Chương 5
Công nghệ sinh học động vật
I. Mở đầu
Tế bào động vật có thể sinh trưởng trên các loại môi trường dinh
dưỡng tổng hợp bên ngoài cơ thể, vì thế chúng đã được nuôi cấy cho các
mục đích sau:
- Nghiên cứu các tế bào ung thư, phân loại các khối u ác tính, xác định
sự tương hợp của mô trong cấy ghép, nghiên cứu các tế bào đặc biệt cùng sự
tương tác của chúng, sản xuất tế bào gốc…
- Ứng dụng để sản xuất các hợp chất hóa sinh quan trọng dùng trong
chẩn đoán như các hormone sinh trưởng của người, interferon, hoạt tố
plasminogen mô, các viral vaccine và các kháng thể đơn dòng (monoclonal
antibodies). Theo phương pháp truyền thống các hợp chất hóa sinh này được
sản xuất bằng cách sử dụng các động vật sống hoặc được tách chiết từ xác
người chết. Chẳng hạn, các kháng thể đơn dòng có thể được sản xuất bằng
cách nuôi cấy các tế bào hybridoma trong các khoang màng bụng
(peritoneal cavity) của chuột, hoặc hormone sinh trưởng dùng để chữa bệnh
còi (dwarfism) có thể được tách chiết từ xác người chết. Tuy nhiên, số
lượng thu được từ các phương pháp này rất hạn chế vì thế việc ứng dụng
rộng rãi chúng trong điều trị còn gặp nhiều khó khăn.
Chuyển gen vào động vật để tạo ra nguồn thực phẩm có giá trị là một
trong những ứng dụng có ý nghĩa của công nghệ sinh học động vật. Tuy
nhiên, hướng nghiên cứu này vẫn còn một vài hạn chế trên động vật có vú
lớn do chúng sinh sản mỗi lần rất ít trứng, việc cấy phôi trở vào mẹ mang
phức tạp, mỗi mẹ mang chỉ nhận được một ít phôi, trứng của đa số động vật
nuôi có tế bào chất rất đục nên khó nhìn thấy tiền nhân để chuyển gen vào…
Mục tiêu của chuyển gen là nhằm đưa vào vật nuôi những tính trạng có hiệu
quả kinh tế cao như sử dụng triệt để thức ăn, nhiều thịt ít mỡ, sinh trưởng
nhanh, kháng bệnh… Mặc dù, còn gặp một số khó khăn và thất bại nhưng
người ta cũng đã có được một vài thành công bước đầu như tạo ra loại gà
kháng bệnh do avian leukosis virus gây ra hay cừu cho nhiều lông… Các kết
quả này cho phép hy vọng sẽ đạt được những bước tiến mới trong tương lai.
Nhập môn Công nghệ sinh học 140
Nhân bản vô tính (tạo dòng) đối với các vật nuôi có năng suất cao
nhưng các thế hệ con của nó lại không được như vậy cũng đã có một vài
thành công nhất định, kỹ thuật này cho phép tái tạo các vật nuôi có đầy đủ
phẩm chất như ban đầu bằng phương thức vô tính. Thành công vang dội
trong lĩnh vực này là kết quả của Wilmut và cộng sự (1996) đã cho ra đời
chú cừu Dolly. Cừu Dolly không có bố mẹ hiểu theo nghĩa thông thường mà
được tạo ra bằng cách sao y một con cừu trưởng thành. Ngoài ra, kỹ thuật
này cũng được áp dụng trong nhân giống các động vật chuyển gen, các động
vật này khi sinh sản hữu tính có thể thế hệ con không nhận được gen đích,
do đó sự can thiệp của nhân bản vô tính trong trường hợp này là rất cần
thiết. Bên cạnh các ứng dụng trong sản xuất, hiện nay việc ứng dụng nhân
bản vô tính để bảo tồn các nguồn gen và động vật quý hiếm cũng đang được
chú trọng đặc biệt.
II. Nuôi cấy tế bào động vật có vú
1. Các ưu điểm và hạn chế của nuôi cấy tế bào động vật
1.1. Các ưu điểm của nuôi cấy tế bào động vật
- Hệ thống tế bào động vật là các “nhà máy tế bào” thích hợp cho việc
sản xuất các phân tử phức tạp và các kháng thể dùng làm thuốc phòng bệnh,
điều trị hoặc chẩn đoán (Bảng 5.1).
- Các tế bào động vật đáp ứng được quá trình hậu dịch mã chính xác
đối với các sản phẩm protein sinh-dược (biopharmaceutical protein).
Chuyển gen của động vật có vú cũng có thể được sản xuất bởi hệ thống vi
khuẩn bằng cách dùng công nghệ DNA tái tổ hợp. Tốc độ sinh trưởng
nhanh, thành phần môi trường đơn giản và rẻ tiền của nuôi cấy tế bào vi
khuẩn khiến chúng có nhiều ưu điểm hơn so với nuôi cấy tế bào động vật có
vú. Tuy nhiên, vi khuẩn thiếu khả năng biến đổi hậu dịch mã (post-
translational modifications) bao gồm việc phân giải protein, liên kết tiểu đơn
vị (subunit), hoặc nhiều phản ứng kết hợp khác nhau như glycosylation,
methylation, carboxylation, amidation, hình thành các cầu nối disulfide hoặc
phosphorylation các gốc amino acid. Những sửa đổi này rất quan trọng ảnh
hưởng đến hoạt tính sinh học của sản phẩm. Ví dụ quá trình glycosylation
có thể giúp bảo vệ protein chống lại sự phân giải chúng, duy trì khả năng ổn
định cấu trúc và biến đổi kháng nguyên.
Nhập môn Công nghệ sinh học 141
Bảng 5.1. Các sản phẩm quan trọng của nuôi cấy tế bào động vật
Enzyme Urokinase, hoạt tố plasminogen mô
Nhóm I Hormone Hormone sinh trưởng (GH)
Các nhân tố sinh Các cytokine khác
trưởng
Nhóm II Vaccine Bệnh dại, bệnh quai bị, bệnh sởi ở
người…
Veterinary-FMD vaccine, New Cattle’s
Disease ...
Nhóm III Kháng thể đơn dòng Các công cụ chẩn đoán
Nhóm IV Virus côn trùng Thuốc trừ sâu sinh học cho Baculovirus
Nhóm V Các chất điều hòa Interferon và interleukin
miễn dịch
Nhóm VI Các tế bào nguyên Thử nghiệm độc chất học
vẹn
- Sản xuất các viral vector dùng trong liệu pháp gen (biến nạp một gen
bình thường vào trong tế bào soma mang gen tương ứng bị khiếm khuyết để
chữa bệnh do sự khiếm khuyết đó gây ra). Các mục đích chính của liệu pháp
này là các bệnh ung thư, HIV, chứng viêm khớp, các bệnh tim mạch và xơ
hóa u nang.
- Sản xuất các tế bào động vật để dùng như một cơ chất in vitro trong
nghiên cứu độc chất học và dược học.
- Phát triển công nghệ mô hoặc phát sinh cơ quan để sản xuất các cơ
quan thay thế nhân tạo-sinh học/các dụng cụ trợ giúp, chẳng hạn:
+ Da nhân tạo để chửa bỏng.
+ Mô gan để chữa bệnh viêm gan.
+ Đảo Langerhans để chữa bệnh tiểu đường.
Nhập môn Công nghệ sinh học 142
1.2. Một số hạn chế của nuôi cấy tế bào động vật
Mặc dù tiềm năng ứng dụng của nuôi cấy tế bào động vật là rất lớn,
nhưng việc nuôi cấy một số lượng lớn tế bào động vật thường gặp các khó
khăn sau:
- Các tế bào động vật có kích thước lớn hơn và cấu trúc phức tạp hơn
các tế bào vi sinh vật.
- Tốc độ sinh trưởng của tế bào động vật rất chậm so với tế bào vi sinh
vật. Vì thế, sản lượng của chúng khá thấp và việc duy trì điều kiện nuôi cấy
vô trùng trong một thời gian dài thường gặp nhiều khó khăn hơn.
- Các tế bào động vật được bao bọc bởi màng huyết tương, mỏng hơn
nhiều so với thành tế bào dày chắc thường thấy ở vi sinh vật hoặc tế bào
thực vật, và kết quả là chúng rất dễ bị vỡ.
- Nhu cầu dinh dưỡng của tế bào động vật chưa được xác định một
cách đầy đủ, và môi trường nuôi cấy thường đòi hỏi bổ sung huyết thanh
máu rất đắt tiền.
- Tế bào động vật là một phần của mô đã được tổ chức (phân hóa) hơn
là một cơ thể đơn bào riêng biệt như vi sinh vật.
- Hầu hết các tế bào động vật chỉ sinh trưởng khi được gắn trên một bề
mặt.
2. Các dòng tế bào động vật có vú và các đặc điểm của nó
Các tế bào động vật có vú là tế bào eukaryote, chúng được liên kết với
nhau bởi các nguyên liệu gian bào để tạo thành mô. Mô động vật thường
được phân chia theo bốn nhóm: biểu mô (epithelium), mô liên kết
(connective tissue), mô cơ (muscle) và mô thần kinh (nerve). Biểu mô tạo
thành lớp phủ và lớp lót trên các bề mặt tự do của cơ thể, cả bên trong và
bên ngoài. Ở mô liên kết, các tế bào thường được bao bọc trong thể gian bào
rộng (kéo dài), đó có thể là chất lỏng, hơi rắn hoặc rắn. Các tế bào mô cơ
thường thon dài và được gắn với nhau thành một phiến hoặc một bó bởi mô
liên kết. Mô cơ chịu trách nhiệm cho hầu hết chuyển động ở động vật bậc
cao. Các tế bào mô thần kinh gồm có thân bào chứa nhân và một hoặc nhiều
phần mở rộng dài và mảnh được gọi là sợi. Các tế bào thần kinh được kích
thích dễ dàng và truyền xung động rất nhanh.
Nhập môn Công nghệ sinh học 143
2.1. Các tế bào dịch huyền phù
Tế bào hồng cầu (blood) và bạch huyết (lymph) là các mô liên kết
không điển hình dạng thể lỏng. Các tế bào máu hoặc dịch bạch huyết là các
tế bào dịch huyền phù (suspension cells), hoặc không dính bám khi chúng
sinh trưởng trong nuôi cấy in vitro. Các tế bào không dính bám không đòi
hỏi bề mặt để sinh trưởng.
Chẳng hạn, các tế bào bạch huyết (lymphocytes) bắt nguồn từ mô
bạch huyết là các tế bào không dính bám và có hình cầu đường kính từ 10-
20 m. Chúng có thể được nuôi cấy trong môi trường dịch lỏng theo
phương thức tương tự vi khuẩn.
2.2. Các tế bào dính bám
Hầu hết các tế bào động vật bình thường là các tế bào dính bám, vì thế
chúng cần có bề mặt để gắn vào và sinh trưởng. Trong các ứng dụng, người
ta sử dụng rộng rãi các loại tế bào dính bám là tế bào biểu mô và nguyên
bào sợi (fibroblast). Các tế bào dính bám cần có một bề mặt ẩm để sinh
trưởng như là thủy tinh hoặc plastic. Đĩa petri hoặc các chai trục lăn là các
loại được sử dụng rộng rãi nhất. Các chai được đặt nằm trên một trục lăn
quay tròn chậm trong tủ ấm. Chai có dung tích một lít chứa khoảng 100 mL
môi trường là thích hợp cho các tế bào vừa sinh trưởng trên thành chai vừa
tiếp xúc với môi trường và không khí. Tuy nhiên, chai trục lăn chỉ dùng cho
quy mô phòng thí nghiệm vì diện tích bề mặt trên một đơn vị thể tích của
chai nuôi cấy khá nhỏ (500 cm2/L).
Tỷ lệ diện tích/thể tích có thể được tăng lên khi các tế bào sinh trưởng
trên các giá thể là polymer bọt biển (spongy), thể gốm (ceramic), các sợi
rỗng, microcapsule, hoặc trên các hạt nhỏ có kích thước hiển vi gọi là
microcarrier.
3. Các sản phẩm thương mại của nuôi cấy tế bào động vật có vú
Các sản phẩm sinh học được sản xuất bằng tế bào động vật có vú chủ
yếu là các glycoprotein. Bảng 5.2 giới thiệu một số sản phẩm tiêu biểu. Sự
phức tạp và chi phí cao của các quá trình nuôi cấy tế bào động vật cho thấy
sản xuất protein bằng tế bào động vật có vú chỉ thật sự kinh tế đối với những
sản phẩm có giá trị cao (>USD 106/kg). Vì thế, các sản phẩm protein của tế
Nhập môn Công nghệ sinh học 144
bào động vật có vú là những sản phẩm chủ yếu dùng làm dược phẩm.
Kháng thể đơn dòng (monoclonal antibodies-Mabs) là sản phẩm nuôi cấy tế
bào động vật có vú có giá trị nhất hiện nay. Các tính chất liên kết đặc hiệu
cao của Mabs có thể được dùng trong chẩn đoán (cả y học lẫn thú y), phân
tích hình ảnh (ung thư và bệnh tim), tinh sạch sản phẩm (sắc ký ái lực) và
như là các nhân tố trị liệu. Các protein có đặc tính dược liệu khác sản xuất
bằng nuôi cấy tế bào động vật có vú được hướng tới sử dụng trong điều trị
ung thư, bệnh tim, các bệnh về máu và rối loạn hormone.
- Quá trình glycosyl hóa một phân tử protein (hậu dịch mã) xảy ra ở
mạng lưới nội sinh chất (endoplasmic reticulum-ER) và phức hợp Golgi của
tế bào eukaryote, và phụ thuộc vào sự hiện diện của các enzyme đặc hiệu:
glycosyltransferase và glycosidase.
- Vi khuẩn hoặc không chứa các cơ quan tử này hoặc không chứa các
enzyme vì thế không thể thực hiện sự biến đổi hậu dịch mã này.
- Nấm men và nấm sợi (eukaryote) có thể glycosyl hóa các protein từ
các tế bào động vật có vú nhưng thực hiện khó khăn hơn.
- Một số protein dùng làm dược phẩm không được glycosyl hóa hoặc
không cần được glycosyl hóa cho chức năng thích hợp như insulin hoặc
hormone sinh trưởng ở người, albumin huyết thanh người và haemoglobin,
có thể được sản xuất với giá thành thấp hơn nhiều hơn nhờ vi khuẩn, nấm
men hoặc nấm sợi.
4. Glycosyl hóa protein (glycosylation)
- Trong khi quá trình tổng hợp protein được hướng dẫn bởi các khuôn
mẫu DNA và RNA, thì việc bổ sung đường vào protein là một quá trình
không cần khuôn mẫu. Vì thế, có thể tìm thấy nhiều biến thể trong các cấu
trúc oligosaccharide của các glycoprotein (các protein được glycosyl hóa).
- Các glycoprotein có trình tự amino acid giống nhau, nhưng các cấu
trúc oligosaccharide khác nhau được gọi là các glycoform. Các cấu trúc
oligosaccharide được liên kết đồng hóa trị với protein hoặc ở nguyên tử
nitrogen (N-glycosylation) hoặc ở nguyên tử oxygen (O-glycosylation). Hai
dạng glycosylation này khác nhau không chỉ ở vị trí gắn vào của đường mà
còn ở loại đường và số lượng đường được bổ sung.
Nhập môn Công nghệ sinh học 145
Bảng 5.2. Một số protein dùng làm dược phẩm được sản xuất bằng nuôi cấy tế
bào động vật có vú
Protein dược liệu Chức năng Loại
glycosylation
Hoạt tố plasminogen Tác nhân phân giải fibrino-gen Liên kết N
mô (tPA) (chất tạo tơ huyết)
Erythropoietin (EPO) Tác nhân chống thiếu máu Liên kết N và O
Nhân tố VII, VIII, IX Các tác nhân gây cục máu, bệnh Liên kết N và O
và X máu loãng khó đông
Hormone kích thích Điều trị vô sinh Liên kết N và O
nang noãn (FSH), kích
dục tố màng đệm ở
người (hCG)
Interleukin-2 Chống ung thư, điều hòa miễn Liên kết O
dịch, điều trị HIV
Interferon-alpha Chống ung thư, điều hòa miễn Liên kết N và O
(IFN- ) dịch
Interferon-beta Chống ung thư, tác nhân chống Liên kết N
(IFN- ) virus
Interferon-gamma Tác nhân chống ung thư, điều Liên kết N
(IFN- ) hòa miễn dịch
Nhân tố kích thích Chống ung thư Liên kết O
khuẩn lạc bạch cầu hạt
(G-CSF)
Kháng thể đơn dòng Trị liệu và chẩn đoán Liên kết N
- Hầu hết các protein hiện diện trên bề mặt tế bào, virus, và trong máu
của các động vật được glycosyl hóa, và vì thế nó được xem giống như một
Nhập môn Công nghệ sinh học 146
số dược phẩm sinh học cũng sẽ được glycosyl hóa để có cùng chức năng
như các bản sao tự nhiên của chúng.
- Vi khuẩn không glycosyl hóa các protein của chúng (hoặc đúng hơn
là có các loại liên kết peptide-đường hoàn toàn khác với động vật), vì thế
các kỹ thuật của công nghệ di truyền được phát triển cho nấm men và các tế
bào eukaryote là những loại có glycosyl hóa. Dĩ nhiên, chúng không luôn
luôn glycosyl hóa trong một phương thức chính xác như các tế bào ở người
thực hiện.
- Đường có thể được liên kết với protein thông qua các nhóm amide
của asparagine (Asn) trong chuỗi peptide ngắn Asn-X-Ser/Thr (trong đó X
đại diện cho mọi amino acid ngoại trừ proline), hoặc hiếm khi hơn, thông
qua nhóm hydroxyl của serine (Ser) và threonine (Thr).
- Glycosyl hóa là một dạng của sự biến đổi hậu dịch mã, tức là biến
đổi hóa học của protein sau khi protein được dịch mã từ RNA. Một kiểu
glycosyl hóa protein khác là theo phương thức hóa học, nó xảy ra bất cứ khi
nào một protein nằm trong các dung dịch đường một thời gian lâu. Phương
thức này cũng được gọi là glycosylation.
- Một tế bào có thể thu được một hỗn hợp các glycoform khác nhau.
Các glycoform khác nhau có các tính chất và chức năng khác nhau trong
nhiều trường hợp, và được nhận biết bằng hệ thống miễn dịch. Các tế bào
ung thư thường sản xuất các glycoform khác nhau từ những tế bào bình
thường ít khi glycosyl hóa các protein bề mặt của chúng. Nhiều chỉ thị khối
u trên thực tế là các dấu hiệu phân biệt glycoprotein đặc trưng cho các tế
bào ung thư, và do đó là phương thức có nhiều tiềm năng trong chẩn đoán
ung thư hoặc sản xuất các dược phẩm đích cho nó.
5. Môi trường nuôi cấy tế bào động vật có vú
Nhu cầu dinh dưỡng của các tế bào động vật có vú lớn hơn vi sinh vật
do, không giống các vi sinh vật, động vật không trao đổi chất nitrogen vô
cơ. Vì thế, nhiều amino acid và vitamin cần phải được bổ sung vào môi
trường. Môi trường đặc trưng dùng trong nuôi cấy tế bào động vật bao gồm
các amino acid, các vitamin, các hormone, các nhân tố sinh trưởng, muối
khoáng và glucose. Ngoài ra, môi trường cần được cung cấp từ 2-20% (theo
thể tích) huyết thanh của động vật có vú. Mặc dù huyết thanh có thành phần
chưa được xác định đầy đủ, nhưng nhiều nghiên cứu đã cho thấy nó rất cần
Nhập môn Công nghệ sinh học 147
thiết cho sự phát triển và tồn tại của tế bào trong nuôi cấy. Bảng 5.3 trình
bày thành phần và hàm lượng của các chất trong môi trường Eagle (Eagle
1959), đây là một trong những môi trường được sử dụng phổ biến.
Bảng 5.3. Thành phần môi trường Eagle (1959)
Thành phần Nồng độ Thành phần Nồng độ
(mg/L) (mg/L)
1. L-Amino acid 3. Vitamin
Arginine 105 Choline 1
Cystine 24 Folic acid 1
Glutamine 292 Inositol 2
Histidine 31 Nicotinamide 1
Isoleucine 52 Pantothenate 1
Leucine 52 Pyridoxal 1
Lysine 58 Riboflavin 0,1
Methionine 15 Thiamine 1
Phenylalanine 32
Threonine 48 4. Muối
Tryptophan 10 NaCl 6800
Tyrosine 36 KCl 400
Valine 46 CaCl2 200
MgCl2.6H2O 200
2. Carbohydrate NaH2PO4. 2H2O 150
Glucose 1000 NaHCO3 2000
Serum 5-10%
Huyết thanh dùng trong môi trường nuôi cấy không chỉ đắt tiền mà
còn là nguồn nhiễm bẩn virus và mycoplasma. Do bản chất hóa học của
huyết thanh chưa được xác định đầy đủ nên trong một số trường hợp có thể
ảnh hưởng xấu đến kết quả nuôi cấy. Sự hiện diện của nhiều protein khác
Nhập môn Công nghệ sinh học 148
nhau trong huyết thanh cũng có thể làm phức tạp các quá trình phân tách và
tinh sạch đầu ra (downstream processing). Vì lý do đó, nhiều nghiên cứu đã
được thực hiện để xây dựng công thức môi trường không có huyết thanh.
Những công thức này chứa các hormone và các nhân tố sinh trưởng được
tinh sạch để thay thế cho huyết thanh.
6. Nuôi cấy tế bào động vật có vú trên quy mô lớn
6.1. Các điều kiện chung
Hệ thống lên men (fermenter) đã được sử dụng trong nuôi cấy vi
khuẩn và nấm men từ rất lâu. Đầu tiên, sự lên men (fermentation) là thuật
ngữ dùng cho sản xuất ethanol. Sau đó, các nhà vi sinh vật học ứng dụng
các nguyên tắc trên để tách chiết các vitamin, các acid hữu cơ và các kháng
sinh… Kết quả dẫn đến sự phát triển nhanh chóng các phương pháp và các
hệ thống lên men khác nhau.
Các nguyên lý tương tự sau đó được ứng dụng cho nuôi cấy sinh khối
tế bào động vật và thực vật. Tuy nhiên, nuôi cấy các tế bào động vật và thực
vật khó khăn hơn nhiều so với vi sinh vật, cái chính là do quá trình trao đổi
chất trong các loại tế bào này diễn ra chậm, điều này cũng phản ánh tốc độ
sinh trưởng chậm của tế bào. Các tế bào động vật có nhu cầu dinh dưỡng
phức tạp hơn so với vi khuẩn và nấm men, chúng không có thành tế bào như
vi khuẩn vì thế chúng rất dễ biến dạng và vỡ. Do đó, các hệ thống khuấy và
sục khí được thiết kế khác với nuôi cấy vi khuẩn. Mật độ tế bào thấp sẽ cho
nồng độ sản phẩm thấp. Mặc dù có một số điểm không thuận lợi, nhưng hệ
thống lên men đã được sử dụng để nuôi cấy tế bào động vật ít nhất cũng đã
vài chục năm (Hình 5.1). Các dòng tế bào khác nhau như BHK-21, LS, các
tế bào Namalwa… đã được sinh trưởng trong hệ lên men theo phương thức
nuôi cấy chìm ngập trong môi trường để sản xuất các viral vaccine và các
sản phẩm khác.
- Đặc điểm dễ biến dạng và dễ vỡ của tế bào động vật đã được khắc
phục bằng cách:
+ Sử dụng hệ lên men có cánh khuấy hình mái chèo.
+ Cung cấp khí trực tiếp có thể tạo ra bọt khí dễ làm vỡ tế bào, vì thế
cần cung cấp khí bằng cách khuếch tán thông qua ống silicone.
Nhập môn Công nghệ sinh học 149
+ Môi trường chứa nhiều protein huyết thanh có khả năng gây ra hiện
tượng tạo bọt nên cần khuấy chậm và nhẹ. Đối với nuôi cấy mật độ cao, cần
cung cấp thêm oxygen. Phương pháp dùng ống silicone để sục khí có nhiều
ưu điểm do không tạo ra bọt khí và tốc độ truyền oxygen là thỏa đáng. Tuy
nhiên, khúc lượn của tube dễ vỡ, đây là khó khăn và hạn chế đối với các hệ
lên men quy mô nhỏ dùng trong phòng thí nghiệm.
- Như vậy, các hệ lên men vi sinh vật được cải tiến thích hợp có thể
dùng để nuôi cấy sinh khối các tế bào động vật sinh trưởng trong dịch huyền
phù.
- Nếu muốn nuôi cấy một dòng tế bào dính bám thì nên dùng một hệ
thống chất mang như là microcarrier.
Hình 5.1. Nuôi cấy tế bào động vật trong hệ lên men 50 L
6.2. Nuôi cấy mẻ
Trong nuôi cấy mẻ (batch culture), các tế bào cấy gây (các tế bào
được tiếp vào-inoculum cells) được bổ sung vào thể tích tổng số của môi
trường nuôi cấy (Hình 5.2). Tế bào sẽ sử dụng hết chất dinh dưỡng trong
môi trường và tiết ra các sản phẩm phụ (by-product) trong suốt quá trình
Nhập môn Công nghệ sinh học 150
sinh trưởng. Sự sinh trưởng chỉ dừng lại khi cơ chất bị sử dụng hết hoặc sản
phẩm phụ đã đạt đến một nồng độ có thể ức chế tế bào. Tuy nhiên, trong
nhiều trường hợp nguyên nhân làm ngừng sinh trưởng tế bào vẫn chưa được
làm rõ.
- Nuôi cấy tế bào động vật ở quy mô phòng thí nghiệm. Các tế bào
động vật có vú được duy trì bằng cách cấy chuyển với một số lượng ổn định
trong các chai bẹt bằng nhựa có đáy nông (được gọi là T-flask hoặc Roux-
bottle) chứa từ 10-100 mL môi trường (Hình 5.3):
+ Các tế bào dính bám sẽ gắn vào đáy chai, và những lần cấy chuyển
sau phải dùng trypsin (một loại protease hòa tan được các protein bắc cầu)
để tách rời tế bào.
+ Các tế bào dịch huyền phù gắn lỏng lẽo hơn tế bào dính bám và có
thể lấy ra bằng cách lắc bình nuôi cấy. Cần lưu ý là lượng mẫu đưa vào
không được quá ít, mật độ thường được sử dụng là khoảng 2 105 tế bào/mL
hoặc hơn cùng với một ít môi trường đã gần hết chất dinh dưỡng của lần
nuôi cấy trước đó (spent medium), trong môi trường này có thể chứa các
nhân tố chưa biết có tác dụng kích thích sinh trưởng tế bào. Trong một số
trường hợp khác, môi trường đã sử dụng gần hết chất dinh dưỡng phải được
loại bỏ bằng cách ly tâm để tránh các sản phẩm phụ gây ức chế có mặt trong
môi trường.
- Nuôi cấy tế bào động vật có vú ở quy mô lớn. Thể tích môi trường
thường sử dụng là khoảng 200 L, thể tích này đáp ứng được yêu cầu sản
xuất cho các protein trị liệu có giá trị cao. Nhưng dù vậy, quá trình nuôi cấy
vẫn đòi hỏi một số bước trung gian, bước đầu tiên chuyển tế bào từ nuôi cấy
tĩnh tới bình nuôi có lắc hoặc bình nuôi xoay (spinner flask) (Hình 5.3).
Bình nuôi xoay, có trang bị cánh khuấy từ tính treo xuống từ nắp bình mà
không tiếp xúc với đáy, được phát triển đầu tiên để tạo ra sự khuấy trộn nhẹ
cho nuôi cấy microcarrier, nhưng hiện nay cũng được dùng cho nuôi cấy
dịch huyền phù. Hệ số độ chia (scale-up factor) từ nuôi cấy tĩnh, hoặc các
bình lắc không điều chỉnh pH, thường nhỏ hơn 5, nghĩa là một thể tích cấy
gây ít nhất là 20% phải được dùng. Trong hệ lên men, nơi có mật độ tế bào
cao hơn, thì hệ số độ chia có thể lên tới 10 (nghĩa là cấy gây 10% v/v hoặc ít
hơn).
Một nuôi cấy mẻ đặc trưng, chẳng hạn nuôi cấy tế bào hybridoma
trong hệ lên men, kéo dài từ 3-5 ngày đạt tới mật độ tế bào là 2-5 106 tế
Nhập môn Công nghệ sinh học 151
bào/mL. Tốc độ sinh trưởng cực đại đặc trưng (µ) của các tế bào hybridoma
và myeloma khoảng 0,05/giờ. Lượng kháng thể đơn dòng được sản xuất
trong nuôi cấy mẻ của tế bào hybridoma nằm trong khoảng từ 10-
100 mg /L. Ở quy mô lớn, sản xuất mẻ của kháng thể đơn dòng được tiến
hành ở hệ lên men thùng khuấy loại 1 m3, trong đó mật độ tế bào lên tới
5 106 tế bào/mL thu được sau 3,5 ngày. Sản xuất thương mại đầu tiên với
các tế bào dính bám được thực hiện trong chai quay (Hình 5.2). Các chai
quay được giữ trong một chuyển động không đổi bằng cách quay tròn và
các tế bào dính bám sinh trưởng trên bề mặt chai. Một bề mặt đặc trưng từ
750-1.500 cm2 với 200-500 mL môi trường sẽ cho sản lượng 1-2 108 tế
bào. Một diện tích bề mặt lớn hơn có thể thu được bằng cách dùng
microcarrier trong các hệ lên men thùng khuấy.
6.3. Nuôi cấy mẻ có cung cấp dinh dưỡng
Nuôi cấy mẻ có cung cấp dinh dưỡng (fed-batch culture), trong một
nghĩa chính xác, được điều khiển cùng một phương thức như nuôi cấy thể
ổn định hóa tính (chemostat culture), nghĩa là tốc độ sinh trưởng tế bào bị
hạn chế bởi tốc độ pha loãng và cơ chất giới hạn sự sinh trưởng. Lý do để sử
dụng kỹ thuật nuôi cấy mẻ có cung cấp dinh dưỡng (được giới hạn cơ chất)
là vì sự giới hạn O2 và chuyển hóa bài tiết quá mức bị ngăn cản trong quá
trình nuôi cấy, kết quả là mật độ tế bào cao hơn nhiều so với nuôi cấy mẻ.
Mặc dù nuôi cấy mẻ có cung cấp dinh dưỡng (được giới hạn glucose và
glutamine) cũng giải quyết được vấn đề chuyển hóa bài tiết quá mức trong
tế bào động vật có vú, nhưng nó không đủ để làm tăng mật độ tế bào lên
một cách đáng kể. Bằng cách cung cấp một hỗn hợp cân bằng các chất dinh
dưỡng, mật độ tế bào và nồng độ sản phẩm cũng được cải thiện hơn 10 lần
so với nuôi cấy mẻ. Nuôi cấy mẻ có cung cấp dinh dưỡng có thể kéo dài ít
nhất tới một tháng, các quá trình nuôi cấy ở quy mô 15 m3 đã được khảo sát
và mật độ tế bào trong khoảng 1-1,4 107 tế bào sinh trưởng/mL cũng đã
được thông báo.
6.4. Nuôi cấy thể ổn định hóa tính
Nuôi cấy chemostat là kiểu nuôi cấy có sự bổ sung liên tục môi trường
sạch và sự chảy ra của chất lỏng nuôi cấy, đồng thời giữ thể tích nuôi cấy
không đổi (Hình 5.2). Trong nuôi cấy vi sinh vật ở trạng thái ổn định
Nhập môn Công nghệ sinh học 152
(steady-state), mối quan hệ giữa tốc độ pha loãng (D) và tốc độ sinh trưởng
đặc trưng (μ) được biểu diễn bằng đẳng thức D . Tuy nhiên, trong nuôi
cấy tế bào động vật có vú, sự sinh trưởng của nuôi cấy cần phải được tính
toán. Sự sinh sản của tế bào không chỉ thay thế sự hao hụt các tế bào sống
sót (đang sinh trưởng) bị cuốn theo dòng chảy ra, mà còn thay thế cho các tế
bào bị chết trong quá trình nuôi cấy. Do đó, có thể mô tả trạng thái ổn định
cho tốc độ sinh trưởng như sau:
D Nt Nv1
Trong đó: Nt là nồng độ tế bào tổng số (tế bào chết cộng với tế bào
sống sót) và Nv là nồng độ tế bào sống sót. Từ quan hệ này cho thấy rằng µ
lớn hơn D khi hiện tượng chết tế bào xuất hiện trong hệ thống.
Trong nuôi cấy tế bào động vật có vú, môi trường chứa nhiều nguồn
carbon và nitrogen, do đó để thiết lập sự sinh trưởng trạng thái ổn định được
giới hạn bởi một chất dinh dưỡng là khó khăn. Mặc dù, một trong các nguồn
năng lượng (glucose hoặc glutamine) có thể giới hạn hiệu suất sinh khối
trong nuôi cấy trạng thái ổn định, nhưng tốc độ tiêu thụ các chất dinh dưỡng
khác có thể phụ thuộc vào mức độ cung cấp nguồn năng lượng, hoặc vào
nồng độ của một chất dinh dưỡng riêng rẽ.
Nhiều hướng nghiên cứu tập trung tối ưu môi trường và sinh lý học
của tế bào động vật có vú, chẳng hạn như ảnh hưởng của lên sự tạo thành
sản phẩm và ảnh hưởng của nồng độ O2 hòa tan, pH, nồng độ glucose và
glutamine, nồng độ các vitamin và amino acid lên sinh trưởng và tạo thành
sản phẩm, đã được khảo sát bằng cách dùng hệ nuôi cấy chemostat. Các quá
trình sản xuất chemostat với reactor (bình nuôi) có thể tích lên tới 2 m3 cũng
đã được khảo sát.
Nuôi cấy chemostat cho các mục đích sản xuất có một vài nhược
điểm. Thời gian nuôi cấy dài ngày (ít nhất là năm tuần) đã tăng đáng kể
nguy cơ nhiễm bẩn, và thời gian cần thiết để tái thiết lập một nuôi cấy trạng
thái ổn định sau khi sự nhiễm bẩn xuất hiện lâu hơn việc tái khởi động các
quá trình nuôi cấy mẻ hoặc mẻ có cung cấp chất dinh dưỡng. Hơn nữa, giá
trị của một quá trình sản xuất dựa trên nuôi cấy liên tục muốn được thừa
nhận phải chứng minh được rằng dòng tế bào đang sử dụng là ổn định trong
thời gian nuôi cấy.
Nhập môn Công nghệ sinh học 153
Nuôi cấy mẻ
Hệ lên men Chai quay
(fermenter) (Roller bottle)
Nuôi cấy mẻ có
cung cấp dinh
dưỡng
Nuôi cấy thể ổn
định hóa tính
Nuôi cấy
perfusion
Phân tách tế bào Phân tách tế bào Hệ sợi rỗng
in situ bên ngoài
Hình 5.2. Các phương pháp nuôi cấy tế bào động vật có vú. Các mũi tên trống
chỉ dòng chảy môi trường, mũi tên đen dày chỉ dòng chảy của dịch nuôi cấy có
sinh khối, mũi tên xám nhạt chỉ dịch nuôi cấy đã tách sinh khối ra.
6.5. Nuôi cấy perfusion
Trong nuôi cấy perfusion, sinh khối được tích lũy khi tế bào được giữ
lại trong reactor nhờ bộ phận thu hồi, trong khi môi trường sạch được đưa
vào và môi trường đã hao hụt chất dinh dưỡng bị loại bỏ. Theo cách này,
mật độ tế bào lên tới 3 107 tế bào/mL và có thể đạt được nồng độ sản phẩm
cao hơn trong nuôi cấy mẻ. Các bộ phận phân tách tế bào từ dịch lỏng nuôi
Nhập môn Công nghệ sinh học 154
cấy có thể được đặt bên trong hoặc bên ngoài reactor (Hình 5.2). Một vài hệ
thống perfusion có thể được phân biệt, dựa trên phương pháp phân tách tế
bào và môi trường:
- Bộ lọc xoay (spin-filter) sử dụng buồng quay có lưới kim loại
(đường kính lỗ 5-75 m). Nhược điểm của spin-filter là dễ làm tắc nghẽn,
dẫn đến giảm tốc độ dòng chảy môi trường qua hệ lọc và cuối cùng bịt kín
tất cả mắc lưới của màng lọc.
A B
Hình 5.3. Các loại bình nuôi cấy tế bào động vật. (A) Bình T-flask. (B) Bình
spinner loại 0,5 L.
- Một chọn lựa khác là hệ lọc sợi rỗng (hollow fibre) có thể được dùng
để phân tách tế bào từ dịch lỏng nuôi cấy. Việc làm tắc nghẽn hệ lọc cũng
có thể xuất hiện nhưng có thể khắc phục bằng cách dùng tia nước ngược.
Các thiết bị lắng để thu sinh khối cũng đã được phát triển trong trường hợp
phân tách tế bào từ dịch lỏng nuôi cấy có mật độ cao.
- Một thiết bị đặc biệt dùng trọng lực hấp dẫn để giữ tế bào trong
reactor là hệ lọc âm thanh (acoustic filter). Hệ thống này dùng sóng âm
thanh tĩnh để tập trung các tế bào trong dòng chảy. Các tế bào tích lũy trong
các giao điểm (node) của sóng và lắng ngược xuống đáy chất lỏng trong
nuôi cấy, ngược lại với dòng chảy lên (up-flowing effluent stream). Sau
cùng, sử dụng phương pháp ly tâm để thu hồi tế bào cho các quá trình sản
xuất ở quy mô lớn.
Các hệ thống nuôi cấy sợi rỗng có thể được xem là một loại đặc biệt
của nuôi cấy perfusion trong đó tế bào được phân tách vật lý khỏi dòng chảy
môi trường (Hình 5.2). Các tế bào được sinh trưởng trong một khối không
Nhập môn Công nghệ sinh học 155
gian siêu mao dẫn (extra capillary space), trong đó môi trường sạch được
cung cấp thông qua một số lượng lớn các sợi rỗng của màng (sự chuyển
khối). Có thể đạt tới mật độ 108 tế bào/mL trong không gian siêu mao dẫn
và môi trường dòng chảy trong không gian này chứa một nồng độ cao của
sản phẩm. Tuy nhiên, khi nồng độ các chất dinh dưỡng tăng dần và sản
phẩm được tạo thành trên khắp các sợi sẽ giới hạn khả năng của các khối sợi
rỗng được thiết kế cho các bình nuôi (reactor) quy mô sản xuất lớn. Mặc dù
vậy, các khối sợi rỗng vẫn dễ dàng sử dụng và được ứng dụng thành công
trong các quá trình sản xuất thương mại.
6.6. Số lượng và chất lượng sản phẩm
Một sản phẩm được tinh sạch từ nuôi cấy tế bào động vật có vú không
thể có 100% hoạt tính sinh học mà tùy thuộc vào những biến đổi trong kiểu
glycosylation hoặc sự phân giải protein. Hai thông số này chịu ảnh hưởng
bởi các điều kiện môi trường. Phương thức glycosyl hóa trong phản ứng phụ
thuộc vào nhiều nhân tố như kiểu nuôi cấy, pha sinh trưởng của nuôi cấy
mẻ, tế bào được sinh trưởng trong các microcarrier hoặc trong dịch huyền
phù, nồng độ glucose, nồng độ ammonium, hiệu quả của các hormone trong
môi trường, sự hiện diện của huyết thanh, hàm lượng của protein và lipid
trong môi trường, pH, và nồng độ O2 hòa tan. Vì vậy, việc chọn lựa các điều
kiện sinh lý thích hợp trong một quá trình sản xuất là rất quan trọng để có
được sự glycosyl hóa chính xác của một protein dược phẩm.
Không những chất lượng của các sản phẩm mà hiệu suất toàn phần
của nuôi cấy tế bào động vật có vú cũng chịu ảnh hưởng của nhiều thông số
như pH, nồng độ các ion ammonia/ammonium và lactate, nồng độ huyết
thanh, phương pháp nuôi cấy, tuổi tế bào nuôi cấy, lượng mẫu cấy gây và
thành phần môi trường. Do sự phức tạp của sinh lý tế bào động vật có vú,
nên sự phối hợp giữa các môi trường và phương pháp nuôi cấy khác nhau
thường phải được sử dụng, và nếu tách riêng ảnh hưởng của từng nhân tố
đặc trưng sẽ gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, tốc độ sinh trưởng vẫn là thông
số chính ảnh hưởng rõ rệt lên hiệu suất đặc trưng của sản phẩm ở tế bào
động vật có vú.
Hiệu suất đặc trưng cũng có thể được cải thiện bởi các hợp chất không
phải là thành phần bình thường của môi trường nuôi cấy tế bào. Nuôi cấy
một số dòng tế bào động vật có vú cho thấy chúng có hiệu suất đặc trưng
Nhập môn Công nghệ sinh học 156
cao hơn trong môi trường mà ở đó áp lực thẩm thấu được tăng lên từ mức
bình thường là 330 mosmol tới hơn 400 mosmol. Mặc dù chưa hiểu được
đầy đủ, nhưng người ta nhận thấy ảnh hưởng này phụ thuộc vào dòng tế bào
và môi trường cơ bản được sử dụng.
Số lượng sản phẩm được sản xuất trong quá trình nuôi cấy có thể biểu
diễn bằng phần trăm của lượng protein tổng số được sản xuất. Trong một số
trường hợp, khi tốc độ sinh trưởng tăng lên thì phần trăm của sản phẩm sẽ
giảm xuống một lượng đáng kể (tỷ lệ nghịch). Ví dụ: tốc độ sản xuất đặc
trưng của protein trong dòng tế bào hybridoma đã được thông báo là
1,5 mg/109 tế bào giờ ở tốc độ sinh trưởng đặc trưng 0,02/giờ. Lượng sản
phẩm được sản xuất tương ứng với 28% protein tổng số. Nhưng ở một dòng
tế bào tương tự có tốc độ sản xuất đặc trưng thấp hơn nhiều (0,2 mg/109 tế
bào giờ) ở tốc độ sinh trưởng 0,058/giờ, thì lượng sản phẩm chỉ chiếm 1%
của protein tổng số. Trong một số trường hợp khác, ở dòng tế bào myeloma
sản xuất kháng thể tái tổ hợp thì phần trăm của protein sản phẩm tăng lên từ
18%-29% quan sát được khi tốc độ sinh trưởng tăng lên từ 0,016/giờ đến
0,042/giờ (tỷ lệ thuận).
Nuôi cấy tế bào động vật có vú thành công nhất (nồng độ và hiệu suất)
là để sản xuất kháng thể đơn dòng với các tế bào hybridoma hoặc myeloma.
Như đã trình bày ở trên, tiềm năng sản xuất của các tế bào động vật có vú là
không giới hạn, nhưng điều được quan tâm hơn cả đó là nồng độ sinh khối
có thể đạt được. Để đáp ứng yêu cầu này, nuôi cấy mẻ có cung cấp chất dinh
dưỡng và reactor sợi rỗng (hollow fibre reactor) đã được sử dụng để hướng
tới các nuôi cấy có mật độ tế bào cao của hybridoma và myeloma. Sự giới
hạn glucose và glutamine được phối hợp với việc cung cấp amino acid và
huyết thanh, cho kết quả là nồng độ tế bào tổng số xấp xỉ 5 107 tế bào/mL
(trong đó ít hơn một nửa là sống sót) sau hơn 550 giờ, và nồng độ cuối cùng
của kháng thể là 2,4 g/L, với sản lượng 0,1 g/L ngày. Sản xuất thương mại
các kháng thể đơn dòng trong các reactor sợi rỗng có thể cho sản lượng
khoảng 700 g sản phẩm/tháng (khoảng 2 g/L). Mỗi lần nuôi cấy kéo dài
khoảng ba tháng nhưng lần nuôi cấy đầu tiên là không sản xuất do thời gian
này được yêu cầu cho việc xây dựng sinh khối trong không gian siêu mao
dẫn. Hiệu suất trong hệ thống này là 0,3 g/L ngày trong suốt thời gian thu
hoạch.
Nhập môn Công nghệ sinh học 157
III. Công nghệ di truyền của các tế bào động vật có vú
Chuyển nạp và biểu hiện DNA ngoại lai trong tế bào eukaryote nuôi
cấy in vitro được bắt đầu cách đây hơn 30 năm. Phương pháp chuyển nhiễm
đã mở đầu cho một chuỗi da dạng và phức tạp của các kỹ thuật chuyển gen.
Hầu như đồng thời với sự phát triển các quy trình chuyển nạp là việc khám
phá ra enzyme phiên mã ngược (reverse transcriptase) từ đó có thể tạo ra
các bản sao DNA bổ sung (cDNA) của mọi mRNA. Sự phát hiện enzyme
cắt hạn chế đã mở ra kỹ nguyên của công nghệ DNA tái tổ hợp. Nhìn chung,
việc phát triển các kỹ thuật thao tác DNA để tạo ra công nghệ di truyền thực
vật, động vật và liệu pháp gen ở người đã trở thành hiện thực. Các kỹ thuật
hiện đại đã cải thiện hiệu quả chuyển DNA, tăng sự đa dạng của vector để
điều hòa và tạo thuận lợi cho biểu hiện của gen trong một phạm vi rộng các
loại tế bào đích (target cell).
Chuyển gen được định nghĩa như là việc đưa DNA bên ngoài vào
genome, sao cho nó ổn định và duy trì cùng với di truyền của vật chủ. Hơn
15 năm qua, việc chuyển gen vào genome của động vật có vú đã trở thành
một công cụ thực nghiệm được làm đều đặn và đang tăng tầm quan trọng
trong công nghiệp công nghệ sinh học. Thông thường, DNA ngoại lai được
đưa vào trong phôi một tế bào bằng phương pháp vi tiêm và các phôi sống
sót sau đó được cấy vào con cái thụ tinh giả và cho phép phát triển tới kỳ
hạn. Trong một số phôi được cung cấp, DNA đã hợp nhất trong genome
trước khi phân chia tế bào lần thứ nhất, thể chuyển gen sẽ được chuyển qua
những lần sinh sản tiếp theo thông qua phôi.
Các kỹ thuật chuyển gen có tiềm năng ứng dụng rất lớn trong nghiên
cứu. Ở mức độ phân tử chúng cho phép xác nhận các trình tự cis-acting
DNA quan trọng trong sự biểu hiện gen đặc trưng mô và/hoặc phát triển
định hướng, và thao tác đặc biệt của sự biểu hiện gen in vivo. Với sự ra đời
của kỹ thuật tế bào mầm phôi (embryo stem-ES), và sự phát triển các
phương pháp giúp đạt được sự tái tổ hợp tương đồng, các nghiên cứu hiện
nay có khả năng tìm hiểu về chức năng của một gen đặc biệt và xác định
chắc chắn các ảnh hưởng in vitro của những biến đổi đặc biệt đến chức năng
gen. Sự đổi mới này có nhiều gợi ý quan trọng cho nhiều lĩnh vực nghiên
cứu sinh-y bao gồm thiết kế các mô hình bệnh, sử dụng mẹ như là các hệ lên
men cho việc sản xuất các protein trị liệu ở người và, cuối cùng, sửa chữa
những sai sót bẩm sinh của sự chuyển hóa bởi gen đích.
Nhập môn Công nghệ sinh học 158
1. Các phương pháp chuyển gen
Có nhiều phương pháp thích hợp để chuyển DNA ngoại lai vào trong
các tế bào eukaryote, chẳng hạn như: chuyển nhiễm (hóa biến nạp) bằng
calcium phostphate hoặc diethylaminoethyl-dextran (DEAE-dextran), xung
điện, lipofection, liposome, viral vector (kể cả các tiểu phần phage), vi tiêm,
bắn gen (vi đạn)…
Chọn phương pháp chuyển gen phụ thuộc vào mức độ biểu hiện được
mong đợi, biểu hiện trong thời gian ngắn hoặc biểu hiện ổn định; loại tế bào
đích, như tế bào dịch huyền phù hoặc tế bào dính bám, các dòng tế bào đã
thích nghi hoặc phân hóa. Mỗi phương pháp đều đòi hỏi sự tối ưu cao, bao
gồm các yếu tố như: số lượng tế bào, nồng độ DNA, các vector biểu hiện.
Tổng quan tóm tắt một số phương pháp chuyển gen thông dụng dưới đây để
mô tả kỹ thuật cơ bản, hiệu quả biểu hiện gen, và các cải tiến gần đây minh
họa cho các ứng dụng lâm sàng.
1.1. Phương pháp chuyển nhiễm (transfection)
Dùng calcium phostphate kết tủa DNA, có phạm vi hiệu quả từ 1-104
khuẩn lạc/106 tế bào/µg DNA. Sự hợp nhất của DNA ngoại lai trong DNA
tế bào mang tính ngẫu nhiên. DNA được chuyển nhiễm thường tái tổ hợp
trước khi hợp nhất làm cho thể hội nhập mang nhiều bản sao DNA trong tế
bào. Hiệu quả chuyển nạp có thể tăng ở một vài dòng tế bào được xử lý
dimethyl sulfoxide (DMSO) hoặc glycerol trong một thời gian ngắn (4-6
giờ) sau khi chuyển nhiễm. Xử lý sốc sau chuyển nhiễm bằng
chloroquindiphosphate gây độc cao. Mức độ độc thay đổi giữa các dòng tế
bào, đặc biệt các tế bào nuôi cấy dịch huyền phù và các tế bào phân hóa ở
giai đoạn cuối. Khi thay đổi calcium phosphate bằng DEAE-dextran thì
chuyển nhiễm DNA có thể ít độc hơn với mọi xử lý sốc sau chuyển nhiễm ở
tế bào nuôi cấy dịch huyền phù và tế bào phân hóa.
1.2. Phương pháp lipofection
Sử dụng các lipid trung tính hoặc mang cation để tạo thành các
liposome. Phức lipid hợp nhất với màng huyết tương sẽ phóng thích DNA
dính bám vào trong phần bào tan (cytosol). Phương pháp này cho hiệu suất
chuyển nạp cao hơn chuyển nhiễm bằng DEAE-dextran hoặc calcium
Nhập môn Công nghệ sinh học 159