Đề án kinh tế chính trị: Một số biện pháp nhằm tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hóa trong một bộ phận doanh nghiệp nhà nước ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
Dưới góc độ chủ sở hữu, doanh nghiệp được gọi là Doanh nghiệp nhà nước khi Nhà nước là chủ sở hữu. Theo mô hình chủ nghĩa xã hội truyền thống, sở hữu Nhà nước (sở hữu toàn dân) được thiết lập ngoài ý nghĩa chính trị là xoá bỏ bóc lột, về mặt kinh tế nó được dựa trên dự báo có hiệu quả cao hơn so với sở hữu tư nhân. Trên nền tảng sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất, Nhà nước tổ chức nền kinh tế có kế hoạch, hiệu quả hơn nền kinh...
------
Đề án kinh tế chính trị
Một số biện pháp nhằm tiếp
tục đẩy mạnh cổ phần hóa
trong một bộ phận doanh
nghiệp nhà nước ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
LỜI MỞ ĐẦU
Sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả Doanh nghiệp nhà nước là
một trong những yêu cầu bức thiết của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Thực tiễn
hoạt động của Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hàng chục năm qua cho thấy
mặc dù Doanh nghiệp nhà nước được giao phó vai trò chủ đạo song hoạt động của
chúng có nhiều điểm bất cập. Doanh nghiệp nhà nước chiếm phần vốn đầu tư chủ
yếu từ ngân sách. Đội ngũ cán bộ có đào tạo, cán bộ quản lý có năng lực cũng tập
trung chủ yếu trong các Doanh nghiệp nhà nước. Các Doanh nghiệp nhà nước
chiếm lĩnh những lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế như dầu khí, vận tải, bưu
chính, điện, khai khoáng và nhiều ngành, lĩnh vực khác như bảo hiểm, ngân hàng…
Tuy nhiên, với nhiều thế mạnh như vậy song Doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa thực
sự phát huy tốt vai trò của nòng cốt của chúng trong việc làm cho kinh tế Nhà nước
thực sự đóng vai trò chủ đạo. Đa số các Doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ, gây
thất thoát tài sản của Nhà nước một cách nghiêm trọng. Những vụ tham nhũng điển
hình đều trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến Doanh nghiệp nhà nước. Chính vì
vậy, từ trước đến nay, vấn đề sắp xếp, đổi mới Doanh nghiệp nhà nước để loại hình
doanh nghiệp này trở thành động lực chủ yếu của nền kinh tế luôn luôn được Đảng
và Nhà nước ta chú trọng. Sắp xếp, đổi mới Doanh nghiệp nhà nước càng trở nên
cấp bách khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và chủ động hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Một trong những
giải pháp đổi mới Doanh nghiệp nhà nước được thực hiện có hiệu quả và mang lại
nhiều thay đổi triệt để trong cấu trúc tổ chức và hoạt động của Doanh nghiệp nhà
nước là cổ phần hoá. Cổ phần hoá được bắt đầu triển khai cách đây 15 năm với
những bước đi thử nghiệm và sau đó là sự triển khai rộng khắp trên cả nước. Tuy
nhiên, do nhiều lý do khác nhau, cổ phần hoá vẫn chưa mang lại những kết quả
mong muốn.
Mặc dù hoạt động của các Doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá đã chứng
tỏ tác dụng to lớn của nó song thực tế số Doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá
ít hơn nhiều so với yêu cầu đặt ra. Chính vì vậy, việc nghiên cứu cổ phần hoá
Doanh nghiệp nhà nước, tìm được những hạn chế của nó, để đưa ra các giải pháp
SV: Hoμng ThÞ Trang
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
nhằm đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước là việc làm cần
thiết. Đó cũng chính là lý do mà em chọn đề tài “Một số biện pháp nhằm tiếp tục
đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá trong một bộ phận Doanh nghiệp nhà nước ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài nghiên cứu môn học Kinh tế chính trị
với mong muốn sẽ hiểu hơn về tiến trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở
nước ta. Từ đó thấy được trách nhiệm và nghĩa vụ của bản thân cần phải làm gì để
góp phần thúc đẩy quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam.
Là một sinh viên còn ngồi trên ghế nhà trường, với vốn kiến thức còn hạn chế,
chắc chắn bài viết của em còn nhiều sai sót. Vì thế em rất mong được sự chỉ bảo,
hướng dẫn tận tình của thầy giáo Nguyễn An Ninh để đề án của em được hoàn thiện
hơn. Em xin chân thành cảm ơn thầy.
NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC CỔ PHÂN HOÁ MỘT BỘ PHẬN DOANH NGHIỆP NHÀ
NƯỚC Ở NƯỚC TA.
1. Tính tất yếu phải cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước ở nước
ta.
1.1. Doanh nghiệp nhà nước và yêu cầu đổi mới Doanh nghiệp nhà nước.
SV: Hoμng ThÞ Trang
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
Dưới góc độ chủ sở hữu, doanh nghiệp được gọi là Doanh nghiệp nhà nước
khi Nhà nước là chủ sở hữu. Theo mô hình chủ nghĩa xã hội truyền thống, sở hữu
Nhà nước (sở hữu toàn dân) được thiết lập ngoài ý nghĩa chính trị là xoá bỏ bóc lột,
về mặt kinh tế nó được dựa trên dự báo có hiệu quả cao hơn so với sở hữu tư nhân.
Trên nền tảng sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất, Nhà nước tổ chức nền kinh tế có
kế hoạch, hiệu quả hơn nền kinh tế thị trường hỗn loạn, mất cân đối.
Nhưng trên thực tế, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã vận hành không tốt
như mong đợi. Cơ chế kinh tế này có nhiều khuyết tật và điều nan giải nhất là các
Doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả.
Ở Việt Nam, việc xoá bỏ quá vội vàng sở hữu tư nhân, thiết lập sở hữu Nhà
nước và tập thể dựa trên các biện pháp hành chính, đã đẩy nền kinh tế rơi vào tình
trạng khủng hoảng trầm trọng kéo dài. Từ khi chuyển sang kinh tế thị trường, trong
điều kiện nền kinh tế tăng trưởng nhanh, bất chấp mọi nỗ lực đổi mới, hoạt động
của các Doanh nghiệp nhà nước có khá hơn nhưng hiệu quả vẫn rất thấp. Bên cạnh
đó việc sử dụng các nguồn lực kém hiệu quả, khả năng cạnh tranh thấp đòi hỏi các
Doanh nghiệp nhà nước phải có những đổi mới một cách căn bản. Nếu không chúng
sẽ thất bại trong cạnh tranh, trong điều kiện hội nhập hiện nay.
1.2. Yêu cầu đổi mới Doanh nghiệp nhà nước.
- Phát triển kinh tế và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực khan hiếm. Doanh
nghiệp nhà nước nắm trong tay phần lớn những nguồn lực của nền kinh tế như tài
nguyên thiên nhiên, vốn và nhân lực. Tuy nhiên hầu hết các doanh nghiệp lại sử
dụng lãng phí không hiệu quả các nguồn lực khan hiếm. Điều này chỉ ra trước
tương lai không sảng sủa của nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế
trong những năm qua không có nghĩa là mọi việc của chúng ta đang tiến triển tốt
đẹp. Các tổ chức kinh tế thế giới đã cảnh báo không ít lần là tốc độ tăng trưởng cao
của chúng ta có một nguyên nhân quan trọng là nền kinh tế có điểm xuất phát thấp.
- Phát triển kinh tế đòi hỏi xoá bỏ bao cấp đổi với Doanh nghiệp nhà nước.
Hiện nay mối quan hệ giữa Nhà nước và các Doanh nghiệp nhà nước hoàn toàn
không rõ ràng. Nhà nước không nắm rõ ở mỗi thời điểm tổng số doanh nghiệp của
mình là bao nhiêu, chứ chưa nói đến các chỉ tiêu phức tạp như vốn nằm ở đâu, tăng
giảm như thế nào, hiệu quả sử dụng ra sao? Để duy trì doanh nghiệp kém hiệu quả,
SV: Hoμng ThÞ Trang
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
Nhà nước đã sử dụng hàng loạt các biện pháp bao cấp trực tiếp và gián tiếp như :
xoá nợ, khoanh nợ, tăng vốn, ưu đãi tín dụng, tính chi phí không đầy đủ… và cuối
cùng, không ai biết Doanh nghiệp nhà nước nuôi xã hội hay xã hội phải nuôi Doanh
nghiệp nhà nước. Không nên quên rằng Doanh nghiệp nhà nước là phương tiện chứ
không phải mục đích. Không thể lấy tiền của dân chúng để nuôi một vài doanh
nghiệp thua lỗ triền miên, nhưng đã được các cơ quan chủ quản hà hơi tiếp sức hết
đợt này đến đợt khác, với lý do cố vực dậy, lý do bảo vệ người lao động. Nhưng
tiền bao cấp cho doanh nghiệp chính là thuế mà dân chúng đóng góp, trong đó có
không ít người còn sống trong cảnh đói nghèo. Nhà nước phải là của toàn dân chứ
không phải của riêng các Doanh nghiệp nhà nước, và Nhà nước cần hành động vì
lợi ích của toàn dân chứ không phải chỉ riêng lợi ích của những người trong Doanh
nghiệp nhà nước.
- Cạnh tranh với khu vực tư nhân. Yêu cầu đổi mới còn xuất phát từ việc
cạnh tranh với khu vực tư nhân đang hồi sinh nhanh chóng. Mặt khác, trong quá
trình hội nhập, Doanh nghiệp nhà nước không phải chỉ cạnh tranh với các doanh
nghiệp tư nhân trong nước mà với cả các doanh nghiệp tư nhân rất mạnh của nước
ngoài. Cạnh tranh trong nước và quốc tế không chấp nhận việc Nhà nước giữ độc
quyền cho các doanh nghiệp của mình. Cạnh tranh bình đẳng đòi hỏi không chỉ xoá
bỏ độc quyền mà cả bao cấp.
Tóm lại, áp lực phát triển kinh tế thị trường đặt dấu chấm hỏi lớn đối với các
tương lai của các Doanh nghiệp nhà nước nếu chúng không đổi mới.
1.3. Cổ phần hoá - giải pháp cải cách Doanh nghiệp nhà nước tối ưu
1.3.1. Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước là gì?
1.3.1.1. Khái niệm về Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước.
Phải nói rằng nhân dân ta không còn xa lạ gì với khái niệm cổ phần. Cụm từ
“cổ phần” đã rất quen thuộc từ trên 40 năm nay, kể từ khi Đảng ta vận động nhân
dân lập hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng, lập cửa hàng, xí nghiệp, công ty
hợp danh.
Vậy Cổ phần hoá là gì? “Cổ phần hoá là quá trình chuyển Doanh nghiệp
nhà nước từ chỗ chỉ có một chủ sở hữu là Nhà nước thành lập doanh nghiệp có
nhiều chủ sở hữu”.
SV: Hoμng ThÞ Trang
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
Người chủ sở hữu của doanh nghiệp là các cổ đông tự do bầu chọn ra Hội
đồng quản trị là người đại diện chính thức cho mình.
1.3.1.2. Bản chất và các hình thức Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở
nước ta.
Xét ở bản chất pháp lý, cổ phần hoá là biến doanh nghiệp một chủ thành
doanh nghiệp nhiều chủ tức là chuyển từ hình thức sở hữu đơn nhất sang sở hữu
chung thông qua việc chuyển một phần tài sản của doanh nghiệp cho những người
khác. Những người này trở thành sở hữu doanh nghiệp theo tỷ lệ tài sản mà họ sở
hữu trong doanh nghiệp cổ phần hoá. Xét dưới góc độ này thì cổ phần hoá dẫn tới
sự xuất hiện không chỉ của công ty cổ phần trên nền tảng của doanh nghiệp được cổ
phần hoá. Bản chất của cổ phần hoá như đã nêu ở trên không phải cũng được hiểu
đúng trong thực tiễn xây dựng và thực hiện pháp luật về cổ phần hoá. Có quan điểm
đồng nhất cổ phần hoá với tư nhân hoá hay có quan điểm cho rằng cổ phần hoá chỉ
liên quân đến Doanh nghiệp nhà nước.
Nhìn bề ngoài, cổ phần hoá là quá trình xác định lại mục tiêu phương hướng
kinh doanh, nhu cầu vốn điều lệ và chia ra thành cổ phần. Đánh giá lại tài sản của
doanh nghiệp, quyết định mức vốn Nhà nước giữ cần nắm giữ và rao bán rộng rãi
phần còn lại. Qua đó làm thay đổi cơ cấu sở hữu, huy động tiền vốn, xác lập cụ thể
những người tham gia làm chủ, được chia lợi nhuận và chuyển Doanh nghiệp nhà
nước thành Công ty cổ phần, thuộc sở hữu của tập thể cổ đông và chuyển sang hoạt
động theo Luật của doanh nghiệp.
Song để hiểu rõ thực chất của cổ phần hoá, cần thấy rằng trong công ty cổ
phần, trên cơ sở vốn điều lệ được chia ra thành nhiều phần, thì quyền lợi và trách
nhiệm đối với kết quả sản xuất kinh doanh cũng được phân ra thành những đơn vị
có cơ cấu sở hữu. Sở dĩ cổ phần hoá có thể nâng cao hiệu quả hoạt động của các
Doanh nghiệp nhà nước là do qua cổ phần hoá, cơ cấu sở hữu của doanh nghiệp đã
thay đổi, dẫn tới cơ cấu và cơ chế thực hiện quyền lợi và trách nhiệm đối với kết
quả sản xuất kinh doanh cũng thay đổi theo, từ đó tạo ra một cơ cấu động lực có chủ
thể rõ ràng và hợp lực mới mạnh mẽ hơn; đồng thời chuyển doanh nghiệp sang vận
hành theo cơ chế quản lý mới, tự chủ, năng động hơn, nhưng có sự giám sát rộng rãi
và chặt chẽ hơn.
SV: Hoμng ThÞ Trang
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
Cho nên, thực chất cổ phần hoá nói chung là giải pháp tài chính và tổ chức,
dực trên chế độ cổ phần nhằm đổi mới cơ chế và cơ cấu phân chia quyền lợi và
trách nhiệm gắn chặt với kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Cổ phần
hoá theo phương thức hiện hành là giải pháp nhằm làm thay đổi cơ cấu sở hữu, dẫn
tới thay đổi cơ cấu và cơ chế thực hiện quyền lợi và trách nhiệm từ chỗ chỉ có Nhà
nước nắm quyền và chịu trách nhiệm chuyển sang chia sẻ kết quả kinh doanh, cả
quyền lợi và trách nhiệm, lợi nhuận và rủi ro cho những người tham gia góp vốn, do
đó tạo ra động lực, trách nhiệm và hiệu quả doanh nghiệp.
Trên cơ sở mục đích của cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước là nhằm chuyển
doanh nghiệp từ một chủ sở hữu sang doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu, cổ phần hoá
ở nước ta bao gồm nhiều hình thức khác nhau:
- Giữ nguyến giá trị doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu để thu hút thêm vốn.
- Bán một phần giá trị doanh nghiệp cho các cổ đông.
- Cổ phần hoá đơn vị phụ thuộc của công ty.
- Chuyển toàn bộ doanh nghiệp thành công ty cổ phần.
Như vậy, thực chất cổ phần hoá là làm giảm bớt vai trò trực tiếp làm chủ sở
hữu các doanh nghiệp, giảm bớt đầu tư của Nhà nước, tăng thêm nguồn vốn từ dân
cư, các tổ chức kinh tế - xã hội trong và ngoài nước để tạo thêm sức mạnh kinh tế
cho doanh nghiệp.
1.3.2. Cổ phần hoá là giải pháp cải cách doanh nghiệp tối ưu ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay.
Từ yêu cầu đòi hỏi phải đổi mới các Doanh nghiệp nhà nước, vấn đề cải cách
Doanh nghiệp nhà nước từ lâu là mối quan tâm của Đảng và Nhà nước ta. Đã có
nhiều giải pháp cải cách được thực hiện. Trong thời gian từ 1960 đến 1990, tức là
trước thời điểm thực hiện cổ phần hoá, Đảng và Nhà nước ta đã triển khai nhiều
biện pháp nhằm cải tiến quản lý xí nghiệp quốc doanh (Doanh nghiệp nhà nước
theo tên gọi lúc đó). Tuy nhiên thực tế cho thấy các giải pháp cải cách Doanh
nghiệp nhà nước được thực hiện trước năm 1990 ít mang lại hiệu quả. Vai trò, hiệu
quả của Doanh nghiệp nhà nước hầu như không được cải thiện. Tình trạng kém hiệu
quả, thua lỗ, tình trạng lãng phí tài sản vẫn là căn bệnh cố hữu của Doanh nghiệp
nhà nước ở nước ta. Nhiều Doanh nghiệp nhà nước đã trở thành bình phong cho
SV: Hoμng ThÞ Trang
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
những hoạt động kinh tế phi pháp, trốn thuế, lậu thuế, buôn lậu. Có khá nhiều ý kiến
khác nhau về những kết quả hạn chế của các biện pháp cải cách Doanh nghiệp nhà
nước đã thực hiện trước đây. Tuy nhiên có thể nhận thấy dễ dàng được thừa nhận
khá rộng rãi là Doanh nghiệp nhà nước thực tế không có chủ nhân thực sự. Nhà
nước cũng là thực thể trừu tượng. Các cán bộ, công nhân trong Doanh nghiệp nhà
nước ít quan tâm đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp nhà nước nơi
mình đang làm việc. Lý do đơn giản là họ vẫn có lương ngay cả khi Doanh nghiệp
nhà nước đã bên bờ phá sản. Rõ ràng, vấn đề lợi ích, đặc biệt là lợic ích sở hữu
trong Doanh nghiệp nhà nước chính là cội nguồn của những căn bệnh mà chúng gặp
phải.
Cải cách Doanh nghiệp nhà nước có thể tiến hành bằng nhiều cách khác nhau
như: bán Doanh nghiệp nhà nước, cho thuê Doanh nghiệp nhà nước, cải cách cơ chế
quản lý Doanh nghiệp nhà nước… Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước chỉ là một
trong những giải pháp sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả Doanh nghiệp nhà nước.
Tuy nhiên thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong thập kỷ vừa qua cho
thấy cổ phần hoá là giải pháp phù hợp với nền kinh tế nước ta trong giai đoạn phát
triển hiện nay.
Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam bắt đầu được thực hiện thí
điểm thí điểm từ năm 1990. Cơ sở pháp lý cho việc thực hiện chương trình này là
Quyết định số 143/HĐBT ngày 10-5-1990 của Hội đồng bộ trưởng và sau đó được
thực hiện với quy mô rộng hơn. Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường được Đại
hội Đảng lần thứ VI (1986) khởi xướng đã tạo ra những điều kiện để cải cách triệt
để hơn đối với Doanh nghiệp nhà nước, thông qua việc cổ phần hoá chúng. Sở dĩ cổ
phần hoá được coi là giải pháp triệt để vì nó giải quyết được căn nguyên của những
yếu kém trong tổ chức quản lý và hoạt động của Doanh nghiệp nhà nước – đó là vấn
đề sở hữu. Những giải pháp cải cách Doanh nghiệp nhà nước khác chỉ động chạm
đến cơ chế quản lý theo hướng tăng cường quyền tự chủ của của Doanh nghiệp nhà
nước trong một hoặc một số lĩnh vực cụ thể. Cổ phần hoá doanh nghiệp chấp nhận
sự dung hoà của nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong bản thân các thực thể
kinh tế vĩ mô mà trước hết là trong các doanh nghiệp. Cổ phần hoá Doanh nghiệp
SV: Hoμng ThÞ Trang
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
nhà nước là giải pháp làm thay đổi kết cấu sở hữu của chúng, điều mà trước đổi mới
ít ai dám nghĩ đến chứ chưa nói là triển khai nó.
2. Đối tượng của cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta.
Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước là biện pháp cải cách Doanh nghiệp nhà
nước tối ưu của nước ta. Tuy nhiên, không phải tất cả các doanh nghiệp đều có thể
đổi mới bằng phương thức này. Có những doanh nghiệp mà Nhà nước cần duy trì
100% vốn Nhà nước. Đó là khu vực kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế trên các lĩnh vực sau:
- Các doanh nghiệp hoạt động nhằm phục vụ cho công tác an ninh và quốc
phòng : sản xuất vũ khí, đạn dược, sản xuất thuốc nổ, sản xuất phương tiện phát
sóng, truyền tin…
- Các doanh nghiệp đóng vai trò then chốt của nền kinh tế quốc dân, bao
gồm các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực : năng lượng, dầu khí, khai thác
vàng và đá quý, xây dựng sân bay, bến cảng, đường sắt…
- Các doanh nghiệp thuộc hạ tầng cơ sở như : giao thông, bưu chính, viễn
thông, điện, thuỷ nông…
- Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thường bị thua lỗ, lãi ít hoặc
gặp rất nhiều khó khăn.
Theo nguyên tác hạch toán thương mại thì các thành phần kinh tế tập thể, tư
nhân không đầu tư vào các lĩnh vực như : vận tải đường sắt, vận tải hàng hoá lên
miền núi, ra biên giới, hải đảo, đến vùng kinh tế mới, sản xuất phương tiện cho
người tàn tật, đồ chơi cho trẻ em…
Để khắc phục nhược điểm đó của cơ chế thị trường, Nhà nước phải tổ chức
các Doanh nghiệp nhà nước để duy trì và phát triển các hoạt động này. Có thể làm
việc đó nhờ vào việc tài trợ của Ngân sách Nhà nước cho các doanh nghiệp thua lỗ.
Trong trường hợp này, sự tài trợ cho doanh nghiệp là cần thiết, nên không thể coi
đó là bao cấp.
Tóm lại, trong nền kinh tế thị trường, không chỉ ở Việt Nam mà dù ở bất kỳ
nước nào, sự tồn tại của Doanh nghiệp nhà nước là một tất yếu khách quan.
Như vậy, không phải tất cả các Doanh nghiệp nhà nước cần phải đổi mới bằng
giải pháp cổ phần hoá, mà chỉ có một bộ phận doanh nghiệp. Bộ phận doanh nghiệp
SV: Hoμng ThÞ Trang
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
ấy là gì? Căn cứ vào tình hình thực tế ở Việt Nam, Doanh nghiệp nhà nước được
chọn lựa cổ phần hoá phải có đủ ba điều kiện sau đây:
- Là những doanh nghiệp vừa và nhỏ
- Không thuộc diện những doanh nghiệp cần thiết giữ 100% vốn đầu tư
Nhà nước.
- Có phương án kinh doanh hiệu quả.
Ngoài ra, đối với các doanh nghiệp lớn (Tổng công ty Nhà nước) cũng có thể
thực hiện cổ phần hoá theo phương thức phát hành cổ phiếu theo quy định nhằm thu
hút thêm vốn để phát triển sản xuất trong khi vẫn giữ nguyên giá trị tài sản hiện có
của doanh nghiệp. Theo tinh thần nghị quyết 28/CP các doanh nghiệp vừa và nhỏ là
những doanh nghiệp có tổng số vốn từ 300 tỷ đồng trở xuống và có số lao động
dưới 1000 người, không kể số lao động làm hợp đồng theo thời vụ. Các doanh
nghiệp vừa và nhỏ không chỉ dễ xác định giá trị tài sản hơn các doanh nghiệp có
quy mô lớn mà còn phù hợp với sức mua của cán bộ công nhân viên tại nhiệm sở và
trong ngành.
3. Mục tiêu cổ phần hoá một bộ phận Doanh nghiệp nhà nước
Đại hội Đảng lần thứ VIII (1986) đã khẳng định “Triển khai tích cực và vững
chắc việc cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước để huy động vốn, tạo thêm động lực
thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả làm cho tài sản Nhà nước ngày càng tăng
lên chứ không phải tư nhân hoá”
Nghị định 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998 của Chính Phủ về việc chuyển
một số Doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần đã nêu rõ: chuyển Doanh
nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần nhằm các mục tiêu:
- Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội trong nước và nước ngoài để đầu tư đổi mới công nghệ tạo thêm việc
làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu Doanh
nghiệp nhà nước.
- Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và
những người đã góp vốn được làm chủ thực sự; thay đổi phương thức quản lý tạo
động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng cường phát triển đất
SV: Hoμng ThÞ Trang
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
nước, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế của đất
nước.
Qua những văn bản cơ bản đó có thể khẳng định các mục tiêu của cổ phần hoá
đã được xác định một cách rõ ràng và nhất quán. Song phải chăng huy động vốn để
phát triển doanh nghiệp là mục tiêu hàng đầu, nâng cao vai trò làm chủ thực sự, tạo
động lực thúc đẩy kinh doanh có hiệu quả là mục tiêu hàng thứ, hay hai mục tiêu ở
vị trí ngang nhau.
Huy động vốn và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn là một trong những điều
kiện quan trọng hàng đầu để thúc đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại
hoá đất nước, đó cũng là điều kiện tối quan trọng để nâng cao khả năng cạnh tranh,
mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Hiện nay vốn kinh doanh là
một trong những vấn đề nan giải của các doanh nghiệp. Để huy động vốn, doanh
nghiệp phải đảm bảo nhiều điều kiện, trong đó khả năng kinh doanh có hiệu quả
được coi là diều kiện tiên quyết. Đặt việc huy động vốn cho phát triển doanh nghiệp
như một mục tiêu hàng đầu sẽ gây cảm nhận việc cổ phần hoá xuất phát từ yêu cầu
giải quyết khó khăn của Nhà nước trong việc đảm bảo vốn doanh nghiệp. Điều đó
đến lượt mình, có thể gây trở ngại cho việc thực hiện chính mục tiêu ấy, người lao
động không thấy được động lực kinh tế trực tiếp trong việc góp vốn của mình.
Trong cơ chế thị trường, để thúc đẩy nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp nằm ở sự gắn bó mật thiết giữa quyền sở hữu với quyền quản lý và sử
dụng tài sản của doanh nghiệp, xác định rõ người chủ đích thực của các tài sản đó.
Việc huy động thêm vốn từ cổ phần hoá là điều kiện xác lập người chủ một bộ phận
tài sản của doanh nghiệp, người chủ ấy cùng với người đại diện Nhà nước ở doanh
nghiệp quản lý điều hành hoạt động kinh doanh một cách có hiệu quả nhất. Hơn
nữa, việc huy động thêm vốn chỉ là phương tiện thiết yếu để đạt tới mục tiêu nâng
cao hiệu quả kinh tế mà thôi. Nếu không được quản lý sử dụng tốt số vốn được huy
động đó cũng không thể mang lại hiệu quả mong đợi.
Theo những lập luận trên, mục tiêu hàng đầu có là thúc đẩy nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh trên cơ sở đảm bảo vai trò làm chủ thực sự của những người sở
hữu tài sản. Huy động thêm vốn bằng cổ phần và phát hành cổ phần là điều kiện cần
SV: Hoμng ThÞ Trang
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
thiết để tạo thành những người chủ đích thực của doanh nghiệp phụ thuộc chủ yếu
vào sử dụng vốn hiện có và huy động vốn thêm.
Cổ phần hoá một bộ phận Doanh nghiệp nhà nước chỉ là một chủ trương lớn
của Đảng va Nhà nước. Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương
khoá VII đã nêu rõ: “Chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành
công ty cổ phần và thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới”.
Nghị quyết 10-NQ/TW ngày 17/3/1995 của Bộ chính trị đã nêu “thực hiện
từng bước vững chắc việc cổ phần hoá một bộ phần doanh nghiệp không cần Nhà
nước đầu tư 100% vốn. Tuỳ tính chất, loại hình doanh nghiệp mà tiến hành bán một
tỉ lệ cổ phần cho công nhân viên chức làm việc tại doanh nghiệp để tạo động lực
bên trong trực tiếp thúc đẩy phát triển và bán cổ phần cho tổ chức hay cá nhân ngoài
quốc doanh để thu hút vốn, mở rộng quy mô kinh doanh”. Như vậy, Nghị quyết của
Đảng chỉ ra mục tiêu, đồng thời cũng nêu khái quát hình thức, mức độ cổ phần hoá
Doanh nghiệp nhà nước.
4. Tiền đề để cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước.
- Điều kiện và môi trường pháp lý về cơ bản đã được xác lập đặt tất cả các
doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường. Việc thực hiện “thương mại hoá”
các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế là tiền đề
cơ bản và cần thiết để từng bước thực hiện cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà
nước.
- Chính Phủ đã nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề cổ phần hoá các
Doanh nghiệp nhà nước và quyết tâm thực hiện. Điều này thể hiện ở việc ban hành
các văn bản luật và dưới luật nhăm thực hiện chương trình cổ phần hoá Doanh
nghiệp nhà nước như luật công ty, quyết định 315 và 330 về sắp xếp lại sản xuất
trong khu vực kinh tế Nhà nước. Chỉ thị 84-TTg của Thủ tướng Chính phủ về thí
điểm cổ phần hoá một số Doanh nghiệp nhà nước… Ngoài ra còn có các quyết
định, thông tư của các Bộ và các liên Bộ để cụ thể hoá việc thực hiện vấn đề này.
Điều này góp phần xác định rõ quan điểm và phương hướng chỉ đạo thống nhất ở
mọi cấp, mọi ngành cho đến từng doanh nghiệp triển khai thực hiện.
- Tình hình kinh tế đất nước đã có nhiều biến đổi theo hướng tích cực: giá
cả thị trường đã được duy trì tương đối ổn định, mức lạm phát đã được kiềm chế,
SV: Hoμng ThÞ Trang
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
đồng tiền Việt Nam đã giữ được giá, lãi suất đã ở mức khuyến khích các hoạt động
đầu tư sản xuất kinh doanh… Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi về tâm lý cho mọi
người muốn đầu tư thông qua hình thức mua cổ phiếu trong các Doanh nghiệp nhà
nước được cổ phần hoá.
- Nhờ những đổi mới trong chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần
của Nhà nước mấy năm qua, thu nhập của dân cư được nâng cao. Số người khá giả
ở thành thị và nông thôn ngày càng nhiều. Đây là lượng cầu tiềm năng có thể đáp
ứng cho các chứng khoán phát hành ở những doanh nghiệp được cổ phần hoá.
- Hoạt động trong cơ chế thị trường mới được hai chục năm nhưng đã xuất
hiện đội ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh lớn; người lao
động trong các doanh nghiệp đã thích ứng được về ý thức, tác phong và hiệu quả
của công việc trong điều kiện cạnh tranh về năng suất, chất lượng và hiệu quả. Điều
này sẽ làm cho người đầu tư yên tâm bỏ vốn, góp phần thuận lợi cho việc thực hiện
cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước.
- Với luật đầu tư nước ngoài cà sự xuất hiện của nhiều nhánh ngân hàng
kinh doanh của nước ngoài tại Việt Nam góp phần tạo môi trường và điều kiện
thuận lợi để các nhà đầu tư bằng cổ phiếu vào các Doanh nghiệp nhà nước sẽ được
tiến hành cổ phần hoá.
- Ngoài ra với những kinh nghiệm thực tiễn phong phú của các nước trên
thế giới trong quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước sẽ là những bài học bổ
ích và quý giá để Nhà nước tiến hành hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện
công việc cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam.
- Ngoài ra, ngày nay chúng ta còn có những điều kiện thuận lợi để đẩy
mạnh cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước. Đó là những khó khăn gặp phải trong
thời gian đầu thực hiện thí điểm cổ phần hoá đã dần được khắc phục, có thể kể đến
như chúng ta đã có một thị trường chứng khoán thực sự, tuy chưa phát triển sôi
động như các nước phát triển và khu vực, nhưng đó cũng là môi trường để thực hiện
cổ phần hoá. Các Doanh nghiệp nhà nước hiện nay hầu hết đều trang bị máy móc,
công nghệ hiện đại, khả năng cạnh tranh cao… do đó có thể tiến hành cổ phần hoá
các doanh nghiệp này. Bên cạnh đó tình hình chính trị quốc gia ổn định tạo niềm tin
thu hút các nhà đầu tư nước ngoài…
SV: Hoμng ThÞ Trang
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
Với những tiền đề như thế thì quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước
của chúng ta đã diễn ra như thế nào? Chúng ta đã làm được những gì và còn hạn chế
gì? Để từ đó có biện pháp thích hợp thúc đẩy nhanh hơn nữa quá trình cổ phần hoá.
SV: Hoμng ThÞ Trang
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
II. THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM.
1. Quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta.
Từ đầu thập kỷ 90, cùng với đổi mới các chính sách kinh tế - xã hội, Đảng ta
đã có chủ trương chuyển một bộ phận Doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ
phần. Khởi đầu là Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai của Ban chấp hành TW khoá VII
tháng 11/1991. Nghị quyết này đã chỉ ra : “chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh
có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty cổ phần mới, phải
làm thí điểm, chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng phạm vi
thích hợp”. Trải qua 15 năm thực hiện đến hết năm 2005, chúng ta đã thành lập
được 2987 công ty cổ phần trên cơ sở cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước và bộ
phần Doanh nghiệp nhà nước. Kết quả thực hiện qua từng năm như sau:
Năm Số Doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá
1990-1992 Không
1993 02
1994 01
1995 03
1996 05
1997 07
1998 100
1999 250
2000 212
2001 204
2002 164
2003 532
2004 753
2005 754
Tổng 2987
Qua những con số trên thấy rõ tiến trình cổ phần hoá đã trải qua những bước
thăng trầm, nhưng nói chúng là theo xu hướng mỗi ngày càng được đẩy mạnh. Từ
chỗ thực hiện chậm chạp trong những năm đầu (mỗi năm vài ba doanh nghiệp đến
vài trăm) và cho đến ba năm gần đây tiến trình cổ phần hoá được đẩy mạnh hơn, do
đó số lượng doanh nghiệp được cổ phần hoá tương đối nhiều.
SV: Hoμng ThÞ Trang
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
Theo báo cáo của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, hình thức
cổ phần hoá phổ biến nhất là bán một phần vốn nhà nước có tại doanh nghiệp kết
hợp phát hành thêm cổ phiếu (chiếm 43,4%) tiếp đó là bán một phần vốn Nhà nước
hiện có tại doanh nghiệp (26%) còn lại là bán toàn bộ vốn Nhà nước tại doanh
nghiệp (15,5%) và giữ nguyên vốn Nhà nước và phát hành thêm cổ phiếu (15,1%).
Trong số các doanh nghiệp đã cổ phần hoá, ngành công nghiệp giao thông vận tải
và xây dựng chiếm tỷ trọng 65,5%, thương mại dịch vụ chiếm 28,7% và ngành
nông - lâm - ngư ngiệp chiếm 5,8%. Nếu phân chia theo địa phương thì tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương chiếm 65,7%, bộ ngành TW chiếm 25,8%, tổng công ty
91 chiếm 8,5%.
Năm 2005 đã xuất hiện một điểm sáng mới cần được nhấn mạnh là trong số
doanh nghiệp cổ phần hoá đã có nhiều doanh nghiệp làm ăn khá, quy mô lớn, hấp
dẫn các nhà đầu tư. Có thể kể đến các công ty như: Công ty khoan và dịch vụ dầu
khí, các nhà máy thuỷ điện sông Hinh (Vĩnh Sơn), Thác Bà, Phả Lại, Điện lực
Khánh Hoà, công ty giấy Phương Mai, công ty vận tải xăng dầu đường thuỷ I,
Vinamilk, công ty Kinh Đô. Giá trị của Vinamilk lên tới 2500 tỷ đồng. Nhà máy
thuỷ điện sông Hinh có giá trị 2114 tỷ đồng trong đó vốn Nhà nước là 1253 tỷ đồng.
Một điểm khác biệt nữa, đó là việc xác định giá trị cổ phần được thực hiện thông
qua đấu giá công khai trên thị trường. Ngay trong ngày đầu tiên bán đấu giá
Vinamilk, bán hết hơn 166 triiêụ cổ phiếu với giá trung bình cao gấp 4,89 lần mệnh
giá. tính minh bạch và công khai đấu giá cổ phiếu của công ty sữa Việt Nam đã thu
hút các nhà đầu tư chiến lược, trong đó có các nhà đầu tư nước ngoài. Đáng chú ý là
các nhà mới chiếm tỷ lệ thắng thầu tới 78,4% trên tổng số cổ phần bán ra, các quỹ
đầu tư nước ngoài hoạt động ở Việt Nam chỉ chiếm 21,6% và số vốn thu hút được
từ các tổ chức đầu tư mới lên tới 450 tỷ đồng. Sau ba năm chuẩn bị, Vinamilk đã
hoàn toàn chuyển đổi từ một Doanh nghiệp nhà nước lớn thành tổng công ty cổ
phần đại chúng.
Sau 15 năm cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước, có thể nhận thấy các chuyển
biến sau:
Thứ nhất, sự chuyển hướng từ cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước trong
một số lĩnh vực sang cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở hầu hết ngành, lĩnh
SV: Hoμng ThÞ Trang
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
vực, trong cả kinh tế, dịch vụ và văn hoá, kể cả ngân hàng thương mại, chỉ trừ loại
Doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực dầu khí và an ninh quốc phòng. Thành phố
Hồ Chí Minh còn kiến nghị Chính Phủ cho phép cổ phần hoá một số bệnh viện
công.
Thứ hai, chuyển biến từ việc chỉ cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước quy
mô nhỏ về vốn và lao động làm ăn thua lỗ, nay sang cả những doanh nghiệp lam ăn
có lãi với quy mô lớn trong các ngành trọng yếu của nền kinh tế (như điện lực, xi
măng, viễn thông, hàng không) với kết quả hoạt động sau ngày một tiến bộ. Tiến
hành cổ phần hoá không chỉ được thực hiện đối với từng doanh nghiệp thành viên
mà còn triển khai đối với toàn tổng công ty. Đến nay đã có Nghị quyết phê duyệt cổ
phần hoá 5 tổng công ty, trong đó có các Tổng công ty thương mại - Xây dựng,
Điện tử - Tin học, Vinaconex và Bảo Việt.
Thứ ba, việc cổ phần hoá không chỉ nhằm thu hút vốn của các nhà đầu tư, của
những người trong doanh nghiệp mà còn thu hút vốn của những người nông dân
cung cấp nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp, chuyển họ thành những cổ đông,
gắn bó họ với sự phát triển của doanh nghiệp.Công ty mía đường lam Sơn và công
ty mía đường La Ngã đã thực hiện cổ phần hoá theo hướng đó. Ở Tổng công ty mía
đường Lam Sơn, Nhà nước giữ 46%, nông dân trong mía và cổ đông ngoài doanh
nghiệp mua 26% (trong đó có 40.000 cổ phần ưu đãi cho người trồng mía), người
lao động trong doanh nghiệp mua 24% cổ phần. Ở Tổng công ty mí đường La Ngã
Nhà nước giữ 35%, nông dân tròng mía và cổ đông ngoài doanh nghiệp mua 25%
(trong đó có 15.000 cổ phần ưu đãi cho người trồng mía), người lao động trong
doanh nghiệp 40% cổ phần. Sau 5 năm cổ phần hoá (từ năm 2000 đến năm 2005)
nộp ngân sách tăng từ 10 tỷ lên 38 tỷ đồng và lợi nhuận đạt tới 77,5 tỷ đồng và cổ
tức là 20%/năm.
Thứ tư, là việc chuyển từ cổ phần hoá thưo hướng cơ bản khép kín, nội bộ
sang hình thức đấu giá công khai, bán cổ phần ra bên ngoài để thu hút nhà đầu tư
trong và ngoài nước. Đây được coi là sự chuyển biến “có chất” nhất thể hiện sự thay
đổi căn bản quan điểm và chủ trương về cổ phần hoá, góp phần tạo ra sức bật mạnh
mẽ để đẩy nhanh, mạnh tiến trình cải cách hệ thống Doanh nghiệp nhà nước một
cách công khai, minh bạch và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế trong và
SV: Hoμng ThÞ Trang
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
ngoài nước cùng tham gia. Trong đợt đấu giá cổ phiếu đầu tiên của công ty sữa Việt
Nam đã thu hút được các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài và họ đã mua tới gần
80% tổng số cổ phần bán ra.
Thứ năm, cổ phần hoá là một xu hướng tất yếu, là giải pháp mang tính đột phá
nhằm chuyển đổi Doanh nghiệp nhà nước đơn sở hữu sang đa sở hữu. Các doanh
nghiệp quân đội cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Khi triển khai thực hiện cổ
phần hoá các doanh nghiệp đã gặp rất nhiều khó khăn bởi vì các doanh nghiệp quân
đội vốn chưa thích nghi hoàn toàn với cơ chế thị trường, bản thân người lao động
cũng chưa sẵn sàng cho việc này, nhưng tính đến thời điểm này, đã có 16 doanh
nghiệp quân đội triển khai thực hiện cổ phần hoá, trong đó có 9 công ty, xí nghiệp
phụ thuộc hoàn thành xong (đạt 56% kế hoạch).
2. Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp sau cổ phần hoá.
Sau 15 năm thực hiện chủ trương cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước, cho
đến nay đã có gần 3000 doanh nghiệp được cổ phần hoá. Nhìn chung các doanh
nghiệp cổ phần hoá đều phát triển ổn định và hoạt động có hiệu quả hơn. Tuy nhiên
thực tiễn cũng chỉ ra nhiều trở ngại gây khó khăn cho các doanh nghiệp sau cổ phần
hoá. Việc nhận dạng đúng thực trạng và tìm biện pháp tháo gỡ tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp sau cổ phần hoá phát triển tốt hơn đang là vấn đề bức xúc hịên nay.
Cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước đã nâng cao rõ rệt hiệu quả sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp trên tất cả các chỉ tiêu chủ yếu: về vốn, doanh thu,
lợi nhuận, nộp ngân sách, số lượng lao động, cổ tức. Kết quả của các cuộc điều tra
cho thấy:
Thứ nhất, ngay trong năm đầu tiên cổ phần hoá, doanh thu bình quân của
doanh nghiệp tăng 13%, lợi nhuận sau thuế tăng 48,8%... và cho đến nay có tới
92,5% số doanh nghiệp được điều tra rừng có lãi, lợi nhuận trước thuế tăng bình
quân 149,7%, lợi nhuận sau thuế tăng bình quân 182,3%. Điều này cho thấy việc
chuyển đổi đã có tác động mạnh đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Thứ hai, đối với những doanh nghiệp cổ phần hoá nhiều năm đã đi vào hoạt
động ổn định, tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp được duy trì, doanh thu bình
quân tăng 23,6%, lợi nhuận trước thuế tăng 9,4%, lợi nhuận sau thuế tăng tới
54,4%. Một số doanh nghiệp có doanh thu tăng cao như công ty cổ phần đại lý liên
SV: Hoμng ThÞ Trang
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
hiệp vận chuyển: 30 lần, công ty cổ phần cơ điện lạnh: 13 lần, công ty cổ phần Kim
Đan: 11,2 lần…
Thứ ba, một số chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp sau cổ phần hoá đều tăng; năng suất lao động tăng bình quân 63,9%; mức
nộp ngân sách tăng bình quân 26,53%; thu nhập bình quân tháng của lao động tăng
34,5% so với trước khi cổ phần hoá. Điều đó khẳng định hiệu quả của việc chuyển
đổi các Doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần.
Thứ tư, sau cổ phần hoá các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, tạo
thêm công ăn việc làm, thu hút thêm lao động, số lao động trong các doanh nghiệp
cổ phần hoá phát triển bình quân tăng 6,6%. Cổ tức bình quân của các doanh nghiệp
đạt 17,11% cao hơn nhiều so với lãi suất.
Thứ năm, vốn huy động được từ việc bán cổ phiếu cũng tăng đáng kể. Vốn
bình quân một doanh nghiệp tăng từ 24 tỷ đồng (năm 2001) lên 63,6 tỷ đồng (năm
2004). Đây là yếu tố đầu vào rất quan trọng để mở rộng sản xuất kinh doanh mang
lại lợi nhuận cao hơn nữa cho doanh nghiệp, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho
người lao động, góp phần giải quyết vấn đề thất nghiệp trong xã hội hiện nay.
Qua nghiên cứu, khảo sát các doanh nghiệp sau cổ phần hoá của Bộ Kế hoạch
và Đầu tư cho thấy việc thay đổi mô hình hoạt động của cán bộ quản lý và người
lao động đã có tác động tích cực đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.
Cán bộ quản lý và người lao động đã thật sự gắn bó với doanh nghiệp, nhờ vậy mà
hiệu quả kinh doanh tăng lên. Có 96% số doanh nghiệp cho rằng cán bộ quản lý đã
quan tâm nhiều hơn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, 88% số doanh nghiệp khẳng
định kết quả sản xuất của người lao động đã tăng lên khi tiền lương của họ được
tính toán trên cơ sở kết quả việc làm. Thực tế có 85% doanh nghiệp cho rằng sau cổ
phần hoá cơ sở vật chất kỹ thuật, năng lực sản xuất của doanh nghiệp được khai
thác triệt để hơn, sử dụng tốt hơn, tiết kiện hơn trước.
3. Những mặt hạn chế của cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước và nguyên
nhân của chúng.
3.1. Những mặt hạn chế của cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước.
Bên cạnh những thành công như đã nêu trên, việc thực hiện chủ trương cổ
phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta cũng đã bộc lộ nhiều hạn chế:
SV: Hoμng ThÞ Trang
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
- Hạn chế rõ nhất trong việc thực hiện chủ trương cổ phần hoá là tiến độ cổ
phần hoá còn chậm. Vốn Nhà nước trong các Doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần
hoá còn nhỏ và việc huy động vốn trong quá trình chưa được nhiều, thời gian tiến
hành cổ phần hoá một doanh nghiệp còn quá dài. So với đề án được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt thì số Doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá chưa đạt
80%, số lượng Doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá trong năm 2005 tuy đạt
con số 754 đơn vị, nhưng nếu so với yêu cầu của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban
chấp hành TW Đảng khoá IX là phải hoàn thành về cơ bản việc cổ phần hoá Doanh
nghiệp nhà nước vào năm 2005 là chưa đạt.
Theo báo cáo kết quả khảo sát của Dự án hỗ trợ kỹ thuật giám sát chuyển đổi
sở hữu Doanh nghiệp nhà nước tại 934 doanh nghiệp đã cổ phần hoá cho thấy, thời
gian cổ phần hoá doanh nghiệp tuy đã giảm được 512 ngày (năm 2001) xuống còn
437 ngày (năm 2004) nhưng vẫn còn dài. Trong đó chia theo các giai đoạn sau:
STT Nội dung công việc Số ngày thực hiện
Thành lập ban đổi mới doanh nghiệp – bắt
1 135 ngày
đầu định giá
Bắt đầu định giá - quyết định giá trị doanh
2 135 ngày
nghiệp
Quyết định giá trị doanh nghiệp – phê duyệt
3 66 ngày
phương án cổ phần hoá
Phê duyệt phương án cổ phần hoá - bắt đầu
4 24 ngày
bán cổ phần
Bắt đầu bán cổ phần – hoàn thành bán cổ
5 38 ngày
phần
6 Hoàn thành bán cổ phần - đại hội cổ đông 15 ngày
7 Đại hội cổ đông - đăng ký kinh doanh 24 ngày
8 Tổng cộng 437 ngày
Việc cổ phần hoá các Tổng công ty diễn ra rất ì ạch. Đã có chủ trương cổ
phần hoá Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) và Ngân hàng Phát
triển nhà đồng bằng sông Cửu Long từ 2 năm nay nhưng nay mới nhỉ dừng lại ở
mức chuẩn bị : vạch lộ trình và cách thức cổ phần hoá và dự kiến đến hết năm 2007
SV: Hoμng ThÞ Trang