logo

Đổi mới để thu hút đầu tư

Đổi mới để thu hút đầu tư
P/v Bộ trởng Bộ kế hoạch và đầu tư Võ Hồng Phúc Trong những năm gần đây, vốn ĐTNN vào Việt Nam giảm sút. Tình trạng trên do những nguyên nhân nào là chủ yếu, tha Bộ trởng? Theo tôi, khi nói đến việc thu hút đợc nhiều hay ít lợng vốn ĐTNN, có thể xét trên 2 khía cạnh: lợng vốn cam kết đầu t vào và lợng vốn thực tế thực hiện. Chúng ta ghi nhận là thời gian qua lợng vốn cam kết đã giảm, nhng theo tôi nên chú ý đến nguồn vốn thực hiện, bởi lẽ, nguồn vốn cam kết mới chỉ là cam kết thôi còn thực tế nguồn vốn đó có vào Việt Nam không còn phụ thuộc quá trình thực hiện. Do vậy, trên thực tế, nếu tính theo vốn cam kết thì lợng vốn ĐTNN của chúng ta thu hút vào có giảm hơn so năm ngoái. Một phần số vốn năm nay thấp hơn cùng kỳ năm ngoái do năm ngoái chúng ta cấp phép cho 2 dự án điện Phú Mỹ với số vốn trên 800 triệu USD. Trong khi đó, đa số các dự án đăng ký từ đầu năm đến nay chủ yếu là các dự án có quy mô nhỏ. Các nhà đầu t chiến lợc từ thị trờng Mỹ vẫn còn tiếp tục thăm dò sau khi Hiệp định thơng mại Việt Mỹ đợc ký kết nên sự có mặt của các nhà đầu t này vẫn còn khiêm tốn. Còn vốn thực hiện thì không những không giảm mà còn tăng hơn 11% so cùng kỳ năm ngoái. Tha Bộ trởng, tuy nhiên, về lâu dài, nếu không có vốn cam kết mới thì làm sao có giải ngân vốn thực hiện? Theo tôi hiện nay lợng vốn cam kết vào Việt Nam khá nhiều, khi đánh giá mức vốn cam kết cần lu ý những dự án có cam kết cho 3 hoặc 5 năm. Nếu chỉ nhìn vào và đánh giá lợng vốn cam kết qua từng năm cha hẳn đã chính xác. Thông lệ quốc tế, thờng ng- ời ta ghi nhận vốn cam kết song đánh giá chủ yếu là nhà đầu t có bỏ vốn thực hiện hay không mới quan trọng. Trong chiến lợc để thu hút nguồn vốn ĐTNN, Danh mục gọi vốn đầu t đợc coi là một trong những khâu quan trọng để "tiếp thị". Tuy nhiên, tha Bộ trởng, thực tế cho thấy, Danh mục gọi vốn ĐTNN mà Bộ KH-ĐT đ a ra cha đợc các nhà ĐTNN hởng ứng? Đúng là có tình trạng nh thế. Cho nên rất cần phải đa ra đợc Danh mục kêu gọi vốn đầu t sao cho hợp lý, đúng yêu cầu. Có rất nhiều dự án đ a ra không đợc nhà đầu t chú ý, trong đó có nguyên nhân là Bộ KHĐT chỉ xây dựng đợc Danh mục kêu gọi vốn đầu t ở cấp vĩ mô còn những lĩnh vực mà dự án đầu t chỉ cần khoảng mấy trăm ngàn USD, 2 - 3 triệu USD thì Bộ KH-ĐT cũng không thể làm đợc vì đó là dự án thuộc các địa ph- ơng, các ngành. Tha Bộ trởng, dờng nh chúng ta cha thu hút đợc các công nghệ nguồn, trình độ của các trang thiết bị, máy móc đa vào Việt Nam chỉ ở mức trung bình? Theo tôi không hẳn là nh vậy mà nên nhìn nhận ở mức độ thực hiện. Chẳng hạn, nếu nói đến việc thu hút các công nghệ cao, công nghệ tiên tiến thì nhiều dự án chúng ta đã có công nghệ mới, công nghệ hiện đại của các nớc châu Âu. Còn nếu nói đến công nghệ nguồn, không phải là chúng ta không thu hút đợc, ví dụ, dự án của Fujitsu, Nhật Bản. Vừa qua, Tập đoàn Intel, một tập đoàn lớn về công nghệ thông tin cũng đã đến Việt Nam, bày tỏ sự quan tâm đến thị trờng này. Trong việc thu hút nguồn vốn ĐTNN, lãnh đạo chính quyền một số đô thị lớn có ý kiến rằng, hiện nay họ cha đợc phân cấp đầy đủ trong việc tiếp nhận và cấp phép các dự án ĐTNN trên địa bàn. ý kiến của Bộ trởng về vấn đề này thế nào? Không phải là nh vậy. Thực tế là Bộ đã có sự phân cấp rất rõ ràng. Chẳng hạn, UBND Tp.HCM chịu trách nhiệm cấp phép các dự án có quy mô vốn đến 10 triệu USD. Thực chất, sự phân cấp hiện nay, theo tôi là hợp lý, bởi lẽ, trong thực tế, số dự án có quy mô trên 10 triệu USD không nhiều, phần lớn các dự án đầu t ở Việt Nam bây giờ là d- ới 10 triệu USD. Việc phân cấp theo tôi tại thời điểm này không có liên quan gì đến việc thu hút nhiều hay ít vốn ĐTNN trên một địa bàn, mà theo tôi, chủ yếu việc cần làm bây giờ là gấp rút cải thiện môi trờng đầu t trong đó hàng đầu là cải cách thủ tục hành chính của chính quyền địa phơng. Đặc biệt là khi thẩm quyền cấp phép đã đợc phân cấp mạnh cho các địa phơng, nếu các địa phơng không chú ý đến việc cải cách thủ tục hành chính, giảm chi phí cho các nhà đầu t thì sẽ gây ra tình trạng phiền hà trong lĩnh vực hành chính. Thực tế thời gian qua đã chứng minh là một số địa ph ơng đã cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trờng đầu t thông thoáng thì thu hút đầu t rất nhiều, ví dụ nh Bình Dơng, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu; các tỉnh phía Bắc thì có Vĩnh Phúc, Phúc Yên... Nh vậy, trên cùng một mặt bằng pháp lý song có địa phơng thu hút đợc nhiều vốn ĐTNN, có địa phơng thu hút đợc ít chứng tỏ rằng thủ tục hành chính của địa phơng đó cha tốt. Tôi xin nêu ví dụ, ở một tỉnh, (không tiện nêu tên) các nhà đầu t phàn nàn rằng khi họ muốn có một dự án, phải chạy qua 4 sở, Sở KH-ĐT, Sở địa chính, Sở KHCNMT, Sở tài chính, có nơi 5 sở mới làm đợc. Song có nơi chỉ cần qua một sở nh ở Bình Dơng, nhà đầu t chỉ cần qua Sở KH-ĐT, ông giám đốc Sở KH- ĐT quyết định hết các vấn đề. Quý Hào thực hiện Phân cấp đấu thầu trong XDCB Rút ngắn quy trình "33 bớc" Công tác quản lý nhà nớc đối với đấu thầu trong đầu t xây dựng ngày càng hoàn thiện, phù hợp dần với thông lệ quốc tế, góp phần chống tham nhũng, thất thoát trong đầu t xây dựng cơ bản. Tuy nhiên, do những quy định cha hợp lý về trình tự, thủ tục, nhất là trong phân cấp xử lý các công việc của quá trình đấu thầu, nên công tác đấu thầu còn gặp nhiều vấn đề khó khăn, gây chậm tiến độ triển khai dự án, lỡ cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp... Theo ông Phạm Hữu Minh - Vụ trởng Vụ kế hoạch - thống kê (Bộ xây dựng), quy trình đấu thầu mặc dù đã đợc quy định trong Nghị định 88/CP và 14/CP, nhng khi triển khai dự án đầu t xây dựng, thờng phải thực hiện đấu thầu t vấn, đấu thầu mua sắm thiết bị, công nghệ và dịch vụ kỹ thuật, đấu thầu xây lắp bằng nhiều gói thầu. Vì vậy việc giải quyết các thủ tục về đấu thầu chiếm khá nhiều thời gian. Ông Minh đơn cử một ví dụ rất điển hình đối với gói thầu của dự án nhóm A do doanh nghiệp trực thuộc Tcty Nhà nớc làm chủ đầu t. Việc đấu thầu phải tuân theo trình tự quy định tại Nghị định 88/CP và 14/CP gồm tới 33 bớc (đến khi chủ đầu t ký đợc hợp đồng), trong đó 14 bớc có sự tham gia trực tiếp của cơ quan quản lý Nhà n ớc, kể từ khi chủ đầu t xây dựng kế hoạch đấu thầu; cấp trên chủ đầu t (HĐQT Tcty) xem xét có văn bản... cho đến bớc cuối cùng là bộ chủ quản/HĐQT Tcty 91 phê duyệt nội dung hợp đồng và cho phép ký hợp đồng. Điều đáng bàn nhất ở đây là sự can thiệp của cơ quan Nhà nớc trong quy trình này đến đâu? Ông Minh đa ra ý kiến, nên chăng cơ quan Nhà nớc chỉ quyết định một số nội dung của quá trình đấu thầu đối với các dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nớc nh: thẩm định hoặc phê duyệt hồ sơ mời thầu, tiêu chuẩn đánh giá chi tiết hồ sơ dự thầu, kết quả xếp hạng các nhà thầu và nội dung hợp đồng. Đối với dự án mục đích kinh doanh của DNNN thì doanh nghiệp đợc quyền quyết định và chịu trách nhiệm trớc pháp luật về tất cả các nội dung của quá trình đấu thầu. Cơ quan Nhà n ớc không cần phải thẩm định, phê duyệt hồ sơ mời thầu, danh sách ngắn các nhà thầu, tiêu chuẩn chi tiết đánh giá hồ sơ dự thầu, danh sách tổ chuyên gia, kết quả đấu thầu. Nên giao cho bộ quản lý ngành có ý kiến góp ý với chủ đầu t về hồ sơ dự thầu và tiêu chuẩn chi tiết đánh giá hồ sơ dự thầu mà thôi. Theo ông Minh, có thật sự cần thiết phải lập kế hoạch đấu thầu và trình duyệt qua nhiều cấp nh hiện nay? Việc quản lý toàn bộ các công việc trong quá trình thực hiện dự án đầu t xây dựng dựa trên kế hoạch tổng hợp, thờng gọi là tổng tiến độ. Trong bảng tổng tiến độ dự án dự kiến danh mục toàn bộ các công việc phải tiến hành với mốc thời gian xác định. Đây là trách nhiệm của chủ đầu t. Việc sơ tuyển nhà thầu đợc quy định trong Thông t 04/BKH cho các gói thầu có giá trị từ 300 tỷ đồng trở lên đối với mua sắm hàng hoá và 200 tỷ đồng trở lên đối với xây lắp. Thực chất mục tiêu của sơ tuyển nhà thầu là để lợc bớt những nhà thầu không thích hợp. Đối với lĩnh vực đầu t mới, mà bên mời thầu cha đủ thông tin, hoặc gói thầu có quá nhiều nhà thầu tham dự mà bên mời thầu muốn sơ tuyển, thì dù gói thầu dới 200 tỷ đồng vẫn cần sơ tuyển. Đối với những lĩnh vực mà bên mời thầu đã có nhiều thông tin về các nhà thầu thì có thể có gói thầu lớn cũng không cần qua b ớc sơ tuyển. Ví dụ đối với gói thầu cung cấp thiết bị, công nghệ, dịch vụ kỹ thuật cho các nhà máy xi măng, thì dù gói thầu hàng trăm triệu USD không nhất thiết phải sơ tuyển, vì hiện nay qua nhiều cuộc đấu thầu ta đã biết khá rõ năng lực của các nhà cung cấp thiết bị công nghệ xi măng trên thế giới. Nh vậy sẽ rút ngắn đợc thời gian đấu thầu. Nên chăng ngời có thẩm quyền không nên quyết định nhà thầu trúng thầu trớc khi th- ơng thảo hợp đồng. Quy định việc ngời có thẩm quyền quyết định nhà thầu trúng thầu rồi chủ đầu t mới đợc đàm phán hợp đồng, làm cho nhà thầu thờng có điều kiện để ép chủ đầu t trong đàm phán. Thông thờng, hợp đồng xây dựng rất phức tạp chỉ qua đàm phán mới rõ đợc nhiều vấn đề. Ngời có thẩm quyền chỉ nên xem xét việc xếp hạng nhà thầu trong quá trình xét thầu có chuẩn xác, có khách quan, công bằng không. Nếu ngời có thẩm quyền chấp thuận xếp hạng nhà thầu thì chủ đầu t đợc đàm phán với nhà thầu xếp thứ nhất, nếu không đáp ứng, chủ đầu t đợc "tự động" chuyển sang đàm phán với nhà thầu xếp thứ hai... Khi nào đàm phán đáp ứng đợc yêu cầu mới báo cáo ngời có thẩm quyền quyết định cho phép ký hợp đồng. Lúc đó nhà thầu đợc chọn để ký hợp đồng mới là nhà thầu trúng thầu. Trong quy chế đấu thầu còn một số vấn đề nữa cần đ ợc nghiên cứu, xem xét, sửa đổi ví dụ nh: quy định về đấu thầu lựa chọn chủ đầu t, đánh giá xếp hạng các nhà thầu, vấn đề lựa chọn giá trúng thầu hợp lý hay giá thấp nhất, thẩm quyền xử lý và xử lý thế nào khi giá đề nghị trúng thầu vợt giá gói thầu trong kế hoạch đấu thầu. Những vấn đề này trong thực tiễn triển khai dự án, nhiều chủ đầu t rất lúng túng. Nguyên nhân là do quy định cha sát thực tiễn, mặt khác là do nhiều chủ đầu t cha am hiểu tờng tận, cha có kinh nghiệm xử lý tình huống trong đấu thầu. Do phạm vi hạn hẹp của bài viết, những ý kiến trên đây, mong bạn đọc cùng tham khảo, trao đổi và góp ý với các nhà quản lý khi xem xét sửa đổi quy chế đấu thầu hiện nay. Lê Mây
DMCA.com Protection Status Copyright by webtailieu.net