Trong bối cảnh trong nước và quốc tế mới, Đại hội IX đã nhấn mạnh yêu cầu phát triển vừa nhanh, vừa bền
vững; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ nhưng chủ động hội nhập quốc tế; đề cao vai trò của giáo dục
đào tạo và khoa học công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đẩy nhanh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn là nhiệm vụ lớn và cấp thiết của quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn - thành tựu và giải pháp
Thực hiện Nghị quyết Ðại hội Ðảng toàn quốc lần thứ IX, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần
thứ 5 đã ban hành Nghị quyết 15-NQ/T.Ư này 18-3-2002 về đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010 với những nội dung chủ yếu sau đây:
Chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa quy mô lớn, gắn với
công nghiệp chế biến và thị trường; đưa thiết bị, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất
nông nghiệp; thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa và ứng dụng các thành tựu mới về khoa
học, công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ thông tin nhằm nâng cao năng suất, chất lượng
hiệu quả, sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa nông nghiệp Việt Nam.
Tăng nhanh tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ; tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản
xuất phù hợp; quy hoạch phát triển đồng bộ và đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông
thôn; ưu tiên giải quyết việc làm chuyển dần lao động nông nghiệp sang làm công nghiệp và dịch vụ;
phát triển toàn diện đời sống văn hóa tinh thần và xây dựng nông thôn mới văn minh, dân chủ, đoàn kết,
lành mạnh và hiện đại.
Những thành tựu đã đạt được
1 - Cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã có bước chuyển dịch tích cực theo hướng đẩy mạnh sản
xuất các loại nông sản hàng hóa có nhu cầu thị trường và có giá trị kinh tế cao. Tiếp tục bảo đảm tốt an
ninh lương thực quốc gia, tuy diện tích trồng lúa giảm (khoảng hơn 300 nghìn ha), để chuyển sang nuôi
trồng thủy sản và các cây trồng khác có giá trị cao hơn, nhưng sản lượng lương thực vẫn tăng từ 34,5
triệu tấn (năm 2000) lên 39,12 triệu tấn (năm 2004), trong đó, sản lượng lúa tăng từ 32,5 lên 35,8 triệu
tấn, bình quân mỗi năm lương thực tăng hơn một triệu tấn, vượt mục tiêu do Ðại hội lần thứ IX của
Ðảng đề ra trước ba năm. Hằng năm vẫn xuất khẩu khoảng 3,5-4 triệu tấn gạo.
Sản xuất cây công nghiệp, cây ăn quả có sự điều chỉnh mạnh theo nhu cầu thị trường để xuất khẩu và
thay thế hàng nhập khẩu, hình thành một số vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với công nghiệp bảo
quản, chế biến. Diện tích, sản lượng cây công nghiệp tăng nhanh so với năm 2000, cao-su diện tích tăng
9,5%, sản lượng tăng 37,6%; hồ tiêu diện tích tăng 83,2%, sản lượng tăng 87,8%; điều diện tích tăng
44,3%, sản lượng tăng 205,3%; chè diện tích tăng 35,3%, sản lượng tăng 54,9%; diện tích cây ăn quả
tăng 1,4 lần; bông vải diện tích tăng 42,5%, sản lượng tăng 57,4%; đậu tương diện tích tăng 47,1%, sản
lượng tăng 62,2%. Các loại cây công nghiệp có lợi thế xuất khẩu hầu hết đều tăng về diện tích, sản
lượng và kim ngạch xuất khẩu.
Chăn nuôi phát triển với tốc độ khá cao, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng về trứng, thịt trong nước đang tăng
nhanh, giá trị chăn nuôi tăng bình quân 10%/năm; tỷ trọng giá trị chăn nuôi trong nông nghiệp tăng từ
19,3% lên 21,6%. Ðàn bò, nhất là bò sữa tăng nhanh, đạt 95 nghìn con, sản lượng sữa tươi tăng gấp 3 lần.
Sản lượng thủy sản nuôi trồng tăng 2,0 lần, sản lượng khai thác tăng 1,2 lần.
Rừng tự nhiên được bảo vệ và khôi phục tốt hơn, trồng rừng kinh tế bước đầu có chuyển biến tích cực
về chất lượng và hiệu quả, độ che phủ của rừng tăng từ 35% lên 36,7%.
Công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản và ngành nghề nông thôn có bước phát triển tích cực. Giá trị
sản xuất công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản tăng trưởng bình quân 12-14%/năm. Sản xuất tiểu,
thủ công nghiệp và ngành nghề nông thôn có bước phát triển nhanh 15%/năm. Hiện cả nước có 2.971 làng
nghề, khoảng 1,35 triệu cơ sở ngành nghề nông thôn, với khoảng 1,4 triệu hộ, thu hút hơn 10 triệu lao
động (trong đó có khoảng 1,5 triệu người làm hàng mỹ nghệ).
Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng trưởng liên tục và đạt mức cao (5,4%/năm, chỉ tiêu Ðại
hội Ðảng toàn quốc lần thứ IX đề ra là 4,8%/năm). Tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản năm
2004 đạt gần 7 tỷ USD, tăng 1,5 lần so với năm 2000, trong đó nông, lâm sản tăng gần 1,5 lần, thủy sản
tăng 1,6 lần. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu đạt sản lượng và giá trị lớn như: gạo, cà-phê, cao-su,
hạt điều. Ðặc biệt, xuất khẩu đồ gỗ gia dụng và lâm sản tăng mạnh, đạt hơn 1,2 tỷ USD, tăng gấp 3,3
lần so với năm 2000.
Cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ
trọng nông nghiệp. Năm 2004 trong tổng GDP của cả nước, tỷ trọng nông, lâm nghiệp, thủy sản đã giảm
từ 24,53% xuống 21,76%; lao động nông nghiệp giảm từ 59,04% xuống 57,9%, lao động công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp chiếm khoảng 17%, dịch vụ chiếm 25,1%. Năm 2003, hộ thuần nông đã giảm còn
68,8%, hộ kiêm nghề tăng lên, chiếm 12,7% và phi nông nghiệp 18,4%. Nguồn thu của hộ nông dân từ
nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 77,5%; công nghiệp, xây dựng và dịch vụ nông thôn đã dần tăng lên, chiếm
22,5% tổng thu.
2 - Trình độ khoa học, công nghệ trong sản xuất nông nghiệp, thủy sản từng bước được nâng cao theo
hướng sử dụng giống mới, công nghệ sinh học, phương thức canh tác tiên tiến để nâng cao năng suất
chất lượng nông sản, thủy sản. Chương trình giống cây trồng, giống vật nuôi bước đầu đã đạt kết quả
quan trọng vào việc nâng cao năng suất chất lượng nông sản, thủy sản. Ðến nay, có hơn 90% diện tích
lúa, 80% diện tích ngô, 60% diện tích mía, 100% diện tích điều trồng mới... được sử dụng giống mới.
Công nghệ sử dụng mô hom được đưa nhanh vào sản xuất giống cây rừng, nên năng suất chất lượng
rừng được cải thiện. Ngành thủy sản đã sản xuất và đưa vào sản xuất một số loài thủy sản có giá trị
kinh tế cao. Nhiều khâu trong sản xuất nông nghiệp được cơ giới hóa như: tưới nước, tuốt lúa, xay xát
đạt hơn 80%, vận chuyển làm đất đạt hơn 60%. Trong ngành thủy sản, tổng công suất tàu thuyền đánh
bắt đạt hơn 4 triệu sức ngựa, một số cơ sở nuôi trồng thủy sản được trang bị các máy móc, thiết bị bảo
đảm cho công nghệ nuôi trồng tiên tiến.
3 - Quan hệ sản xuất được xây dựng ngày càng phù hợp. Năm năm qua đã xuất hiện ngày càng nhiều hộ
sản xuất hàng hóa quy mô lớn và bước đầu khắc phục được một số yếu kém của khu vực kinh tế tập
thể, hợp tác xã. Cả nước hiện có 72 nghìn trang trại, tăng bình quân 10%/năm, kinh tế trang trại đã góp
phần đáng kể vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Thành lập mới được 524 hợp tác xã nông
nghiệp, chủ yếu hoạt động theo hướng dịch vụ, tiêu thụ sản phẩm, hiện có hơn 10 nghìn hợp tác xã ở
nông thôn (9.255 HTX nông nghiệp, hơn 500 HTX thủy sản, 800 quỹ tín dụng nhân dân...) và hàng trăm
nghìn tổ kinh tế hợp tác, so với năm 2000, số hợp tác xã hoạt động có lãi tăng từ 32% lên 35%, số HTX
yếu kém giảm từ 22% xuống còn khoảng 10%.
Doanh nghiệp nhà nước tiếp tục được sắp xếp, đổi mới, thực hiện cổ phần hóa và sản xuất, kinh doanh
có hiệu quả hơn; các nông, lâm trường quốc doanh đang được sắp xếp lại theo tinh thần Nghị quyết số
28/NQ-T.Ư ngày 16-6-2003 của Bộ Chính trị. Doanh nghiệp tư nhân tăng nhanh, năm 2004 có 15.600
doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động trên địa bàn nông thôn, bình quân một doanh nghiệp thu hút khoảng
20 lao động, đang là nhân tố quan trọng trong phát triển kinh tế nông thôn.
4 - Nông thôn có bước phát triển khá nhanh, cơ sở hạ tầng tiếp tục được đầu tư, đời sống nhân dân được
cải thiện, xóa đói, giảm nghèo đạt thành tựu nổi bật, giáo dục, y tế, văn hóa có chuyển biến tích cực.
Cơ sở hạ tầng nông thôn được đầu tư phát triển khá nhanh. Nhiều công trình thủy lợi đã hoàn thành và
đưa vào sử dụng, góp phần chuyển dịch cơ cấu sản xuất, thâm canh, tăng năng suất cây trồng đã bảo
đảm tưới cho 90% diện tích lúa, hàng vạn ha hoa màu, cây công nghiệp và cây ăn quả; hệ thống đê điều
được củng cố. Ðến nay đã có 98% số xã có đường ô-tô tới khu trung tâm, hơn 90% số xã có điện, gần
88% số hộ dân nông thôn được sử dụng điện. Số thuê bao điện thoại ở khu vực nông thôn tăng nhanh, đạt
4 máy/100 người dân (cả nước là 12,56 máy/100 người dân); 58% số dân nông thôn được sử dụng nước
sạch; xây mới 501 chợ, góp phần giảm bớt khó khăn về tiêu thụ nông sản cho nông dân.
Thành tựu nổi bật là công tác xóa đói, giảm nghèo, bình quân mỗi năm giảm 3% tỷ lệ hộ đói nghèo. Tỷ lệ
hộ đói nghèo ở nông thôn giảm từ 19% năm 2000 xuống còn 11% năm 2004. Ðiều kiện về nhà ở, đi lại,
học tập, chữa bệnh được cải thiện tốt hơn. Nhiều làng xã đã trở thành làng văn hóa, có kinh tế phát triển,
bảo đảm môi trường sinh thái, văn hóa truyền thống mang đậm đà bản sắc dân tộc được phục hồi và phát
triển, trình độ dân trí được nâng lên.
Những vấn đề tồn tại,cần tập trung sức giải quyết
Bên cạnh những thành tựu đạt được rất quan trọng nêu trên, chúng ta cũng nghiêm túc nhìn nhận rằng,
trước những yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là việc tham gia Tổ chức Thương mại quốc tế
(WTO) và yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nông nghiệp, nông thôn nước
ta đang còn một số tồn tại, khó khăn và nhiều vấn đề đang đặt ra rất bức xúc cần tập trung sức giải
quyết, đó là:
1 - Cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn ở nhiều nơi chuyển dịch chậm, chăn nuôi, công
nghiệp, ngành nghề dịch vụ nông thôn phát triển còn chậm và chưa tương xứng với tiềm năng. Kinh tế
nông thôn vẫn nặng về nông nghiệp (chiếm 65%), trong nông nghiệp nặng về trồng trọt (chiếm 78%) cây
lúa vẫn đóng vai trò chủ yếu trong cơ cấu cây trồng; tỷ trọng giá trị chăn nuôi chỉ chiếm 23%; giá trị thu
được trên 1 ha đất nông nghiệp còn thấp so với tiềm năng và so với nhiều nước trong khu vực. Việc
chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp ở nhiều nơi còn mang tính tự phát, thiếu quy hoạch, nên kém
hiệu quả và chưa bền vững. Chất lượng quy hoạch nhiều nơi còn thấp, chưa đồng bộ, chưa phù hợp với
yêu cầu thị trường và tiến bộ khoa học, công nghệ; quản lý, thực hiện quy hoạch còn nhiều bất cập. Cơ
cấu lao động nông thôn chuyển dịch chậm, cơ bản vẫn là thuần nông (năm 2004 lao động nông nghiệp:
58,7%, năm 2001 là: 63,5%). Mục tiêu giảm lao động nông nghiệp còn 50% vào năm 2010 vẫn là một
thách thức lớn.
2 - Năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của một số nông sản phẩm còn thấp. Việc nghiên cứu
và chuyển giao khoa học, công nghệ vào sản xuất nông nghiệp còn chậm. Trong một số cây trồng, vật
nuôi chưa có đột phá công nghệ để tăng năng suất và chất lượng sản phẩm. Năng suất, chất lượng một
số nông sản còn thấp, khả năng cạnh tranh kém như: chè, mía, đường, rau quả, sản phẩm chăn nuôi. Hệ
thống nghiên cứu khoa học nông nghiệp chậm được sắp xếp lại; chưa có cơ chế gắn kết nghiên cứu
khoa học với chuyển giao, ứng dụng vào sản xuất, gắn kết giữa nhà khoa học với doanh nghiệp và nông
dân. Chậm hình thành hệ thống kiểm soát chất lượng nông sản và vật tư nông nghiệp. Tình trạng dư
lượng hóa chất thuốc bảo vệ thực vật, thuốc kháng sinh trong nông sản, thủy sản đang là vấn đề lớn
phải có biện pháp khẩn trương khắc phục. Cơ sở công nghiệp chế biến còn nhỏ bé về quy mô, lạc hậu
về công nghệ (vẫn còn 52,8% số doanh nghiệp có công nghệ lạc hậu), đơn điệu về sản phẩm, chủ yếu
là sơ chế, giá trị gia tăng thấp và chưa gắn kết chặt chẽ với vùng nguyên liệu.
3 - Việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp và phát triển các thành phần kinh tế còn chậm. Hiệu quả hoạt
động doanh nghiệp nhà nước còn thấp. Việc sắp xếp, đổi mới các nông, lâm trường quốc doanh còn
chậm. Kinh tế tập thể, mà chủ yếu là các hợp tác xã chưa có chuyển biến rõ nét, chưa thoát khỏi tình
trạng yếu kém. Doanh nghiệp tư nhân là nhân tố quan trọng trong phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, cơ cấu lao động ở nông thôn, nhưng quy mô nhỏ bé, chủ yếu là dịch vụ (chỉ có 5% liên quan đến sản
xuất) và chỉ phát triển mạnh ở ven đô thị, hoặc nơi có kết cấu hạ tầng tương đối phát triển.
4 - Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn vẫn chưa đáp ứng kịp yêu cầu chuyển dịch cơ cấu sản
xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, nhiều nơi còn nhiều yếu kém. Hệ thống thủy lợi một số nơi còn
nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu chuyển dịch cơ cấu sản xuất và dân sinh, nhất là trong điều
kiện hạn hán, lũ lụt gay gắt. Nhiều công trình đầu tư không đồng bộ, quản lý kém nên xuống cấp, mới
phát huy được 70% công suất thiết kế. Chất lượng đường giao thông nông thôn còn thấp, thiếu đường tới
thôn bản, nhất là vùng núi. Việc giải quyết đủ điện cho sinh hoạt và phục vụ sản xuất nông nghiệp ở
nhiều vùng còn khó khăn; giá bán điện ở nông thôn còn cao. Vấn đề cấp nước sạch vẫn chậm được giải
quyết, nhất là đối với miền núi và đồng bằng sông Cửu Long. Hệ thống chợ đã được cải thiện đáng kể,
nhưng phân bố không đều; vệ sinh an toàn thực phẩm chưa bảo đảm, văn minh thương mại còn xa lạ đối
với hầu hết chợ nông thôn. Hiện còn 293 xã của 18 tỉnh chưa có điện thoại đến trung tâm, hầu hết là
những xã đặc biệt khó khăn.
5 - Ðời sống vật chất và tinh thần của dân cư nông thôn ở nhiều vùng còn khó khăn, chất lượng nguồn
nhân lực thấp, lao động dư thừa nhiều. Thu nhập bình quân của dân cư nông thôn tăng chậm, hơn 90% hộ
nghèo của cả nước tập trung ở khu vực nông thôn, chất lượng ăn, ở, khám, chữa bệnh của nông dân vùng
sâu, vùng xa vẫn còn thấp, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn cao, số nhà tạm cần được cải thiện còn
nhiều, tỷ lệ học sinh các bậc học cao còn thấp. Tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo mới chiếm khoảng
12% (bằng 1/2 của cả nước), số lao động được đào tạo ít trở về nông thôn.
Việc phát triển nhanh các khu công nghiệp, khu đô thị nhưng chưa kết hợp chặt với giải quyết việc làm,
đào tạo và chuyển đổi nghề cho người dân có đất bị thu hồi cho mục đích này, đã làm tăng thêm tình
trạng bức xúc về việc làm, thu nhập và đời sống ở nhiều vùng nông thôn. Chênh lệch mức sống giữa
nông thôn và thành thị ngày càng gia tăng. Nếu áp dụng chuẩn nghèo mới dự kiến tỷ lệ nghèo cả nước là
26-27%, riêng ở nông thôn lên 31%, miền núi lên hơn 50%, có nơi lên hơn 60% (vùng Tây Bắc).
Ðời sống văn hóa chậm được cải thiện, tệ nạn xã hội và tình trạng ô nhiễm môi trường ở nhiều vùng
nông thôn có chiều hướng gia tăng. Ðặc biệt là tội phạm lừa gạt, buôn bán phụ nữ, trẻ em gái và tệ nạn
ma túy ngày càng diễn biến phức tạp. Do đời sống khó khăn và kém hiểu biết, việc lấy chồng nước ngoài
của một bộ phận không nhỏ chị em phụ nữ ở Nam Bộ đang nảy sinh nhiều vấn đề xã hội rất phức tạp.
Ðẩy mạnh CNH, HÐH nông nghiệp, nông thôn
Ðể thực hiện thắng lợi mục tiêu đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, sớm đưa nước ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển, đạt được bước chuyển biến quan trọng về phát triển bền vững. Cải thiện rõ rệt
đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của nhân dân. Tạo nền tảng để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và phát triển kinh tế tri thức. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu
vực và trên trường quốc tế.
Hiện nay và trong nhiều năm tới, đối với nước ta vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn vẫn có tầm
chiến lược đặc biệt quan trọng. Phải luôn coi trọng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp hàng hóa lớn và đa dạng, phát triển nhanh và
bền vững với năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh cao; bảo đảm an ninh lương thực cho đất
nước và tạo điều kiện để hình thành nền nông nghiệp sạch. Ðẩy mạnh phát triển công nghiệp và dịch vụ
ở nông thôn. Một số nội dung chủ yếu cần tập trung sức chỉ đạo, thực hiện có hiệu quả là:
1 - Thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn, chuyển mạnh sang
sản xuất các loại sản phẩm có thị trường và hiệu quả kinh tế cao; phát triển mạnh chăn nuôi với tốc độ
và chất lượng cao hơn; xây dựng các vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với việc chuyển giao công
nghệ sản xuất, bảo quản và chế biến; khắc phục tình trạng sản xuất manh mún, tự phát. Tiếp tục rà soát,
bổ sung, điều chỉnh lại quy hoạch sản xuất nông nghiệp theo hướng: phát huy lợi thế tự nhiên của từng
vùng, lợi thế kinh tế của từng loại cây trồng, con gia súc, tăng tỷ trọng chăn nuôi và dịch vụ; hình thành
vùng sản xuất hàng hóa gắn với thị trường và công nghiệp chế biến, bảo đảm hiệu quả bền vững và an
ninh lương thực quốc gia.
Trên cơ sở quy hoạch ngành, quy hoạch vùng, các địa phương cần rà soát, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch
cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội (giao thông, thủy lợi, điện, trường học, trạm y tế, chợ, bưu chính - viễn
thông, cụm đô thị ở nông thôn,...) phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội và quy hoạch
kế hoạch sử dụng đất của địa phương để có sự quản lý thống nhất, đồng bộ trên địa bàn. Khẩn trương
hình thành trung tâm tư vấn hỗ trợ nông nghiệp (thị trường, giá cả, thành lập doanh nghiệp nông nghiệp,
xúc tiến thương mại,...). Rà soát bổ sung quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, nhất là đất nông nghiệp,
công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, cụm công nghiệp và làng nghề nông thôn. Khẩn trương hoàn thành
đề án quy hoạch nông thôn phù hợp quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và
giữ được nét đặc thù của nông thôn Việt Nam.
2 - Tiếp tục phát triển và mở rộng thị trường, coi trọng và phát triển thị trường trong nước, tổ chức tốt
việc tiêu thụ nông, lâm sản, thủy sản cho nông dân. Tổ chức sơ kết, đánh giá kết quả thực hiện Quyết
định số 80/2002/QÐ-TTg ngày 6-12-2002 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách khuyến khích tiêu thụ
nông sản thông qua hợp đồng, trên cơ sở đó có giải pháp tháo gỡ khó khăn vướng mắc nhất là cơ sở pháp
lý để thực hiện cam kết hợp đồng tiêu thụ nông sản giữa người sản xuất với doanh nghiệp. Chỉ đạo các
doanh nghiệp nhà nước, hiệp hội ngành hàng triển khai có hiệu quả chương trình xúc tiến thương mại
trọng điểm đã được phê duyệt. Nghiên cứu chính sách bảo hiểm cho sản xuất lương thực.
3 - Ðưa nhanh khoa học công nghệ vào sản xuất, nhất là việc nghiên cứu và chuyển giao khoa học công
nghệ, nâng cao chất lượng giống cây trồng, giống vật nuôi, kỹ thuật canh tác và môi trường, công nghệ
sau thu hoạch; ứng dụng mạnh công nghệ sinh học và xây dựng các khu nông nghiệp công nghệ cao; nâng
cao khả năng phòng ngừa và khắc phục dịch bệnh đối với cây trồng, vật nuôi. Ðổi mới cơ chế quản lý
khoa học (quản lý tài chính, nhân lực) trong lĩnh vực nông nghiệp nhằm tăng cường gắn kết giữa các đơn
vị nghiên cứu với hệ thống khuyến nông nhằm nâng cao hiệu quả nghiên cứu và chuyển giao khoa học
công nghệ. Ưu tiên bố trí nguồn vốn sự nghiệp khoa học để triển khai các chương trình, đề tài nghiên
cứu khoa học và chuyển giao công nghệ phục vụ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn. Chuyển giao nhanh các loại giống tốt về cây trồng, vật nuôi, tập trung vào các loại cây trồng,
vật nuôi có lợi thế, có thị trường; tiếp tục triển khai có hiệu quả chương trình giống cây trồng, giống vật
nuôi. Tăng cường công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, công tác thú y (bao gồm thủy sản),
bảo vệ thực vật, quản lý chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm.
4 - Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp và hợp tác xã đầu tư phát triển công
nghiệp bảo quản, chế biến nông, lâm thủy sản. Có chính sách đặc biệt để khuyến khích phát triển mạnh
các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh và có hiệu quả kinh tế hộ và kinh tế trang trại. Chú
trọng củng cố và phát triển các loại hình kinh tế hợp tác, trước hết, tổ chức chỉ đạo triển khai có kết quả
Luật Hợp tác xã năm 2003 và các Nghị định hướng dẫn Luật nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế
hợp tác, hợp tác xã. Khẩn trương hoàn thành việc sắp xếp lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả của các
nông, lâm trường quốc doanh. Cổ phần hóa và nâng cao hiệu quả các doanh nghiệp nhà nước sản xuất,
chế biến nông lâm thủy sản, gắn lợi ích người sản xuất nguyên liệu với cơ sở chế biến.
5 - Tăng đầu tư từ ngân sách nhà nước, và đa dạng hóa các nguồn vốn để tiếp tục đầu tư phát triển mạnh
hơn cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội nông thôn. Ưu tiên nâng cấp và xây dựng mới các hệ thống thủy lợi
đồng bộ, đi đôi với đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý để bảo đảm an toàn về nước. Củng cố hệ
thống hồ đập, kè ven sông, ven biển; nâng cấp các hệ thống cảnh báo, chủ động phòng chống lụt bão và
giảm nhẹ thiên tai, bảo vệ môi trường nước. Tiếp tục đầu tư phát triển giao thông nông thôn, bảo đảm
các xã đều có đường ô-tô tới khu trung tâm, từng bước phát triển đường ô-tô tới thôn bản; bảo đảm hơn
90% số dân cư nông thôn có điện sinh hoạt; hơn 75% số dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch.
6 - Rà soát bổ sung, điều chỉnh chính sách về đất đai, thuế, tín dụng, đầu tư... nhằm hỗ trợ và tạo điều
kiện việc hình thành các khu và cụm công nghiệp, cụm làng nghề ở nông thôn để thu hút các cơ sở sản
xuất công nghiệp và kinh doanh dịch vụ sử dụng nhiều lao động và nguồn nguyên liệu từ nông, lâm thủy
sản. Sớm có phương án rà soát, đánh giá thực trạng ô nhiễm môi trường hiện nay, nhất là ô nhiễm nguồn
nước để có kế hoạch khắc phục, đồng thời có biện pháp kiểm soát phòng, chống ô nhiễm môi trường tại
các cụm công nghiệp, cụm làng nghề và các đô thị mới hình thành ở nông thôn.
7 - Tập trung giải quyết việc làm, đào tạo nghề cho nông dân và cho lao động nông thôn, đặc biệt quan
tâm giải quyết việc làm và thu nhập cho nông dân có đất bị thu hồi để sử dụng vào mục đích phát triển
khu công nghiệp, khu đô thị, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội. Tạo điều kiện cho lao động nông thôn có việc
làm tại chỗ và ngoài khu vực nông thôn. Có chính sách trợ giúp thiết thực để đẩy mạnh đào tạo nghề cho
nông dân và lao động nông thôn, đáp ứng cho yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn
và tìm việc làm ngoài khu vực nông thôn, kể cả đi lao động ở nước ngoài.
8 - Tiếp tục đầu tư nhiều hơn cho chương trình xóa đói giảm nghèo, trợ giúp thiết thực cho các vùng và
cộng đồng dân cư còn nhiều khó khăn, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển hệ thống
khuyến nông, nâng cao dân trí và có chính sách tín dụng cho người nghèo từng bước vượt qua khó khăn,
thoát nghèo và nâng cao mức sống một cách bền vững. Tiếp tục triển khai thực hiện các chính sách đặc
biệt để trợ giúp điều kiện sản xuất và nhà ở cho đồng bào các dân tộc thiểu số đời sống còn nhiều khó
khăn.
9 - Tập trung đầu tư để hoàn thành cơ bản chương trình kiên cố hóa trường học, thực hiện tốt hơn
chương trình chăm sóc sức khỏe cộng đồng; thực hiện ngày càng có nền nếp và chất lượng về quy chế
dân chủ ở nông thôn; đẩy mạnh phong trào xây dựng làng xã văn hóa, nâng cao chất lượng hoạt động các
thiết chế văn hóa ở cơ sở giữ gìn và phát triển truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là nhiệm vụ chiến lược, có tầm quan trọng đặc
biệt hàng đầu của toàn Ðảng, toàn dân ta, cả trước mắt cũng như lâu dài. Không thể đưa nước ta trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại trong khi chưa thực hiện thắng lợi nhiệm vụ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Và đây cũng là khát vọng chính đáng của đông đảo đồng bào ta
ở nông thôn và của cả dân tộc ta. Các bộ, ngành, các địa phương phải đề cao trách nhiệm của mình, cụ
thể hóa và tổ chức thực hiện đạt kết quả cao nhất để góp phần tích cực thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
trọng đại này của đất nước.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn gắn với phát
triển du lịch bền vững
Nguyễn Thế Toàn
Bí thư Đảng ủy khối Du lịch Hà Nội
(Cập nhật: 4/7/2007)
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một trong những chủ trương
lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới. Một trong
những giải pháp để thực hiện chủ trương trên là gắn với phát triển dịch vụ và du lịch.
Tại sao phải công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn?
Nước ta đang trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, "Mà đặc điểm to nhất của ta
trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không
phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa"(1). Do đó, chúng ta phải công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, mới tạo tiền đề vững chắc để thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bởi nông nghiệp, nông thôn là khu vực đông
dân cư nhất, lại có trình độ phát triển nhìn chung là thấp nhất so với các khu vực khác của nền
kinh tế. Nông dân chiếm hơn 70% dân số và hơn 76% lực lượng lao động cả nước, đóng góp từ
25% - 27% GDP của cả nước...
Hơn thế nữa, Đảng ta coi đây là một nhiệm vụ hết sức quan trọng, còn vì nông dân, nông thôn
Việt Nam có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của đất nước trước đây và trong sự
nghiệp đổi mới hiện nay. Khu vực nông nghiệp, nông thôn hiện có tài nguyên lớn về đất đai và
các tiềm năng thiên nhiên khác: hơn 7 triệu ha đất canh tác, 10 triệu ha đất canh tác chưa sử
dụng; các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là sản phẩm nông - lâm - hải sản (như cà-
phê, gạo, hạt tiêu...). Nông nghiệp, nông thôn còn giữ vai trò chủ đạo trong cung cấp các nguồn
nguyên, vật liệu cho phát triển công nghiệp - dịch vụ.
Bộ mặt nông thôn Việt Nam trong thời gian vừa qua đã có nhiều đổi mới, từ chỗ bị thiếu ăn, phải
nhập khẩu gạo, đến nay đã và đang xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới (sau Thái Lan).
Tuy nhiên, vẫn còn đó những hạn chế, yếu kém, mà nhiều năm nay vẫn chưa có giải pháp hữu
hiệu. Chẳng hạn, vốn đầu tư cho khu vực này vẫn thấp (chiếm 11% - 12% tổng đầu tư toàn xã
hội); sản phẩm nông nghiệp lại chủ yếu thiên về số lượng, chứ chưa nâng cao về chất lượng,
giá thành nông sản còn cao, năng suất lao động và hiệu quả sản xuất còn thấp; sản lượng nông
sản tuy tăng nhưng chi phí đầu vào vẫn tăng cao (chi phí cho sản xuất 1ha lúa tăng từ 1 triệu
đến 1,5 triệu đồng), trong khi giá các mặt hàng nông sản trên thị trường quốc tế lại giảm. Trong
khi đó, các chính sách và biện pháp mà Nhà nước đã áp dụng cho phát triển nông nghiệp những
năm gần đây chưa tạo bước đột phá mạnh. Trình độ dân trí của một bộ phận nông dân (nhất là
vùng sâu, vùng xa) chưa được cải thiện, đời sống, xã hội nông thôn mặc dù có sự chuyển biến
song chưa mạnh và không đồng đều. Tình trạng đó dẫn đến sự chênh lệch giữa khu vực thành
thị và nông thôn ngày càng lớn. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê và Ngân hàng thế giới
(WB) (năm 2003) hệ số chênh lệch giữa thành thị và nông thôn còn là 3,65 lần.
Thêm nữa, kinh nghiệm từ các nước trên thế giới và trong khu vực (như Xin-ga-po, Thái Lan,
Trung Quốc, Thụy Điển, Tây Ban Nha...) đều cho thấy bài học: công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn là cơ sở để chuyển dịch cơ cấu, phát triển kinh tế đất nước.
Nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là gì?
Tiếp tục khuyến khích phát triển mạnh Ngay từ Đại hội Đảng lần thứ VIII Đảng ta đã quyết
thêm du lịch sẽ giúp cho nông thôn giải định và chỉ đạo phải luôn luôn coi trọng và đẩy mạnh
quyết hàng loạt vấn đề: tạo công ăn việc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
làm, nâng cao dân trí, phát triển kết cấu thôn. Đặc biệt, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban
hạ tầng nông thôn, từ đó, làm thay đổi Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX chỉ rõ nội dung
cơ cấu kinh tế và lao động trong nông tổng quát của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
thôn theo hướng tăng tỷ trọng dịch vụ, nghiệp, nông thôn ở nước ta giai đoạn 2001 - 2010 là
(2)
phát triển nông thôn văn minh, hiện đại, :
phù hợp với sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. - Là quá trình chuyển dịch kinh tế nông nghiệp theo
hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn với công nghiệp
chế biến và thị trường; thực hiện cơ khí hóa, hiện đại hóa, thủy lợi hóa, ứng dụng các thành tựu
khoa học đưa vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh
của nông sản hàng hóa trên thị trường.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các
ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp, xây dựng
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quy hoạch và phát triển nông thôn, tổ chức lại sản xuất và xây
dựng quan hệ sản xuất phù hợp; xây dựng nông thôn dân chủ, văn minh, không ngừng nâng cao
đời sống vật chất và văn hóa của nông dân nông thôn.
Tới Đại hội X, Đảng ta xác định: "Hiện nay và trong nhiều năm tới, vấn đề nông nghiệp, nông
dân và nông thôn vẫn có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng. Phải luôn luôn coi trọng đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn"(3).
Tóm lại, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn chính là từng bước để
phát triển nông thôn Việt Nam theo hướng hiện đại, xóa dần khoảng cách giữa thành thị với
nông thôn.
Để làm được điều này, cần rất nhiều giải pháp, trong đó một giải pháp quan trọng là phải phát
triển dịch vụ và du lịch. Với tính chất là ngành kinh tế tổng hợp mang tính liên ngành, liên
vùng và xã hội hóa cao, du lịch phát triển sẽ tạo nhiều công ăn việc làm cho lao động nông thôn
mà không cần phải đào tạo công phu, từ đó góp phần từng bước nâng cao tích lũy và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Hiện nay tỷ lệ hộ kinh tế làm dịch vụ trong nông thôn mới chỉ
chiếm 11,2%. Tiếp tục khuyến khích phát triển mạnh thêm du lịch sẽ giúp cho nông thôn giải
quyết hàng loạt vấn đề: tạo công ăn việc làm, nâng cao dân trí, phát triển kết cấu hạ tầng nông
thôn, từ đó, làm thay đổi cơ cấu kinh tế và lao động trong nông thôn theo hướng tăng tỷ trọng
dịch vụ, phát triển nông thôn văn minh, hiện đại phù hợp với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
Một thực tế nữa là, ở nước ta trên 3/4 số các khu di tích văn hóa, lịch sử, khu du lịch sinh thái,
nghỉ dưỡng của đất nước đều nằm tại các vùng nông thôn, miền núi và vùng hải đảo. Song thu
nhập hiện từ du lịch mới tập trung chủ yếu ở hai thành phố du lịch lớn của đất nước là Hà Nội
và Thành phố Hồ Chí Minh (chiếm 62% tổng doanh thu), vì thế phát triển du lịch ở các vùng
miền nông thôn không những sẽ đánh thức những tiềm năng trên để phát triển kinh tế nông
thôn, xây dựng nông thôn mới theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mà còn làm tăng thêm
thu nhập cho đông đảo người dân sống ở nông thôn.
Các biện pháp gắn phát triển du lịch với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp nông thôn
Nhằm gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn với phát triển du lịch bền vững, thiết nghĩ
chúng ta cần tập trung phát triển du lịch ở khu vực nông thôn bằng các biện pháp sau:
Một là, bằng nhiều hình thức, cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho lĩnh vực du lịch ở các
vùng nông thôn có nhiều tiềm năng du lịch theo hướng khai thác các nguồn vốn trong nước,
ngoài nước, đặc biệt là vốn trong dân. Từ đó tạo ra những sản phẩm du lịch đặc thù mang đậm
bản sắc nông thôn Việt Nam (như du lịch đồng quê, du lịch làng nghề, du lịch sinh thái, văn hóa
và sông nước).
Hai là, phục hồi và phát triển các nghề truyền thống của làng quê Việt Nam, tạo ra những sản
phẩm phục vụ khách du lịch. Đây là lĩnh vực không những đẩy mạnh xuất khẩu tại chỗ và xuất
khẩu ra nước ngoài, mà còn kết hợp để mở rộng phát triển dịch vụ du lịch, tạo thêm công ăn
việc làm, nâng cao thu nhập cho đời sống nông dân, chuyển dịch cơ cấu lao động tại chỗ, thực
hiện "rời ruộng không rời làng".
Ba là, tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân ý thức bảo vệ và tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa
dân tộc, từ đó quảng bá, giới thiệu nhằm thu hút khách du lịch trên thế giới.
Bốn là, nâng cao ý thức của nhân dân ở các vùng nông thôn trong việc bảo vệ môi trường sinh
thái, làm đẹp quê hương, bản làng, giữ gìn nếp văn hóa làng quê Việt Nam để tạo ra những sản
phẩm du lịch văn hóa làng quê, văn hóa lễ hội nông thôn Việt Nam. Đây chính là nét đặc sắc rất
hấp dẫn khách du lịch quốc tế.
Năm là, gắn quy hoạch vùng du lịch với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội nói chung nhằm
bảo đảm phát triển du lịch và kinh tế bền vững.
Sáu là, cần có các đề án thiết thực về đào tạo nguồn nhân lực cho ngành du lịch, sao cho để
mỗi vùng quê, mỗi bản làng có đủ năng lực phát triển du lịch, làm cho du lịch thật sự trở thành
một ngành kinh tế có hiệu quả của địa phương.
Bảy là, mở rộng mối liên kết giữa các hãng du lịch trong nước và quốc tế với các đơn vị hoạt
động trong lĩnh vực du lịch ở các vùng nông thôn để tăng lượt khách du lịch, nhận sự hỗ trợ về
công nghệ, vốn đầu tư thêm cho phát triển du lịch.
Tám là, tuyên truyền và cung cấp thông tin bằng nhiều phương thức thích hợp để nâng cao dân
trí vùng nông thôn, từ đó hòa chung với sự phát triển, văn minh của các vùng đô thị, chủ động
ngăn ngừa những luồng văn hóa xấu, phá hoại của các thế lực thù địch, lợi dụng du lịch để xâm
nhập vào các làng quê Việt Nam.
Với một số giải pháp cơ bản có tính gợi mở bước đầu trên cùng với việc thực hiện những chính
sách đồng bộ của Nhà nước, hy vọng rằng sự phát triển du lịch một cách bền vững sẽ góp phần
không nhỏ vào đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn Việt Nam theo
tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5, khóa IX, đã chỉ ra.
CHÍNH SÁCH & CUỘC SỐNG
Công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn(08/08/2007)
Lúc nông nghiệp, nông thôn chuyển nhanh sức lực, "hóa thân"
thành công nghiệp, đô thị là thời kỳ đặc biệt quan trọng của quá trình CNH.
Quá trình này đã diễn ra với nước Anh vào đầu cuộc cách mạng công nghiệp cuối thế kỷ
18, ở nước Mỹ khi đường sắt và các nhà máy phát triển mạnh trước nội chiến, ở Ðức giai
đoạn sau cuộc cách mạng 1848, ở Nhật Bản khi Minh Trị tiến hành cuộc cải cách sau năm
1868, và ở nước Nga khi đường sắt, công nghiệp than đá, sắt, và công nghiệp cơ giới nặng
phát triển mạnh trước Cách mạng Tháng Mười năm 1917, ở Ðài Loan những năm 60 và
Hàn Quốc thập kỷ 70 của thế kỷ trước.
Tuy các nước Âu - Mỹ đã trải qua giai đoạn này hàng trăm năm trước, các nước Ðông-Bắc
Á mới vượt qua giai đoạn này vài thập kỷ qua, nhưng cách thức cất cánh của các nước
công nghiệp đi trước khá giống nhau, đó là: khai thác ồ ạt tài nguyên tự nhiên (khoáng sản,
gỗ rừng, hải sản,...) để xuất khẩu, nhập máy móc, thiết bị. Tình trạng tài nguyên kiệt quệ, ô
nhiễm môi trường diễn ra trên quy mô rộng. Phát triển các ngành công nghiệp thu hút lao
động (dệt-may, giày dép, chế biến nông sản,...), rút nhanh một lượng lớn lao động từ nông
thôn ra đô thị nhưng để lại ở nông thôn những mâu thuẫn và vấn đề xã hội lớn. Ðất đai tập
trung vào tay những người có khả năng quản lý, tăng quy mô sản xuất, hộ tiểu nông trở
thành trang trại cơ giới hóa sản xuất, áp dụng kỹ thuật mới, tăng năng suất lao động nông
nghiệp, sản xuất hàng hóa lớn. Nhu cầu tiêu thụ tại thị trường đô thị tăng nhanh, được
nông nghiệp đáp ứng lượng nông sản lớn giúp bảo đảm giá trị đồng lương thực tế, giữ cho
công nghiệp phát triển ổn định. Nông sản dư thừa được xuất khẩu ra thị trường quốc tế,
bắt đầu từ sản phẩm thô, rồi nâng dần chất lượng và giá trị.
Bán được hàng, nông thôn tăng thu nhập liên tục, trở thành thị trường ngày càng lớn cho
hàng hóa công nghiệp. Hàng công nghiệp sau khi lấp đầy thị trường trong nước cũng là lúc
có đủ chất lượng và tích lũy công nghệ để xuất khẩu ra thị trường thế giới. Khi quá trình cất
cánh đã hoàn thành, nền kinh tế đã công nghiệp hóa, nông nghiệp mất dần khả năng cạnh
tranh, Nhà nước tái phân phối để bù đắp các mất mát về kinh tế, xã hội và môi trường của
lĩnh vực nông nghiệp và địa bàn nông thôn, quay lại bảo vệ thị trường nông sản, trợ cấp
nông nghiệp. Bước tiếp theo, các nước đã trở nên giàu có viện trợ, cho vay phát triển trở lại
cho nước nghèo, bù đắp những thiệt hại về môi trường, thị trường và xã hội đã gây ra trên
quy mô quốc tế trong quá trình công nghiệp hóa.
ÐỐI với nước ta, lao động nông thôn chuyển sang công nghiệp dịch vụ và đô thị chưa được
nhiều, chia sẻ lượng việc làm ngày càng hạn chế trong nông nghiệp. Ngành nông nghiệp
chỉ còn đóng góp 20% GDP quốc gia nhưng vẫn tạo nguồn việc làm cho 60 - 70% tổng lao
động xã hội đang ở lại nông thôn.
Dân cư nông thôn tiếp tục tăng, trong khi đất đai thu hẹp làm cho bình quân ruộng đất ở
nước ta trở nên chật hẹp, không thể cơ giới hóa, hay áp dụng các công nghệ sản xuất hiện
đại. Năng suất lao động nông nghiệp giảm dần. Khả năng cạnh tranh của nông sản không
cao.
Trong khi tăng trưởng của nông nghiệp chậm lại, khả năng tích lũy từ sản xuất nông nghiệp
không đáng kể thì mức độ đầu tư của xã hội vào nông thôn rất thấp (chi tiêu công chỉ đạt 5-
Hơn 10 năm qua, nông nghiệp Việt Nam về cơ bản đã chuyển sang sản xuất hàng hoá, phát triển
tương đối toàn diện, tăng trưởng khá (bình quân 4,2 %/năm). Công nghiệp, ngành nghề và dịch vụ ở
nông thôn bước đầu được phục hồi và phát triển, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được đầu tư xây
dựng, môi truờng sinh thái và đời sống nông dân ở hầu hết các vùng được cải thiện rõ rệt. Quan hệ
sản xuất từng bước đổi mới phù hợp với yêu cầu phát triển nền nông nghiệp hàng hoá, hệ thống
chính trị ở cơ sở được tăng cường, dân chủ cơ sở được phát huy tốt hơn; an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội ở nông thôn được đảm bảo. Những thành tựu đó góp phần rất quan trọng vào sự ổn
định và phát triển kinh tế - xã hội, tạo tiền đề đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trước tình hình đó Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành TƯ Đảng khoá X đã ra nghị quyết về đẩy nhanh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010.
1. Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
Mục tiêu tổng quát và lâu dài của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là xây dựng một
nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn, hiệu quả và bền vững, có năng suất chất lượng và sức cạnh tranh
cao trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ tiến tiến, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất
khẩu; xây dựng nông thôn ngày càng giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan
hệ sản xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển ngày càng hiện đại.
Từ nay đến năm 2010 tập trung mọi nguồn lực để thực hiện một bước cơ bản mục tiêu tổng quát lâu dài đó.
2. Những chủ trương và giải pháp lớn
2.1. Phát triển lực lượng sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn
Về nông nghiệp:
Bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia, nâng cao hiệu quả sản xuất lúa gạo trên cơ sở hình thành
các vùng sản xuất lúa chất lượng cao, giá thành hạ, gắn với chế biến và tiêu thụ.
Phát triển sản xuất và chế biến các loại nông sản hàng hoá xuất khẩu có lợi thế của từng vùng, với qui mô
hợp lý; tập trung nâng cao chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh của các sản phẩm này trên thị
trường trong nước và quốc tế.
Đối với những mặt hàng còn đang phải nhập khẩu nhưng trong nước có điều kiện sản xuất có hiệu quả cần
phát triển sản xuất hợp lý ở các vùng để từng bước thay thế nhập khẩu.
Đối với cây lương thực: Xây dựng các vùng sản xuất tập trung lúa gạo ở đồng bằng sông Cửu Long và đồng
bằng sông Hồng; vùng ngô ở Đông Nam bộ, Tây Nguyên, trung du, miền núi phía Bắc, đồng bằng sông Cửu
Long; sử dụng các giống mới có năng suất cao, chất lượng phù hợp với yêu cầu thị trường, áp dụng các biện
pháp đồng bộ để hạ giá thành; phát triển công nghệ bảo quản, công nghệ chế biến. Đối với một số địa
phương miền núi dân cư phân tán, sản xuất hàng hoá chưa phát triển, kết cấu hạ tầng yếu kém, điều kiện
vận chuyển, cung ứng lương thực gặp nhiều khó khăn, nhưng có điều kiện sản xuất lương thực thì nhà nước
ưu tiên đầu tư thuỷ lợi nhỏ, xây dựng ruộng bậc thang và hỗ trợ giống tốt để đồng bào sản xuất lúa, màu,
đảm bảo ổn định đời sống.
Đối với cây công nghiệp, rau quả: Hình thành các vùng sản xuất tập trung các loại cây công nghiệp, rau, hoa
quả; ứng dụng công nghệ sinh học trong chọn tạo và nhân giống, kết hợp với nhập khẩu giống và công
nghệ để sản xuất giống cây trồng có năng suất cao; thực hiện cơ giới hoá các khâu sản xuất, thu hoạch,
bảo quản, phát triển công nghệ chế biến gắn với vùng nguyên liệu.
Đối với chăn nuôi: Khuyến khích phát triển chăn nuôi theo hướng công nghiệp, chủ yếu theo hình thức trang
trại với qui mô phù hợp, hình thành các vùng sản xuất hàng hoá tập trung, an toàn dịch bệnh, nâng cấp và
đầu tư xây dựng mới các cơ sở giết mổ, chế biến các sản phẩm chăn nuôi có trang bị hiện đại đạt yêu cầu
chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm, phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Nhà nước ưu
tiên đầu tư và có chính sách khuyến khích áp dụng công nghệ hiện đại trong sản xuất giống, thức ăn công
nghiệp, thú y và kiểm tra chất lượng sản phẩm.
Đối với lâm nghiệp: Tập trung bảo vệ vốn rừng hiện có và làm giầu rừng nhất là rừng đặc dụng, rừng phòng
hộ. Quy hoạch để hình thành các vùng rừng nguyên liệu gắn với các cơ sở chế biến; ứng dụng công nghệ
nuôi cấy mô, hom và những phương pháp nhân giống tiên tiến khác, cung ứng đủ giống có chất lượng cho
trồng rừng.Có chính sách để người trồng, chăm sóc rừng đảm bảo được cuộc sống và làm giàu từ nghề
rừng; khuyến khích các hộ nông dân, các lâm trường mua máy móc, thiết bị, thực hiện cơ giới hoá các khâu
trồng, khai thác vận chuyển và chế biến gỗ, lâm sản phát triển các cơ sở sản xuất giấy, bột giấy, ván nhân
tạo, đồ gia dụng và thủ công mỹ nghệ bằng gỗ.
Đối với ngành muối: Quy hoạch và từng bước đầu tư hiện đại hoá các đồng muối, sản xuất bằng công nghệ
tiên tiến để đạt năng suất và chất lượng cao, hạ giá thành sản phẩm nâng cao năng lực chế biến muối, đẩm
bảo đủ cho tiêu dùng trong nước, kể cả muối cho sản xuất công nghiệp và xuất khẩu, thay thế nhập khẩu.
Về nông thôn:
Nhà nước hỗ trợ, khuyến khích phát triển mạnh các ngành công nghiệp ở nông thôn nhất là công nghiệp chế
biến nông lâm thuỷ sản và các ngành sử dụng nguyên liệu tại chỗ, cần nhiều lao động. Hình thành các khu
công nghiệp ở nông thôn, gắn lợi ích kinh tế giữa người sản xuất nguyên liệu với các nhà máy chế biến.
Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi trong việc cấp đất, khuyến khích và hỗ trợ các cơ sở ngành nghề nông
thôn sử dụng máy móc, công cụ cải tiến, thực hiện cơ khí hoá các khâu sản xuất. Hỗ trợ, khyến khích các
thành phần kinh tế phát triển các loại hình dịch vụ ở nông thôn.
Qui hoạch và tổ chức lại hệ thống các cơ sở công nghiệp cơ khí hoá chất, phân bón thuốc trừ sâu phục vụ
nông lâm ngư nghiệp trên phạm vi cả nước và từng vùng.
2.2. Xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp
Nhà nước có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế hộ, kinh tế trang trại phát triển sản
xuất hàng hoá với qui mô ngày càng lớn. Nhà nước hỗ trợ hợp tác xã đào tạo cán bộ, có chính sách thuế phù
hợp đối với các hoạt động dịch vụ. Phát triển các quĩ tín dụng nhân dân ở xã để phục vụ phát triển nông
nghiệp nông thôn.
Doanh nghiệp nhà nước tập trung thực hiện những việc mà các thành phần khác chưa làm được, hỗ trợ các
thành phần kinh tế khác, giữ vai trò nòng cốt trong kinh doanh, chế biến nông lâm thuỷ sản
2.3. Phát triển kết cấu hạ tầng và đô thị hoá nông thôn
Ưu tiên đầu tư phát triển hệ thống thuỷ lợi theo hướng sử dụng tổng hợp tài nguyên nước để cấp nước cho
sản xuất nông nghiệp, công nghiêp, nước sinh hoạt và cải thiên môi trường, phòng chống, hạn chế và giảm
nhẹ thiên tai. áp dụng các công nghệ tiên tiến, công nghệ tưới tiêu tiết kiệm nước. Phát triển các tổ chức hợp
tác dùng nước và quản lý thủy nông của nông dân.
Phát triển nhanh hệ thống giao thông nông thôn; hệ thống điện nông thôn nhằm cung cấp điện có hiệu quả,
chất lượng cao.
Sưu tầm từ Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn
* Xem thêm: Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) Về đẩy
nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010 theo địa chỉ sau:
http://www.dangcongsan.vn/details.asp?topic=2&subtopic=9&leader_topic=228&id