Công chức và cải cách bộ máy hành chính
Trên đây là lời cảnh báo của tể tướng Ali Pasha gửi nhà vua Abdul Aziiz năm 1871 về công chức và bộ máy hành chính của một triều đại phong kiến thuộc đế chế Ottoman hùng mạnh. Nhưng tiếc rằng, nhà vua đã không nghe nên khoảng 30 năm sau, đế chế này bị lật đổ. Nhiều nhà sử học cho rằng, sự sụp đổ của đế chế có nguyên nhân chủ yếu từ sự suy thoái kéo dài của bộ máy hành chính nhà nước....
Công chức và cải cách bộ máy hành chính
29-08-2006
Tâu Bệ hạ, số đông các công chức được trả lương rất thấp… Kết quả là
những người có kỹ năng đều không gia nhập đội ngũ công chức. Vì vậy,
chính phủ của Bệ hạ buộc phải tuyển mộ những công chức kém mà mục
tiêu duy nhất của họ là cải thiện tình hình tài chính yếu kém của bản thân…
Cần có những người thông minh chăm chỉ, có năng lực và động cơ cá
nhân… và điều này nên trở thành nguyên tắc hoạt động thống trị trong
vương quốc của Ngài. Bệ hạ có đặc quyền tối cao để vận dụng nguyên tắc
cần thiết về sự chịu trách nhiệm, mà nếu không có nó thì mọi sự tiến bộ
đều sẽ bị trì hoãn, và những công việc tất yếu của Ngài sẽ không thể thực
hiện được.” (Trích chúc thư của Tể tướng Ali Pasha gửi Nhà vua Thổ Nhĩ
Kỳ, năm 1871)
Trên đây là lời cảnh báo của tể tướng Ali Pasha gửi nhà vua Abdul Aziiz
năm 1871 về công chức và bộ máy hành chính của một triều đại phong kiến
thuộc đế chế Ottoman hùng mạnh. Nhưng tiếc rằng, nhà vua đã không nghe
nên khoảng 30 năm sau, đế chế này bị lật đổ. Nhiều nhà sử học cho rằng,
sự sụp đổ của đế chế có nguyên nhân chủ yếu từ sự suy thoái kéo dài của
bộ máy hành chính nhà nước.
Dẫn câu chuyện về Đế chế Ottoman và lời cảnh báo của một viên tể tướng
để chúng ta cùng suy gẫm về bộ máy hành chính và vị trí quan trọng của bộ
máy hành chính. Ai cũng biết rằng, trong lịch sử phát triển của nhân loại,
càng ngày bộ máy hành chính càng có vị trí quan trọng trong việc duy trì
quyền lực của một chính thể và trong sự phát triển của một quốc gia. Bộ
máy hành chính bao gồm các công chức, có nhiệm vụ trực tiếp thực thi các
chính sách của nhà nước. Kết quả hoạt động của nhà nước nói chung, càng
ngày càng phụ thuộc một cách trực tiếp vào hoạt động của bộ máy này. Các
chính phủ dân chủ hiện nay có một bộ máy công chức rất đồ sộ được gọi là
bộ máy quan liêu - thư lại, với cơ cấu tổ chức nhân sự đông đảo hơn bất kỳ
một chế độ quân chủ nào trong quá khứ. Lý do căn bản của vấn đề là ở
chỗ, càng ngày nhà nước càng cần phải mở rộng phạm vi công việc của
mình. Hệ thống chính trị của Mỹ chẳng hạn, từ khoảng vài trăm người khi
mới thành lập nhà nước, nay đã phát triển đến con số 3 triệu nhân viên trong
chính phủ liên bang và gần 14 triệu trong 80.000 chính phủ địa phương. Và
số nhân viên này quyết định đến sự thành bại trong hoạt động của chính
phủ. Mà mọi quyết định hàng ngày của đất nước lại do chính phủ ban hành.
Trong khi đó, đại đa số nhân viên này không do dân chúng Mỹ bầu ra.
Chính vì tầm quan trọng như vậy, nên trong suốt thế kỷ XIX, hầu hết các
nước phát triển đều tiến hành hiện đại hóa đội ngũ công chức của họ. Sự
thành công của nước Anh trong việc trở thành nước phát triển hàng đầu về
mọi mặt, nhất là trong vai trò khống chế thương mại quốc tế, là kết quả
của công cuộc cải cách đội ngũ công chức của họ dựa trên sự nuôi dưỡng
chu đáo và tuyển lựa một cách khắt khe. Trong quá trình tiến triển của kỷ
nguyên Victoria, nước Anh đã trải qua một thời kỳ cải cách mạnh mẽ do sự
thúc đẩy thay đổi kinh tế - xã hội và do cần một tầng lớp trung lưu có học
thức và ngày càng đông đảo. Các trường đại học, các lực lượng vũ trang, cơ
quan tư pháp và các bộ máy viên chức trung ương và địa phương đều được
cải cách. Kế hoạch cải cách bộ máy viên chức có từ bản báo cáo Northcote -
Trevelyan năm 1854. Báo cáo đó chủ trương xây dựng một bộ máy viên
chức hiện đại dựa trên những viên chức dân sự chuyên nghiệp. Dựa trên ý
tưởng này khi xây dựng bộ máy viên chức ấn độ thuộc Anh, Nam tước
Northcote và Nam tước Trevelyan đã đề nghị chia công chức của Chính phủ
ra làm 2 loại: Loại tri thức (chính sách và quản lý) và loại cơ khí (thư ký) và
lập ra một ngành viên chức dân sự để thực hiện công việc của Chính phủ.
Các viên chức làm công việc tri thức sẽ được tuyển lựa từ các trường đại
học; những người tài năng nhất sẽ được tuyển lựa qua các kỳ thi rất khó
nằm dưới sự giám sát của ủy ban viên chức dân sự. Đã có sự chống đối rất
mạnh mẽ. Mặc dù một ủy ban viên chức dân sự đã được thành lập năm
1855, nhiều bộ ngành vẫn tiếp tục tuyển nhân viên theo cách thường làm từ
trước cho đến tận 1870, khi chế độ bảo trợ bị bãi bỏ hoàn toàn và chế độ
hai ngạch nói trên được áp dụng bắt buộc ở các bộ, ngành. Sau đó được áp
dụng trong lực lượng vũ trang, trong các cơ quan tư pháp và cả trong các cơ
quan của chính quyền địa phương. Đến cuối thế kỷ XIX, nước Anh đã thiết
lập được những cơ sở của chính quyền hiện đại và đã chính thức hóa
những giá trị về sự trung thực, về tính tiết kiệm và trung lập về chính trị
cho đội ngũ công chức.
Không chỉ ở nước Anh, mà ở nội các bất kỳ nước nào, các công chức
thường được làm việc cho các cơ quan bộ và ngang bộ dưới sự lãnh đạo
của bộ trưởng. Chính khách - bộ trưởng - chỉ là chức vụ "tạm thời" thường
thay đổi theo nhiệm kỳ của nội các. Hiệu quả hoạt động của các bộ phụ
thuộc vào hiệu quả hoạt động của đội ngũ công chức không thay đổi theo
nhiệm kỳ. Những bộ máy công chức hoạt động tốt, lành nghề có thể thúc
đẩy sự tăng trưởng kinh tế và giảm đói nghèo. Vì chính bộ máy công chức
này có thể cung cấp những đầu vào tốt về chính sách và cung cấp những
hàng hóa dịch vụ công cộng với giá thấp nhất.
Nhưng đồng thời, cũng có những trường hợp “công chức làm hư chính
sách”. ở bất cứ nơi nào mà công chức có nhiều quyền tự quyết định nhưng
ít hoặc không phải chịu trách nhiệm về những hành vi của mình, thì tham
nhũng dễ phát sinh. Các công chức có thể sử dụng vị trí quyền hạn của họ
để kiếm lợi riêng bằng cách nhận hối lộ hay thu nhập bất minh khác. Một
điều kiện cần cho tham nhũng là công chức được thưởng - phạt theo ý chí
của họ một cách tùy tiện. Những số tiền thất thoát, hối lộ thường xảy ra
đối với công chức được giao quyền thu thuế quan, cấp phát giấy phép,
quyền quyết định những gói thầu, hợp đồng, quyền phân phối các hạn
ngạch xuất nhập khẩu, quyền điều chỉnh về sự độc quyền trong kinh
doanh… Bất kỳ một chính sách nào tạo ra khoảng cách không đáng có giữa
cung và cầu cũng tạo ra cơ hội có lợi cho người trung gian, làm phát sinh
nạn tham nhũng của công chức nhà nước.
Việc kiềm chế tham nhũng đòi hỏi phải có sự hiểu biết về những lợi ích và
chi phí dưới sự kiểm soát của các công chức. Nhiều công chức vẫn là những
người lương thiện thật thà, bất chấp những quyến rũ lợi lộc và cũng có rất
nhiều người dân từ chối không đút lót, bất chấp sự hứa hẹn thu được lợi
ích lớn hơn trước mắt. Nhưng lại có nhiều người khác hoặc nhiều công
chức khác hám lợi. Không nên cho rằng, công chức của chính phủ bao giờ
cũng có đạo đức cao hơn dân chúng.
Tất cả những điều đó khiến cho nghề công chức trở nên quan trọng và phức
tạp như nghề thẩm phán của ngành tư pháp. Những người đảm trách các
công việc hành pháp, nhất là hành chính cũng cần phải có hiểu biết chuyên
môn. Cũng như những người làm nghề xét xử vậy, đối với những người
không được đào tạo, không có chuyên môn thì công việc của một công chức
cũng trở nên hết sức thần bí.
Nói cho cùng, thì một chính quyền tốt hay xấu phụ thuộc rất nhiều vào các
việc làm của giới công chức. Chính người công chức sẽ làm tốt hay làm hư
chính sách. Như vậy, phải khẳng định rằng, công chức trong bộ máy hành
chính đóng một vai trò rất quan trọng để vận hành một nền kinh tế - xã hội.
ở Việt Nam, bộ máy hành chính của chúng ta hiện đang tác động rất lớn
đến các công cuộc cải cách của nhà nước nói chung. Bên cạnh mặt tích cực,
hiệu quả đã đạt được, bộ máy hành chính vẫn tồn tại nhiều hạn chế và
thậm chí, có nguy cơ tụt hậu. Hãy xem tâm sự của Thủ tướng Chính phủ
Phan Văn Khải tại phiên gặp mặt với các doanh nghiệp năm 2004 mới
đây:“...Bây giờ, các chính sách đã có nhiều tiến bộ nhưng bên dưới vẫn còn
nhiều tiêu cực. Ví dụ như chính sách thuế đúng nhưng người hành thu
không đúng, hành hạ người ta thì chính sách đó cũng mất tác dụng... Hiện
nay, lãnh đạo nhiều tỉnh, thành phố cũng đã biết chăm lo cho doanh nghiệp,
nhưng các cán bộ, công chức không làm đúng các quy định của thành phố,
tỉnh, của Chính phủ nên nhũng nhiễu, tiêu cực còn rất nặng nề. Đó là vấn
đề lớn... Đại diện Phòng Thương mại Mỹ nói tham nhũng ở nước ta tràn
lan, làm vô hiệu hoá bộ máy nhà nước, có pháp quyền nhưng hoá ra là lại
vô pháp quyền. Chúng ta nghe thì có thể cảm thấy khó chịu nhưng đó là thực
tế và chúng ta phải thấy đó là những điều rất đau lòng. Không biết các
đồng chí nghĩ sao? Nhưng tôi thấy đó là sự thật... Ta cứ nói là lo cho dân,
nhưng đâu cũng có tiêu cực, thì người ta đâu có tin mình. Trong nhiều năm
làm Thủ tướng, tôi canh cánh một điều trong lòng, và chắc là cả đến lúc
nghỉ hưu, là bộ máy chúng ta hư hỏng, làm sao đẩy lùi được... Từ nay đến
đầu năm 2005, tôi sẽ cho thành lập các tổ công tác để kiểm tra, rà soát hết
lại các thủ tục, những gì khó khăn vướng mắc cho các doanh nghiệp để xem
thế nào... Mọi việc nếu đều được công khai, minh bạch hoá thì làm sao nền
kinh tế không lành mạnh? Chỗ nào sai mà không sửa thì đó là nguy cơ cho
đất nước (Báo Thanh niên, thứ sáu, ngày 15- 10 - 2004).
Những tâm sự trên phải chăng đã trùng với nhận định về bộ máy hành chính
của nhà nước tư sản cách đây gần 100 năm về trước ở các nước châu Âu:
Công chức làm hư chính sách?
Công chức và những đặc điểm cần có
Theo cách đề nghị của nhà xã hội học vĩ đại trong những năm cuối thế kỷ
XIX và đầu thế kỷ XX M. Weber, công chức trong bộ máy hành chính cần
có các nhóm đặc điểm là:
-Nhóm đặc điểm thứ nhất gồm những nguyên tắc pháp lý đã được quy định
trong các văn bản pháp luật. Những đặc điểm này biểu hiện qua các hoạt
động thường xuyên của tổ chức hành chính được xác định và phân bổ với tư
cách là các nghĩa vụ và trách nhiệm, theo một trật tự ổn định với các quy tắc
thi hành liên quan đến những biện pháp có tính cưỡng chế, chỉ có cá nhân
nào có đủ trình độ mới được thuê tuyển để thực thi các nghĩa vụ và quyền
hạn trong tổ chức hành chính.
-Nhóm đặc điểm thứ hai là các nguyên tắc tổ chức thứ bậc quyền lực. Tổ
chức hành chính là một hệ thống trật tự trên dưới, cấp dưới phải phục tùng
sự chỉ đạo và giám sát của cấp trên. Đặc điểm này quyết định quyền lực
của mỗi cá nhân trong tổ chức hành chính. Các cá nhân không có quyền lực
riêng mà chỉ là người được tổ chức uỷ quyền để thực thi quyền lực của tổ
chức. Đặc điểm này có ý nghĩa, cá nhân không thể tuỳ tiện sử dụng quyền
lực nhà nước.
-Nhóm đặc điểm thứ ba là sự quản lý trong các cơ quan hành chính dựa trên
văn bản, hồ sơ. Mọi quy tắc, mọi vị trí, vai trò chức năng, nhiệm vụ đều
được xác định rõ ràng và được thể chế hoá, lưu trữ bằng hệ thống văn bản,
hồ sơ.
-Nhóm đặc điểm thứ tư là tính chuyên môn nghiệp vụ. Tổ chức hành chính
được hoàn thiện bao gồm những chuyên gia, chuyên viên được đào tạo một
cách hệ thống, bài bản và chính quy, mà nguồn cung cấp là các cơ sở giáo
dục - đào tạo.
-Nhóm đặc điểm thứ năm là tính mẫn cán và sự trung thành. Mỗi cá nhân
trong bộ máy hành chính phải toàn tâm, toàn ý với công việc. Đặc điểm này
có yêu cầu tách quan hệ công việc hành chính ra khỏi quan hệ của cá nhân,
tách chức năng ra khỏi tình cảm, và tách việc công ra khỏi việc tư. Đặc
điểm này được hình thành trong suốt quá trình công tác của công chức, họ
phải có sự đầu tư nhất định về mặt thời gian và công sức.
-Nhóm đặc điểm thứ sáu, các tổ chức hành chính luôn tuân theo những
nguyên tắc chung, phổ biến và tương đối ổn định. Đặc điểm này thể hiện ở
chỗ các quy tắc quản lý hành chính là chung và phổ biến cho phần lớn các
trường hợp, các đối tượng mà không áp dụng cho các trường hợp riêng lẻ.
Nhìn lại lịch sử nhà nước Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc, chúng ta thấy bộ
máy hành chính đã có một số biểu hiện của hình thức “thư lại” nói trên. Câu
thành ngữ “Sáng cắp ô đi, tối cắp về” là một miêu tả hiện trạng đó. Tuy
nhiên, thành ngữ này cần phải được hiểu cho hết ý nghĩa của nó. Trước
cuộc Tổng khởi nghĩa tháng 8/1945, thành ngữ này được dùng để miêu tả,
giễu cợt và lên án chế độ bàn giấy quan liêu của công chức trong chế độ
thực dân nửa phong kiến/ chế độ thuộc địa. Và một yêu cầu của cách mạng
là phải thay đổi chế độ chính trị, trong đó có bao hàm cả của chế độ hành
chính đang lỗi thời.
Trong công cuộc cải cách bộ máy hành chính ở nước ta hiện nay, theo chúng
tôi, những tiêu chí của công chức theo kiểu “sáng cắp ô đi, tối cắp về”, lại
là rất cần thiết. Nói một cách khác, bộ máy hành chính hiện nay cần, rất
cần những công chức mẫn cán, chăm chỉ và chính xác để giải quyết nhanh,
đúng chức trách, đúng thời hạn và vô tư mọi yêu cầu của công việc. Họ tận
tâm, đúng giờ làm, vô tư đến mức không phụ thuộc vào điều kiện thời tiết
của tự nhiên, lẫn của cả xã hội. Theo cách hiểu tích cực này, ngoài sự tận
tâm, chăm chỉ, đội ngũ công chức sẽ có thêm những đặc điểm sau đây:
- Thứ nhất, họ sẽ là những người có chuyên môn nghiệp vụ, một đặc điểm
rất cần phải có của hàng ngũ công chức hiện nay của nền kinh tế thị
trường, “công bộc” phải là những người biết làm việc. Muốn có một nền
“hành chính phục vụ” thì trước hết phải có chuyên môn nghiệp vụ.
- Thứ hai, các công việc về sự vụ hành chính được thực hiện một cách
không ngừng, không gián đoạn và đúng thời hạn.
- Thứ ba là sự không phụ thuộc vào các điều kiện kể cả tự nhiên lẫn xã hội.
Công chức phải vô tư chỉ dựa vào pháp luật để thực hiện các quyết định
hành chính.
- Thứ tư, các công chức chỉ làm các công việc đã được xác định rõ ràng bởi
những tiêu chuẩn của của pháp luật, không mang tính chất cá nhân.
- Thứ năm, giữa công vụ và tư vụ, giữa thu nhập của cơ quan nhà nước và
thu nhập của cá nhân phải được phân biệt một cách chặt chẽ, không có sự
nhập nhằng giữa công và tư.
- Thứ sáu, công việc sự vụ hành chính phải dựa trên cơ sở được ghi chép
bằng văn bản, chứ không bằng những chỉ thị miệng của cấp trên.
Những yêu cầu nói trên đối với chế độ công chức “sáng cắp ô đi và tối cắp
ô về” cũng rất trùng hợp với yêu cầu của của M. Weber về bộ máy hành
chính quan liêu/ bộ máy hành chính thư lại. Theo quan niệm của ông thì xét
về mặt kỹ thuật, chế độ hành chính quan liêu ưu việt hơn các hình thức
quản lý hành chính khác, giống như sản xuất bằng máy móc thì năng suất
cao hơn năng suất của lao động chân tay hay thủ công nghiệp.
Theo Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp - Văn phòng Quốc hội ngày 28/08/2006