểm MacBurney trong bệnh viêm ruột thừa, điểm cạnh ức
trái trong trường hợp gan trái nung mủ, điểm sườn lưng trái trong phù tuỵ hoặc viêm
tuỵ cấp. Đồng thời với việc tìm các điểm đau đặc hiệu, có một số nghiệm pháp thường
được tiến hành cùng với động tác khám. Ví dụ như nghiệm pháp Murphy, nghiệm
pháp rung gan, nghiệm pháp kích thích gây tăng nhu động của dạ dày hai quai ruột.
- Nghiệm pháp Murphy nhằm phát hiện dấu hiệu viêm nhiễm của túi mật.
Bệnh nhân nằm ngửa, hai chân chống xuống giường tạo thành một góc 45 độ. Người
thày thuốc ngồi ở bên phải, bàn tay để ở dưới bờ sườn phải. Khi bệnh nhân hít vào bàn
tay người thày thuốc ấn nhẹ và đẩy lên trên, nếu túi mật viêm, bệnh nhân sẽ ngừng
động tác hít vào. Cơ chế của nghiệm pháp này là khi bệnh nhân hít vào, cơ hoành hạ
xuống, đẩy gan và túi mật xuống theo. Khi người thày thuốc đưa tay lên, túi mật đang
bị đẩy xuống do động tác hít vào chạm vào đầu ngón tay người thày thuốc và vì túi
mật bị viêm nên đau và vì thế bệnh nhân tự nhiên ngừng hít vào.
- Nghiệm pháp rung gan nhằm phát hiện những nung mủ ở trong gan. Các
ngón tay của một bàn tay áp lên các khoang liên sườn từ thứ 6 trở xuống rồi dùng cạnh
của bàn tay kia chặt xuống bàn tay đang áp vào sườn bệnh nhân. Nếu nghiệm pháp
dương tính có nghĩa là bệnh nhân đau nảy người lên.
- Nghiệm pháp kích thích tăng nhu động ruột hoặc dạ dày bằng cách búng
nhẹ hoặc véo nhẹ cơ bụng tạo kích thích và ta nhìn tiếp tuyến với thành bụng. Nếu
dương tính, ta sẽ thấy các nhu động ruột cuộn lên như rắn bò vì vật dấu hiệu dương
tính được gọi là dấu hiệu rắn bò.
Nghe bụng Nghe bụng nhằm phát hiện tiếng nhu động ruột để phân biệt giữa
tắc ruột cơ giới (có và tăng nhu động) với tắc ruột cơ năng do liệt ruột (mất nhu động
ruột), đồng thời một số trường hợp túi phình động mạch chủ vỡ thường biểu hiện một
bệnh cảnh của hội chứng phúc mạc và trong trường hợp này khi nghe bụng sẽ thấy
tiếng thổi tâm thu rất rõ.
Khám các lỗ thoát vị. Trong khám bụng bình thường nói chung và khám bụng
cấp cứu nói riêng, khám các lỗ thoát vị và thăm trực tràng hoặc âm đạo là những động
tác bắt buộc. Thoát vị nghĩa là một quai ruột chui qua một lỗ ở bên trong ổ bụng (thoát
vị trong) hoặc ra dưới da bụng, bẹn, đùi (thoát vị ngoài). Thoát vị trong thường gặp do
lỗ bịt không kín hoàn toàn, thoát vị qua cơ hoành … còn thoát vị ngoài thường là thoát
vị bẹn, thoát vị đùi, thoát vị rốn. Khám bụng chỉ c
ó thể phát hiện được những thoát vị ngoài. Thông thường, thoát vị không phải
là một bệnh ngoại khoa cấp cứu nhưng khi đoạn ruột thoát vị bị nghẹt lại sẽ gây nên
tắc ruột và muộn hơn, đoạn ruột này sẽ bị hoại tử do việc cấp máu động mạch cho quai
ruột bị khó khăn cùng với việc quai ruột phù nề do mạch mạch và tĩnh mạch trở về bị
ứ trệ, càng làm tăng thêm cản trở cho việc cấp máu động mạch. Dấu thoát vị nghẹt là
khối thoát vị không tự lên, bệnh nhân đau, nôn và khi khám vào cổ bao thoát vị, bệnh
nhân rất đau. Khi đã xác định là thoát vị nghẹt, mọi động tác thử đẩy khối thoát vị lên
là cấm tuyệt đối vì cho dù khối thoát vị được ấn lên nhưng tiến triển của đoạn ruột này
không xác định được và nếu hoại tử sẽ gây nên viêm phúc mạc trầm trọng. Kể cảc
những trường hợp đã chỉ định mổ, sau khi gây mê, do tác dụng mềm cơ nên một số
trường hợp khối thoát vị tự tụt lên. Trong những trường hợp này, vì sự an toàn của
bệnh nhân, ta vẫn phải tiếp tục mổ để kiểm tra quai ruột bị sa xuống đồng thời giải
quyết nguyên nhân gây thoát vị.
b.Thăm trực tràng, âm đạo
Thăm trực tràng hoặc thăm âm đạo là những động tác bắt buộc trong khám
bụng cấp cứu. Động tác thăm khám này bắt buộc vì ba lý do:- Nó xác định tình trạng ổ
phúc mạc thông qua kiểm tra túi cùng
Douglas. Chúng ta đều biết túi cùng
Douglas là chỗ thấp nhất của ổ phúc mạc và tính chất sinh lý của phúc mạc
vùng này là tái hấp thu kém nhất trong toàn ổ bụng vì vậy khi trong ổ bụng có dịch, sẽ
tụ lại ở túi cùng này. Bình thường túi cùng
Douglas là một khoang ảo và khi chứa dịch nó mới đầy lên vì vậy khi thăm trực
tràng hoặc âm đạo, ta sẽ thấy túi cùng này đầy và rất đau. – Qua thăm khám trực tràng
hay âm đạo, ta có thể gián tiếp kiểm tra một số tạng qua thành bên (như ruột thừa,
phần phụ) hoặc thành trước (tuyến tiền liệt, tử cung).- Khi thăm trực tràng hay âm đạo,
ta có thể chẩn đoán nguyên nhân một số bệnh như trong tắc ruột ở người già ta có thể
sờ thấy khôí u trực tràng, trong tắc ruột ở trẻ còn bú, nếu đứa trẻ bỏ bú, ưỡn người,
khóc thét cùng với khi thăm trực tràng (bằng ngón tay út) có máu dính vào găng thì
chẩn đoán lồng ruột sẽ được xác định, đối với phụ nữ tự nhiên xỉu đi, tụt huyết áp mà
khi thăm âm đạo có máu ra theo găng thì chắc chắn là vỡ chửa ngoài dạ con. Thăm
trực tràng và âm đạo là một động tác thăm khám tế nhị vì vậy nó phải được giải thích
kỹ về lý do và quy trình thao tác với bệnh nhân và người nhà của họ trước khi tiến
hành. Đối với phụ nữ bao giờ cũng phải có một người y tá hoặc nhân viên y tế là nữ có
mặt trong lúc thăm khám và nếu người phụ nữ chưa sinh hoạt tình dục thì không được
phép thăm khám âm đạo. Thăm khám được tiến hành trong buồng riêng, bệnh nhân
nằm ngửa trong tư thế phụ khoa, dưới mông được lót một miếng toan nhỏ. Người thăm
khám đi găng, sử dụng ngón trỏ trong thăm trực tràng ở người lớn, ngón út ở trẻ em và
ngón trỏ cùng ngón giữa trong thăm âm đạo. Sau khi đi găng, người khám nhúng ngón
tay vào dầu parafin rồi tiến hành thăm khám. Động tác thăm khám phải hết sức nhẹ
nhàng, từ từ và tuyệt đối không được thô bạo vì sự thô bạo sẽ cho kết quả nhầm do
phản ứng của người bệnh. Trong khi thăm trong, có thể dùng bàn tay còn lại kết hợp
nắm trên thành bụng để phát hiện các dấu hiệu kèm theo. Sau khi tiến hành khám bụng
xong, người thày thuốc phải nghe tim, phổi, khám vùng cổ, cột sống để phát hiện
những bệnh kèm theo và những bệnh kèm theo này có khi giúp đỡ cho chẩn đoán (như
khi khám bụng phát hiện gan to và đau mà nghe tim có tiếng rung tâm trương thì chắc
chắn phải nghĩa đến gan to là do suy tim) đồng thời giúp đỡ cho gây mê lựa chọn
những phương án tối ưu trong khi gây mê.
CÁC THĂM DÒ CẬN LÂM SÀNG BỔ TRỢ:
Sau khi đã thu nhận được những triệu chứng cơ năng thông qua hỏi bệnh, triệu
chứng thực thể thông qua khám bệnh và các yếu tố về toàn thân, người khám đã có
hướng nào nghĩ đến chẩn đoán và để làm rõ thêm, người khám sẽ cho tiến hành các
thăm dò cận lâm sàng gồm xét nghiệm máu, xét nghiệm sinh hoá, thăm dò hình ảnh và
một số thăm dò khác như nội soi dạ dày thực quản…
1. Xét nghiệm huyết học: gồm xét nghiệm đếm hồng cầu và công thức bạch
cầu, huyết sắc tố nhóm máu, thời gian máu đông, máu chảy và hêmatocrit. Hồng cầu
và hematocrit tăng trong trường hợp máu bị cô đặc do mất nước hoặc sốc và giảm khi
bị mất máu. Bạch cầu tăng trong các trường hợp nhiễm trùng hay chấn thương tạng
đặc như vỡ lách hoặc vỡ gan . Thời gian máu đông và máu chảy để khái quát về trạng
thái đông máu, cầm máu của bệnh nhân. Nhóm máu ABO là đủ đối với người Việt
Nam và á đông nhưng với người phương tây, xét nghiệm nhóm Rh là điều bắt
buộc để bảo đảm an toàn trong truyền máu.
2. Xét nghiệm sinh hoá. Những xét nghiệm sinh hoá thông thường là urê,
đường máu. Nếu urê cao thì phải làm tiếm creqtinin để xác định tình trạng suy thận và
kali máu để đánh giá mức độ suy thận. Nếu đường máu cao thì phải làm ngay đường
niệu để xác định có hay không có bệnh đái tháo đường. Nếu bệnh nhân nôn nhiều thì
phải xét nghiệm điện giải. Nếu bệnh nhân có vàng mắt thì phải cho thử bilirubin cùng
với muối mật và sắc tố mật trong nước tiều. Nếu bệnh nhân có tiền sử tiêm chích thì
bắt buộc phải thử HIV, viêm gan C và viêm gan B….
3. Thăm dò chẩn đoán hình ảnh. - Chụp bụng không chuẩn bị. Các dấu hiệu
thu được trên phim chụp bụng không chuẩn bị gồm: sỏi cản quang, liềm hơi, mức hơi
nước… Chụp bụng không chuẩn bị một phần giúp cho chẩn đoán xác định (như liềm
hơi dưới cơ hoành trong thủng tạng rỗng) hoặc chẩn đoán phân biệt (đâu hố chậu phải
có hình ảnh sỏi niệu quản phái phân biệt với đau hố chậu phải do viêm ruột thừa). Tuy
nhiên các dấu hiệu này không thể thay thế cho các dấu hiệu lâm sàng.
- Siêu âm: Siêu âm là một phương pháp thăm dò được áp dụng nhiều vì không
gây nguy hiểm và đau đớn cho bệnh nhân. Siêu âm cho phép đánh giá đầu tiên ổ phúc
mạc có dịch hay không. Tiếp đến siêu âm cho phép chẩn đoán xác định một số tạng
tổn thương như hình ảnh dãn đường mật có hoặc không kèm sỏi, viêm và sỏi túi mật,
hình ảnh vỡ tạng đặc, tình trạng tử cung và buồng trứng, tình trạng tuỵ, thận. Đối với
tạng rỗng một đôi khi có thể thấy hình ảnh ruột thừa hoặc khối u của ruột. Đối với
mạch máu, siêu âm có thể xác định được đường kính của tĩnh mạch cửa, phát hiện
những túi phình của động mạch chủ hoặc các động mạch khác trong ổ bụng. Tuy nhiên
một nhược điểm lớn của siêu âm chẩn đoán phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng máy và
đặc biệt là kinh nghiệm và trình độ người đọc siêu âm.
- Chụp cắt lớp vi tính. Nhìn chung hiện nay chụp cắt lớp vi tính chưa là một
thăm dò thông thường trong cấp cứu ở nước ta vả lại giá trị trong chẩn đoán cấp cứu
bụng không hơn nhiều siêu âm.
4. Nội soi đường tiêu hoá (Endoscospy): Trong những trường hợp chảy máu
đường tiêu hoá, một trong những chỉ định rất cần để xác định nguyên nhân chảy máu
là nội soi dạ dày tá tràng. Trước hết nó xác định chảy máu do vỡ búi dãn tĩnh mạch
thực quản hay do ổ loét dạ dày tá tràng hay do đường mật (dịch chảy qua Oddie có
máu hay không), đồng thời nó có thể can thiệp cầm máu tạm thời như tiêm chất gây xơ
vào búi dãn tĩnh mạch thực quản hoặc tiêm thuốc cầm máu ổ loét.
5. Chọc rửa ổ bụng: Nếu như trong những năm đầu của thế kỷ XX, chọc dò ổ
bụng được đề cập đến trong cấp cứu bụng ngoại khoa nhưng hiện nay phương pháp
này đã đưọc thay thế bằng chọc rửa ổ bụng. Sau khi luồn một catheter ở dưới rốn
hướng xuống Douglas, người ta cho dịch sinh lý chảy vào trong ổ bụng từ 500 đến
1000ml. Sau đó dung nguyên tắc xi phông để cho dịch rửa này tự chảy ra. Nếu như đại
thể xác định rõ dịch chảy ra có máu hoặc dịch tiêu hoá là đủ để chỉ định mổ nhưng nêú
chưa rõ, người ta mang dịch này đi ly tâm đến hồng cầu, bạch cầu và thử amylase.
Chọc rửa ổ bụng cho một giá trị chẩn đoán cao.
6. Nội soi ổ bụng (Laparoscopy). Trong một số trường hợp nghi ngờ, để tránh
mổ bụng thăm dò, một số cơ sở có điều kiện có thể tiến hành soi ổ bụng để chẩn đoán
và qua nội soi ổ bụng có thể tiến hành các thủ thuật cần thiết như khâu lỗ thủng dạ
dày, cắt ruột thừa, cắt túi mật, gỡ dính ruột. Đây là một hướng mới của ngoại khoa
trong thế kỷ XXI.
7. Những thăm dò khác: trong những trường hợp nghi nghờ bệnh nhân có
bệnh khác kèm theo qua thăm khám toàn thân ta phải cho làm các thăm dò khác như
chụp phổi (đối với nghi ngừo lao phổi) điện tim, siêu âm tim (đối với người cao huyết
áp hoặc nghi nghờ bệnh tim). Đặc biệt hiện nay, trong mối đe doạ của đại dịch HIV,
tất cả những bệnh nhân có nguy cơ cao (đặc biệt là nghiện chích, mại dâm) việc xét
nghiệm tìm HIV, viêm gan B và viêm gan C là bắt buộc.
KẾT LUẬN :
Khám bụng ngoại khoa được bắt đầu từ hỏi bệnh. Qua hỏi bệnh ta sẽ thu thập
được các triệu chứng cơ năng. Trên cơ sở những triệu chứng cơ năng này ta sẽ tập
trung tìm kiếm các triệu chứng thực thể thông qua động tác khám bệnh. Tập hợp triệu
chứng cơ năng và triệu chứng thực thể lại ta sẽ thu được các triệu chứng lâm sàng làm
cơ sở cho hướng tới một số chẩn đoán lâm sàng. Từ những chẩn đoán lâm sàng này ta
cho làm thêm các nhóm xét nghiệm và thăm dò khác nhằm phân biệt một số biểu hiện
lâm sàng giống nhau của một số bệnh khác nhau tiến tới chẩn đoán xác định. Một khi
chẩn đoán xác định đã được rõ ràng, việc xây dựng những phương án điều trị không là
khó khăn. Như vậy muốn điều trị tốt ta phải có được chẩn đoán đúng và muốn có được
chẩn đoán đúng ta phải biết cách hỏi bệnh, cách khám bệnh cách yêu cầu các xét
nghiệm và thăm dò cận lâm sàng khác. Khi có được những thông tin này, xác dịnh
những chẩn đoán loại trừ hoặc chẩn đoán phân biệt theo một tư duy logíc để dẫn tới
chẩn đoán xác định. Không bao giờ được quên khám toàn thân để phát hiện những
bệnh kềm theo hoặc là những nguyên nhân có thể gây nên những dấu hiệu bụng ngoại
khoa giả như suy tim, viêm phổi.