CHUẨN MỰC SỐ 19
Mục đích của chuẩn mực này là quy định và hướng dẫn các nguyên tắc,
phương pháp đánh giá và ghi nhận các yếu tố của hợp đồng bảo hiểm trên báo cáo
tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm,
CHUẨN MỰC SỐ 19
HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM
(Ban hành và công bố theo Quyết định số 100/QĐ-BTC
ngày 28/12/2005 của Bộ trưởng Bộ Tài chính)
QUY ĐỊNH CHUNG
01. Mục đích của chuẩn mực này là quy định và hướng dẫn các nguyên tắc,
phương pháp đánh giá và ghi nhận các yếu tố của hợp đồng bảo hiểm trên báo cáo
tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm, gồm:
a) Phương pháp kế toán hợp đồng bảo hiểm trong các doanh nghiệp bảo
hiểm;
b) Trình bày và giải thích số liệu trong các báo cáo tài chính của doanh
nghiệp bảo
hiểm phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm.
02. Chuẩn mực này áp dụng đối với:
a) Kế toán hợp đồng bảo hiểm (bao gồm cả hợp đồng nhận tái và nhượng
tái bảo
hiểm);
b) Các công cụ tài chính với đặc điểm là có phần không đảm bảo gắn liền
với Hợp đồng bảo hiểm do doanh nghiệp bảo hiểm phát hành
03. Chuẩn mực này không áp dụng cho kế toán các hoạt động khác của
doanh nghiệp bảo hiểm, như: Kế toán tài sản tài chính do các doanh nghiệp bảo
hiểm sở hữu và kế toán các công cụ nợ tài chính do các doanh nghiệp bảo hiểm phát
hành nhưng không gắn liền với hợp đồng bảo hiểm.
04. Chuẩn mực này không áp dụng đối với:
a) Giấy bảo hành sản phẩm, hàng hoá;
b) Tài sản và các khoản nợ phải trả cho người lao động;
c) Các quyền và nghĩa vụ mang tính hợp đồng liên quan đến việc sử dụng
hoặc quyền được sử dụng trong tương lai một khoản phi tài chính (Ví dụ: Phí đăng
ký, phí bản quyền, tiền chi trả hợp đồng phát sinh đột xuất và các khoản tương tự
khác), cũng như đảm bảo giá trị còn lại của bên thuê trong một hợp đồng thuê tài
chính (quy định tại Chuẩn mực kế toán số 06 – "Thuê tài sản"; Chuẩn mực kế toán
số 14 – "Doanh thu và thu nhập khác" và Chuẩn mực kế toán số 04 – "TSCĐ vô
hình");
d) Các cam kết bảo lãnh tài chính do doanh nghiệp cam kết thực hiện hoặc
giữ lại để chuyển giao cho một bên khác về tài sản tài chính hoặc công cụ nợ tài
chính thuộc phạm vi điều chỉnh của chuẩn mực kế toán "Công cụ tài chính" (Các
cam kết tài chính có thể được thể hiện dưới các hình thức như: Các bảo đảm tài
chính, thư tín dụng);
e) Các khoản phải thu hay phải trả tiềm tàng trong hoạt động hợp nhất kinh
doanh (quy định tại Chuẩn mực kế toán số 11 - Hợp nhất kinh doanh);
f) Các hợp đồng bảo hiểm gốc mà doanh nghiệp bảo hiểm là bên mua bảo
hiểm.
05. Các thuật ngữ trong chuẩn mực này được hiểu như sau:
Doanh nghiệp bảo hiểm: Là bên tham gia vào một hợp đồng bảo hiểm,
có nghĩa vụ phải trả tiền bồi thường cho chủ hợp đồng theo quy định của
hợp đồng trong trường hợp có sự kiện được bảo hiểm xảy ra.
Hợp đồng bảo hiểm: Là một hợp đồng mà doanh nghiệp bảo hiểm
thoả thuận một khoản tiền (gọi là phí bảo hiểm) và chấp nhận rủi ro bảo
hiểm trọng yếu từ khách hàng (chủ hợp đồng) bằng các thoả thuận bồi
thường cho chủ hợp đồng nếu có sự kiện xảy ra trong tương lai gây tổn thất
tới chủ hợp đồng.
Hợp đồng bảo hiểm gốc: Là hợp đồng bảo hiểm do doanh nghiệp bảo
hiểm ký trực tiếp với tổ chức, cá nhân mua bảo hiểm mà không phải là hợp
đồng tái bảo hiểm.
Chủ hợp đồng: Là bên có quyền được nhận khoản bồi thường theo
quy định tại hợp đồng bảo hiểm trong trường hợp một sự kiện được bảo
hiểm xảy ra.
Hợp đồng tái bảo hiểm: Là hợp đồng bảo hiểm do doanh nghiệp nhận
tái bảo hiểm phát hành để bồi thường cho doanh nghiệp nhượng tái đối với
những tổn thất của một hay nhiều hợp đồng bảo hiểm do doanh nghiệp
nhượng tái phát hành.
Doanh nghiệp nhượng tái bảo hiểm: Là doanh nghiệp bảo hiểm gốc
chuyển giao rủi ro bằng hình thức tái bảo hiểm.
Rủi ro bảo hiểm: Là những rủi ro ngoài rủi ro tài chính được chuyển
từ chủ hợp đồng bảo hiểm sang doanh nghiệp bảo hiểm.
Khoản nợ bảo hiểm: Là các nghĩa vụ thuần theo hợp đồng bảo hiểm
của doanh nghiệp bảo hiểm.
Tài sản bảo hiểm: Là giá trị quyền thuần theo hợp đồng bảo hiểm của
doanh nghiệp bảo hiểm.
Khoản đặt cọc: Là một phần của hợp đồng nhưng không được hạch
toán là công cụ phái sinh theo quy định của chuẩn mực kế toán "Công cụ tài
chính" và sẽ thuộc phạm vi của chuẩn mực kế toán "Công cụ tài chính" nếu
nó là một công cụ riêng biệt.
Các nhân tố được đảm bảo: Là nghĩa vụ phải trả các lợi ích được đảm
bảo, đã ghi trong nội dung hợp đồng.
Các lợi ích được đảm bảo: Là các khoản thanh toán hoặc các lợi ích
khác mà chủ hợp đồng hay nhà đầu tư được hưởng một cách vô điều kiện mà
theo hợp đồng không nằm trong quyền quyết định của doanh nghiệp bảo
hiểm.
Tài sản tái bảo hiểm: Là quyền thuần theo hợp đồng của nhà nhượng
tái trong hợp đồng tái bảo hiểm.
Phần không đảm bảo: Là một quyền dựa trên hợp đồng để nhận một
số các lợi ích như một phần bổ sung cho các lợi ích được đảm bảo:
a) Các lợi ích này phải là một phần đáng kể của toàn bộ lợi ích thoả
thuận trong hợp đồng;
b) Giá trị và thời điểm nhận được các lợi ích này theo hợp đồng tuỳ
thuộc vào ý muốn của bên phát hành; và
c) Các lợi ích theo hợp đồng này dựa trên:
(i) Mức độ hiệu quả của một nhóm các hợp đồng cụ thể hoặc của một
loại hợp đồng cụ thể;
(ii) Lãi từ những khoản đầu tư đã hoặc chưa thực hiện từ một nhóm
tài sản cụ thể do bên phát hành sở hữu; hoặc
(iii) Lợi nhuận hay số thua lỗ của một công ty, một quỹ hay bất kỳ một
đơn vị nào khác phát hành hợp đồng.
Công khai: Là việc hạch toán và có thể cung cấp thông tin về các bộ
phận của một hợp đồng nếu chúng là những hợp đồng riêng rẽ.
Giá trị hợp lý: Là giá trị tài sản có thể được trao đổi, hoặc một khoản
nợ được thanh toán giữa các bên có đầy đủ hiểu biết trong sự trao đổi ngang
giá.
Rủi ro tài chính: Là rủi ro xảy ra khi có sự thay đổi trong tương lai của
một hay các yếu tố như: Lãi suất, giá của công cụ tài chính, giá hàng hoá, tỷ
giá hối đoái, chỉ số giá cả, tỷ suất tín dụng, chỉ số tín dụng hoặc các biến số
khác, kể cả các biến số phi tài chính mà các biến số này không được quy định
cụ thể trong hợp đồng.
Công cụ tài chính: Là một hợp đồng trong đó một doanh nghiệp trong
hợp đồng tạo ra một tài sản tài chính, đồng thời một doanh nghiệp khác
trong hợp đồng lại tạo ra một khoản nợ tài chính hay một công cụ vốn tự có.
Công cụ phái sinh: Là công cụ tài chính mà giá trị của nó thay đổi do có
sự thay đổi của một đối tượng cơ sở, đối tượng này không đòi hỏi hay chỉ đòi
hỏi một khoản đầu tư ròng ban đầu rất nhỏ so với các hợp đồng khác, và sẽ
được thanh toán vào một thời điểm trong tương lai.
Các sự kiện được bảo hiểm: Là những sự kiện có thể xảy ra rủi ro
trong tương lai được ghi trong hợp đồng bảo hiểm.
Kiểm tra tính đầy đủ của khoản nợ: Là việc đánh giá nhằm xác định
xem giá trị ghi sổ của một khoản nợ bảo hiểm có cần phải được tăng lên hay
không (hoặc giá trị ghi sổ của những chi phí khai thác chờ phân bổ hoặc
những tài sản vô hình có liên quan có cần phải được giảm đi hay không) dựa
trên việc xem xét các dòng tiền trong tương lai.
NỘI DUNG CHUẨN MỰC
Công cụ phái sinh
06. Chuẩn mực kế toán "Công cụ tài chính" quy định các doanh nghiệp phải
tách và xác định công cụ phái sinh từ hợp đồng bảo hiểm gốc theo giá trị hợp lý, và
ghi nhận những khoản chênh lệch do thay đổi giá trị hợp lý vào Báo cáo kết quả
hoạt động kinh doanh năm tài chính. Chuẩn mực kế toán "Công cụ tài chính" áp
dụng cho các công cụ phái sinh gắn liền với một hợp đồng bảo hiểm cụ thể, trừ khi
chính công cụ phái sinh này là một hợp đồng bảo hiểm.
07. Chuẩn mực kế toán "Công cụ tài chính" quy định trường hợp ngoại lệ là:
Doanh nghiệp bảo hiểm không cần phải tách công cụ phái sinh từ hợp đồng bảo
hiểm gốc và xác định giá trị hợp lý của giá hoàn lại khi bên mua bảo hiểm chấm dứt
hợp đồng bảo hiểm (đây là khoản cố định hoặc là khoản cố định gộp với một
khoản lãi nào đó), thậm chí giá trị hiện tại của khoản nợ bảo hiểm khác với giá trị
ghi sổ của nó. Tuy nhiên, chuẩn mực kế toán "Công cụ tài chính" áp dụng cho
quyền chọn và chấm dứt hợp đồng bảo hiểm nếu nhận giá trị hoàn lại gắn liền
trong hợp đồng bảo hiểm và giá trị hoàn lại này dao động theo sự thay đổi của biến
số tài chính (Ví dụ: Chỉ số chứng khoán, giá cả hàng hoá hay chỉ số giá cả), hoặc do
sự thay đổi của biến số phi tài chính mà không phải do bất kỳ một bên nào trong
hợp đồng. Quy định này cũng áp dụng đối với khả năng thực hiện quyền chọn hoặc
quyền chấm dứt hợp đồng do sự thay đổi của các biến số trên (Ví dụ: Quyền chọn
bán có thể thực hiện được nếu có một chỉ số chứng khoán đạt được một mức độ
cụ thể nào đó).
08. Đoạn 07 có thể áp dụng đối với quyền chấm dứt một công cụ tài chính
có đặc điểm không đảm bảo.
Công khai khoản tiền đặt cọc
09. Một số hợp đồng bảo hiểm bao gồm cả phần bảo hiểm và phần đặt
cọc, doanh nghiệp bảo hiểm được quyền lựa chọn công khai hay không công khai
khoản tiền đặt cọc theo quy định sau:
a) Khoản tiền đặt cọc phải công khai nếu thoả mãn cả hai điều kiện sau:
(i) Doanh nghiệp bảo hiểm có thể xác định riêng rẽ được khoản tiền đặt cọc
bao gồm bất kỳ quyền chấm dứt nào đi kèm và không xét đến phần bảo hiểm;
(ii) Chính sách kế toán của doanh nghiệp bảo hiểm không yêu cầu phải ghi
nhận tất cả quyền và nghĩa vụ phát sinh từ khoản tiền đặt cọc này như ví dụ tại
đoạn 10.
b) Không bắt buộc phải công khai trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm
xác định được khoản tiền đặt cọc một cách riêng rẽ như quy định tại điểm (a/i)
nhưng chính sách kế toán đòi hỏi doanh nghiệp bảo hiểm phải ghi nhận tất cả các
quyền và nghĩa vụ phát sinh từ khoản tiền đặt cọc, không tính đến cơ sở được sử
dụng để tính toán những quyền và nghĩa vụ đó.
c) Không phải công khai trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm không thể
xác định được khoản tiền đặt cọc một cách riêng rẽ như quy định tại điểm (a/i).
10. Ví dụ trường hợp các chính sách kế toán của doanh nghiệp bảo hiểm
không yêu cầu phải ghi nhận tất cả nghĩa vụ phát sinh từ khoản tiền đặt cọc:
Doanh nghiệp nhượng tái bảo hiểm nhận khoản tiền đặt cọc để thanh toán
tổn thất trong tương lai từ các doanh nghiệp nhận tái bảo hiểm nhưng theo hợp
đồng thì doanh nghiệp nhượng tái bảo hiểm phải có trách nhiệm hoàn trả khoản
tiền đặt cọc này trong những năm tới. Nếu chính sách kế toán của doanh nghiệp
nhượng tái cho phép họ ghi nhận khoản đặt cọc này là thu nhập, mà không ghi nhận
là khoản phải trả thì bắt buộc phải công khai.
11. Để đáp ứng yêu cầu công khai báo cáo tài chính, doanh nghiệp bảo hiểm
phải áp dụng:
a) Chuẩn mực này đối với phần bảo hiểm;
b) Chuẩn mực "Công cụ tài chính" đối với khoản tiền đặt cọc.
Đánh giá và ghi nhận
Áp dụng chính sách kế toán
12. Doanh nghiệp bảo hiểm phải áp dụng các chính sách kế toán:
a) Không được trích lập và ghi nhận khoản dự phòng để bồi thường trong
tương lai, nếu các yêu cầu đòi bồi thường phát sinh từ các hợp đồng này không tồn
tại tại thời điểm khoá sổ lập báo cáo tài chính (Ví dụ: Dự phòng dao động lớn hay
dự phòng đảm bảo cân đối);
b) Phải kiểm tra tính đầy đủ của các khoản nợ phải trả quy định trong đoạn
13-17.
c) Xoá bỏ một khoản nợ bảo hiểm (hoặc một phần của khoản nợ bảo
hiểm) ra khỏi Bảng cân đối kế toán khi nó đã được thanh toán, được huỷ bỏ hay hết
hạn.
d) Doanh nghiệp bảo hiểm không được bù trừ:
(i) Các tài sản tái bảo hiểm với các khoản nợ bảo hiểm liên quan; hoặc
(ii) Thu nhập hay chi phí của những hợp đồng tái bảo hiểm với các chi phí
hay thu nhập của các hợp đồng bảo hiểm liên quan;
đ) Cần phải xem xét, đánh giá mức độ giảm giá của các tài sản tái bảo hiểm
như quy định tại đoạn 18.
Kiểm tra tính đầy đủ của các khoản nợ bảo hiểm
13. Tại thời điểm khoá sổ lập báo cáo tài chính, doanh nghiệp bảo hiểm
phải đánh giá việc ghi nhận các khoản nợ bảo hiểm đã đầy đủ hay chưa, bằng cách
ước tính giá trị hiện tại của các luồng tiền phát sinh trong tương lai theo quy định
trong hợp đồng bảo hiểm. Nếu đánh giá đó cho thấy giá trị ghi sổ của những khoản
nợ bảo hiểm (sau khi trừ đi những chi phí khai thác chờ phân bổ và các tài sản vô
hình có liên quan như quy định trong đoạn 27 và 28) là không đủ so với các luồng
tiền ước tính trong tương lai, thì toàn bộ số thiếu hụt này sẽ được phản ánh vào
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.
14. Doanh nghiệp bảo hiểm phải kiểm tra tính đầy đủ của các khoản nợ bảo
hiểm xem có thoả mãn những yêu cầu tối thiểu dưới đây hay không:
a) Kiểm tra, xem xét các ước tính hiện tại của tất cả các luồng tiền theo hợp
đồng và các luồng tiền có liên quan (các chi phí giải quyết khiếu nại) cũng như các
luồng tiền phát sinh từ những quyền lựa chọn và đảm bảo đi kèm.
b) Nếu qua kiểm tra cho thấy việc tính toán các khoản nợ là không đầy đủ
thì toàn bộ số thiếu hụt này sẽ được hạch toán vào Báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh.
Khi lập báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh nộp cho cơ quan quản lý bảo
hiểm (Bộ Tài chính), các doanh nghiệp bảo hiểm phải tuân theo quy định của các cơ
chế tài chính đối với chi phí khai thác.
15. Trường hợp chính sách kế toán của doanh nghiệp bảo hiểm không quy
định phải kiểm tra tính đầy đủ của khoản nợ xem có thoả mãn những yêu cầu tối
thiểu trong đoạn 14 hay không, doanh nghiệp bảo hiểm phải:
a) Xác định khoản chênh lệch giữa giá trị ghi sổ của các khoản nợ bảo hiểm
tương ứng với giá trị ghi sổ của:
(i) Những chi phí khai thác có liên quan chờ phân bổ; và
(ii) Bất kì một tài sản vô hình nào có liên quan như các tài sản có được từ
hợp nhất doanh nghiệp hay chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm như quy định tại
đoạn 27 và 28. Tuy nhiên, các tài sản tái bảo hiểm liên quan không được xem xét vì
chúng đã được hạch toán một cách riêng rẽ như quy định tại đoạn 18.
b) Xác định xem số liệu được nêu trong đoạn (a) có thấp hơn giá trị ghi sổ
của nó hay không, nếu các khoản nợ bảo hiểm tương ứng thuộc phạm vi của
Chuẩn mực kế toán "Các khoản dự phòng, tài sản và nợ tiềm tàng". Trường hợp
phát sinh chênh lệch nhỏ hơn, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ phải ghi nhận toàn bộ
khoản chênh lệch đó vào Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và ghi giảm giá trị
ghi sổ của những chi phí khai thác hợp đồng chờ phân bổ hoặc các tài sản vô hình
có liên quan hoặc ghi tăng giá trị ghi sổ của những khoản nợ bảo hiểm tương ứng.
16. Nếu việc kiểm tra tính đầy đủ của khoản nợ bảo hiểm thoả mãn được
những yêu cầu tối thiểu quy định tại đoạn 14 thì việc kiểm tra sẽ được áp dụng ở
mức độ tổng thể. Ngược lại nếu việc kiểm tra tính đầy đủ của khoản nợ bảo hiểm
không thoả mãn những yêu cầu tối thiểu, thì cách tính trong đoạn 15 được sử dụng
ở mức độ của từng nhóm hợp đồng có mức độ rủi ro tương tự và coi như một
nhóm danh mục đơn lẻ.
17. Số liệu tính được theo quy định tại đoạn 15(b) (Ví dụ: Kết quả của việc
áp dụng Chuẩn mực "Các khoản dự phòng, tài sản và nợ tiềm tàng") sẽ phản ảnh tỷ
suất lợi nhuận đầu tư trong tương lai như quy định tại đoạn 24 - 26 khi số liệu tính
được theo quy định tại đoạn 15(a) cũng phản ánh những tỷ suất lợi nhuận đó.
Sự giảm giá trị của các tài sản tái bảo hiểm
18. Nếu như các tài sản tái bảo hiểm của doanh nghiệp nhượng tái bị giảm
giá trị thì có thể giảm giá trị ghi sổ một cách thích hợp và ghi nhận sự giảm giá trị
trong báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Một tài sản tái bảo hiểm bị giảm giá
trị khi:
a) Có bằng chứng chắc chắn là kết quả của một sự kiện phát sinh sau khi
ghi nhận tài sản tái bảo hiểm, theo đó doanh nghiệp nhượng tái có thể không thu
hồi được toàn bộ số phải thu theo điều khoản của hợp đồng tái bảo hiểm;
b) Có thể đo lường được một cách đáng tin cậy những ảnh hưởng của sự
kiện đó đối với số phải thu của doanh nghiệp nhượng tái từ doanh nghiệp nhận tái.
Những thay đổi trong chính sách kế toán
19. Doanh nghiệp bảo hiểm có thể thay đổi các chính sách kế toán đối với
hợp đồng bảo hiểm khi và chỉ khi những thay đổi này làm cho các báo cáo tài chính
trở nên thích hợp hơn đối với yêu cầu ra quyết định kinh tế của người sử dụng báo
cáo mà không làm giảm độ tin cậy hoặc tăng độ tin cậy mà không giảm tính thích
hợp đối với những yêu cầu này. Doanh nghiệp bảo hiểm có thể đánh giá mức độ tin
cậy và thích hợp dựa trên những tiêu chuẩn trong Chuẩn mực kế toán số 29 – "Thay
đổi chính sách kế toán, ước tính kế toán và các sai sót".
20. Để lý giải cho việc thay đổi chính sách kế toán đối với các hợp đồng bảo
hiểm, Doanh nghiệp bảo hiểm phải chứng minh được những thay đổi này sẽ làm
cho các báo cáo tài chính phù hợp hơn với các quy định trong Chuẩn mực số 29,
nhưng những thay đổi này không nhất thiết phải hoàn toàn tuân theo những quy định
đó, cụ thể các nội dung sau:
a) Lãi suất thị trường hiện hành (đoạn 21);
b) Tiếp tục thực hiện các chính sách kế toán hiện hành (đoạn 22);
c) Thận trọng (đoạn 23);
d) Tỷ suất đầu tư trong tương lai (đoạn 24 - 26).
Lãi suất thị trường hiện hành
21. Doanh nghiệp bảo hiểm được phép, nhưng không bắt buộc phải thay đổi
các chính sách kế toán để tính lại các khoản nợ bảo hiểm theo lãi suất thị trường
hiện hành và ghi nhận những thay đổi của các khoản nợ đó trong Báo cáo kết quả
hoạt động kinh doanh. Tại thời điểm đó, họ cũng có thể áp dụng các chính sách kế
toán mà có yêu cầu các ước tính hiện tại và các giả định khác để xác định các khoản
nợ bảo hiểm theo công thức đã định sẵn. Không áp dụng các chính sách kế toán này
một cách nhất quán cho tất cả các khoản nợ tương tự khác vì Chuẩn mực kế toán
số 29 đã có hướng dẫn khác cho các khoản nợ này. Nếu như doanh nghiệp bảo
hiểm lựa chọn cách xác định nợ bảo hiểm theo cách này, họ sẽ tiếp tục sử dụng lãi
suất thị trường hiện hành (nếu có thể và các ước tính, giả định hiện hành khác - nếu
có) một cách nhất quán trong tất cả các kỳ báo cáo và cho tất cả các khoản nợ này
cho tới khi chúng được thanh toán.
Tiếp tục thực hiện các chính sách kế toán hiện hành
22. Nếu sự thay đổi chính sách kế toán không thoả mãn các quy định nêu tại
đoạn 19, doanh nghiệp bảo hiểm có thể tiếp tục thực hiện các chính sách kế toán
hiện hành như
a) Xác định khoản nợ bảo hiểm trên cơ sở không chiết khấu.
b) Xác định các quyền theo hợp đồng đối với các khoản phí quản lý đầu tư
trong tương lai với giá trị vượt quá giá trị hợp lý của chúng, như những giá trị này
được tính toán bằng cách so sánh với mức phí của các doanh nghiệp cung cấp những
dịch vụ tương tự trên thị trường. Hầu như chắc chắn rằng những giá trị hợp lý tại
thời điểm ban đầu sẽ bằng với các chi phí gốc, chỉ trừ khi các khoản phí quản lý
đầu tư chứng khoán trong tương lai và các chi phí có liên quan không phù hợp với
những chi phí tương tự trên thị trường.
c) Sử dụng các chính sách kế toán không đồng nhất cho các hợp đồng bảo
hiểm (các chi phí khai thác chờ phân bổ và các tài sản vô hình có liên quan) của các
công ty con, trừ các trường hợp đã được quy định trong đoạn 21. Nếu các chính sách
kế toán này không đồng nhất, doanh nghiệp bảo hiểm phải thay đổi các chính sách
này nếu như sự thay đổi đó không làm các chính sách kế toán thay đổi nhiều hơn và
vẫn thoả mãn các yêu cầu khác trong chuẩn mực này.
Thận trọng
23. Trường hợp đang áp dụng nguyên tắc kế toán thận trọng, doanh nghiệp
bảo hiểm không nhất thiết phải thay đổi các chính sách kế toán đối với các hợp
đồng bảo hiểm để làm giảm sự thận trọng đó. Tuy nhiên nếu doanh nghiệp bảo
hiểm đã và đang áp dụng các chính sách đối với hợp đồng bảo hiểm với một mức
độ thận trọng vừa đủ thì không cần thiết phải tăng thêm mức độ thận trọng này.
Tỷ suất đầu tư trong tương lai
24. Doanh nghiệp bảo hiểm không nhất thiết phải thay đổi các chính sách kế
toán cho các hợp đồng bảo hiểm để tính toán lại tỷ suất đầu tư trong tương lai. Tuy
nhiên có một giả định là báo cáo tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm có thể sẽ
giảm độ hợp lý và tin cậy nếu như họ sử dụng chính sách kế toán để phản ánh tỷ
suất đầu tư trong tương lai nhằm tính toán các hợp đồng bảo hiểm, trừ khi những
tỷ suất đó phản ánh khoản phải thanh toán theo hợp đồng.
Ví dụ về các chính sách kế toán phản ánh những tỷ suất đầu tư trong tương
lai:
a) Sử dụng tỷ lệ chiết khấu phản ảnh tiền lãi được ước tính trên tài sản của
doanh nghiệp bảo hiểm; hoặc
b) Đưa ra dự kiến mức hoàn vốn trên các tài sản này với một tỷ lệ hoàn vốn
ước tính, chiết khấu các khoản hoàn vốn dự kiến đó bằng các tỷ lệ khác nhau và
bao gồm cả những kết quả tính toán nợ bảo hiểm.
25. Doanh nghiệp bảo hiểm có thể khắc phục giả định nêu ở đoạn 24 chỉ khi
các sự thay đổi khác trong chính sách kế toán với mức tăng tính hợp lý và độ tin cậy
của các báo cáo tài chính lớn hơn mức giảm tính hợp lý và độ tin cậy gây ra bởi tỷ
suất đầu tư tương lai.
Ví dụ: Các chính sách kế toán hiện tại của doanh nghiệp bảo hiểm đối với
các hợp đồng bảo hiểm bao hàm các giả định quá thận trọng được đặt ra tại thời
điểm ban đầu và một tỷ lệ chiết khấu theo qui định mà không cần tham khảo thực
trạng thị trường, bỏ qua một số quyền chọn cũng như bảo đảm đi kèm. Trong
trường hợp này, doanh nghiệp bảo hiểm có thể làm cho báo cáo tài chính trở lên hợp
lý hơn mà không làm giảm độ tin cậy bằng cách chuyển sang một số thay đổi, có sự
chú ý hơn cho mục đích đầu tư và được sử dụng một cách rộng rãi hơn, liên quan
đến:
a) Các ước tính và giả định hiện hành;
b) Sự điều chỉnh hợp lý (nhưng không quá thận trọng) để phản ánh rủi ro và
tính không chắc chắn;
c) Việc xác định phản ánh cả giá trị thực và giá trị thời gian của quyền lựa
chọn và đảm bảo đính kèm;
d) Tỷ lệ chiết khấu thị trường hiện hành, thậm chí tỷ lệ chiết khấu đó phản
ánh tỷ lệ lãi ước tính trên tài sản của doanh nghiệp bảo hiểm.
26. Trong một số phương pháp tính toán, tỷ lệ chiết khấu được dùng để xác
định giá trị hiện tại của khoản lợi nhuận trong tương lai. Khoản lợi nhuận này
được quy về từng giai đoạn khác nhau theo một công thức. Trong những phương
pháp đó, có phương pháp tỷ lệ chiết khấu tác động đến việc tính toán các khoản nợ
một cách gián tiếp. Cụ thể phương pháp sử dụng tỷ lệ chiết khấu không hợp lý có
thể có những tác động nhất định hoặc là không có tác động gì đối với việc tính toán
các khoản nợ tại thời điểm ban đầu. Tuy nhiên, trong những phương pháp khác, tỷ
lệ chiết khấu xác định việc tính toán các khoản nợ một cách trực tiếp, thì việc sử
dụng tỷ lệ chiết khấu dựa trên tài sản có ảnh hưởng đáng kể hơn, nên hầu như
doanh nghiệp bảo hiểm sẽ không thể khắc phục được giả định nêu trong đoạn 24.
Các hợp đồng bảo hiểm thu được từ hợp nhất kinh doanh hay chuyển giao có
tính mua lại hợp đồng bảo hiểm
27. Theo Chuẩn mực kế toán số 11- "Hợp nhất kinh doanh", trong ngày hợp
nhất doanh nghiệp bảo hiểm có thể tính toán giá trị hợp lý các khoản nợ bảo hiểm
ước tính và các tài sản bảo hiểm được thu nhận trong hợp nhất kinh doanh. Tuy
nhiên, doanh nghiệp bảo hiểm được phép nhưng không bắt buộc sử dụng cách trình
bày để tách biệt giá trị hợp lý của các hợp đồng bảo hiểm thu nhận được thành 2
phần:
a) Nợ được xác định giá trị dựa trên cơ sở các chính sách kế toán của doanh
nghiệp bảo hiểm đối với các hợp đồng bảo hiểm mà họ phát hành; và
b) Tài sản vô hình đại diện cho sự khác biệt giữa:
i) Giá trị hợp lý của các quyền bảo hiểm trong hợp đồng được thu nhận và
các nghĩa vụ bảo hiểm ước tính;
ii) Giá trị khoản nợ nêu tại điểm a.
Sau đó việc tính toán tài sản này sẽ phải nhất quán với tính toán của khoản
nợ bảo hiểm có liên quan.
28. Doanh nghiệp bảo hiểm nhận chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm có
thể dùng phương thức trình bày chi tiết hơn như đã mô tả trong đoạn 27.
29. Các tài sản vô hình quy định tại đoạn 27, 28 không thuộc phạm vi của
Chuẩn mực "Tổn thất tài sản" và Chuẩn mực "Tài sản cố định vô hình". Tuy
nhiên, Chuẩn mực "Tổn thất tài sản" và Chuẩn mực "Tài sản cố định vô hình"
được áp dụng cho các khách hàng liên quan đến các hợp đồng tương lai mà các
quyền hoặc nghĩa vụ bảo hiểm trong hợp đồng không hiện hữu tại ngày hợp nhất
kinh doanh hoặc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm.
Phần không đảm bảo
Phần không đảm bảo trong hợp đồng bảo hiểm
30. Một số hợp đồng bảo hiểm có phần đảm bảo và phần không đảm bảo.
Đối với các hợp đồng này doanh nghiệp bảo hiểm áp dụng quy định sau:
a) Có thể, nhưng không nhất thiết phải hạch toán riêng phần đảm bảo và
phần không đảm bảo. Nếu doanh nghiệp bảo hiểm không ghi nhận một cách riêng
rẽ, thì có thể xác định toàn bộ hợp đồng bảo hiểm như một khoản nợ phải trả. Nếu
doanh nghiệp bảo hiểm phân loại một cách riêng rẽ, thì có thể xác định phần có
đảm bảo như một khoản nợ phải trả.
b) Trường hợp ghi nhận riêng rẽ phần không đảm bảo và phần có đảm bảo,
doanh nghiệp bảo hiểm có thể ghi nhận phần không đảm bảo là một khoản nợ
phải trả, (hoặc là một phần riêng biệt của nguồn vốn chủ sở hữu). Chuẩn mực này
không quy định phương pháp xác định phần không đảm bảo là một khoản nợ hay
vốn chủ sở hữu, doanh nghiệp bảo hiểm có thể chia thành phần thuộc khoản nợ
phải trả hoặc vốn chủ sở hữu và phải áp dụng một cách nhất quán, mà không được
xác định phần này như là một phần trung gian ở giữa nợ phải trả hoặc vốn chủ sở
hữu.
c) Có thể ghi nhận tất cả các khoản phí bảo hiểm nhận được như là doanh
thu mà không phải tách riêng bất kỳ phần nào có liên quan đến vốn chủ sở hữu. Kết
quả của sự thay đổi phần có đảm bảo và phần không đảm bảo khi được phân loại
là khoản nợ phải trả sẽ được ghi nhận trong Báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh. Nếu một phần hoặc toàn bộ phần không đảm bảo được phân loại trong vốn
chủ sở hữu, thì một phần của lãi hoặc lỗ sẽ được tính cho phần không đảm bảo
(cũng giống cách tính lợi ích của cổ đông thiểu số) thì doanh nghiệp bảo hiểm có
thể ghi nhận một phần của lãi hoặc lỗ quy cho bất kỳ một phần nào của vốn chủ
sở hữu thuộc phần không đảm bảo như một khoản phân phối lãi hoặc lỗ chứ không
phải thu nhập hay chi phí (quy định tại Chuẩn mực kế toán số 21 "Trình bày báo cáo
tài chính").
d) Có thể áp dụng Chuẩn mực "Công cụ tài chính", nếu trong hợp đồng bảo
hiểm có công cụ phái sinh thuộc phạm vi của Chuẩn mực “Công cụ tài chính”.
e) Có thể tiếp tục áp dụng các chính sách kế toán hiện hành cho những hợp
đồng đối với những vấn đề không được quy định trong các đoạn 12 – 18 và 30 (a),
30 (d) trừ khi doanh nghiệp bảo hiểm thay đổi các chính sách kế toán theo quy định
tại các đoạn 19 – 26.
Phần không đảm bảo trong các công cụ tài chính của hợp đồng bảo hiểm
31. Các quy định trong đoạn 30 cũng được áp dụng cho một công cụ tài chính
có phần không đảm bảo, ngoài ra:
a) Nếu doanh nghiệp bảo hiểm phân loại toàn bộ phần không đảm bảo là
một khoản nợ phải trả, họ có thể áp dụng việc kiểm tra tính đầy đủ của các khoản
nợ phải trả theo quy định tại các đoạn từ 14 – 17 cho toàn bộ hợp đồng (Bao gồm
cả phần có đảm bảo và phần không đảm bảo). Doanh nghiệp bảo hiểm không cần
phải xác định giá trị phần có đảm bảo do đã áp dụng Chuẩn mực "Công cụ tài
chính".
b) Nếu doanh nghiệp bảo hiểm phân loại một phần hay toàn bộ phần không
đảm bảo như một phần riêng biệt của vốn chủ sở hữu thì khoản nợ được ghi nhận
cho toàn bộ hợp đồng không được nhỏ hơn giá trị của phần có đảm bảo theo quy
định của Chuẩn mực "Công cụ tài chính". Giá trị này bao gồm giá trị của quyền
chọn có thể thực hiện đối với quyền chấm dứt hợp đồng nhưng không nhất thiết
phải bao gồm cả giá trị thời gian nếu như đã miễn trừ quyền chọn không phải đánh
giá theo giá trị hợp lý (Theo đoạn 08). Doanh nghiệp bảo hiểm không phải công khai
giá trị phần có đảm bảo theo quy định của Chuẩn mực "Công cụ tài chính" và cũng
không cần phải trình bày khoản này một cách riêng rẽ. Ngoài ra doanh nghiệp bảo
hiểm không nhất thiết phải xác định khoản này nếu toàn bộ khoản nợ phải trả đã
được ghi nhận rõ ràng.
c) Mặc dù những hợp đồng này là các công cụ tài chính, song doanh nghiệp
bảo hiểm có thể hạch toán các khoản thu phí của những hợp đồng này vào doanh
thu và ghi nhận phần tăng lên đối với giá trị ghi sổ của khoản nợ phải trả là chi phí.
Trình bày báo cáo tài chính
Giải thích các khoản được ghi nhận
32. Doanh nghiệp bảo hiểm phải trình bày rõ ràng các thông tin giúp người
sử dụng nhận biết và giải thích các số liệu phát sinh từ các hợp đồng bảo hiểm
trong báo cáo tài chính.
33. Để tuân thủ quy định tại đoạn 32, doanh nghiệp bảo hiểm phải trình bày
rõ ràng:
a) Các chính sách kế toán đối với các hợp đồng bảo hiểm và các tài sản, các
khoản nợ phải trả, doanh thu và chi phí có liên quan.
b) Tài sản, các khoản nợ phải trả, doanh thu và chi phí được ghi nhận (và các
luồng tiền nếu Báo cáo lưu chuyển tiền tệ lập theo phương pháp trực tiếp) phát
sinh từ các hợp đồng bảo hiểm. Trong trường hợp nhượng tái bảo hiểm, doanh
nghiệp phải trình bày:
(i) Các khoản lãi hay lỗ được ghi nhận trong Báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh từ hoạt động nhượng tái bảo hiểm;
(ii) Nếu doanh nghiệp nhượng tái giữ lại và phân bổ dần các khoản lãi hay
lỗ phát sinh từ nhượng tái bảo hiểm, thì phải trình bày khoản phân bổ trong kỳ và
khoản chờ phân bổ vào đầu và cuối kỳ.
c) Quy trình được sử dụng để xác định những giả định có ảnh hưởng lớn
nhất đối với việc đánh giá các khoản được ghi nhận như đã nêu trong đoạn (33/b).
Trường hợp có thể, doanh nghiệp bảo hiểm nên trình bày số liệu liên quan đến các
giả định này.
d) Ảnh hưởng của những thay đổi trong các giả định được sử dụng để đánh
giá các tài sản bảo hiểm và các khoản nợ bảo hiểm, trình bày riêng những ảnh
hưởng của từng sự thay đổi mà có ảnh hưởng trọng yếu lên các báo cáo tài chính.
e) Đối chiếu các thay đổi của các khoản nợ bảo hiểm, các tài sản liên quan
đến tái bảo hiểm, và các chi phí khai thác có liên quan chờ phân bổ (nếu có).
Giá trị, thời gian và tính không chắc chắn của các luồng tiền trong tương lai
của hợp đồng bảo hiểm
34. Doanh nghiệp bảo hiểm phải trình bày rõ ràng mọi thông tin để giúp cho
người sử dụng hiểu được giá trị, thời gian và tính không chắc chắn của luồng tiền
trong tương lai của các hợp đồng bảo hiểm.
35. Để thực hiện theo quy định tại đoạn 34, doanh nghiệp bảo hiểm phải
trình bày rõ ràng:
a) Các mục tiêu trong việc quản lý rủi ro phát sinh từ các hợp đồng bảo
hiểm và các chính sách trong việc làm giảm bớt các rủi ro này;
b) Các điều khoản và điều kiện của hợp đồng có ảnh hưởng trọng yếu đến
giá trị, thời gian và tính không chắc chắn của luồng tiền trong tương lai của các hợp
đồng bảo hiểm;
c) Thông tin về rủi ro bảo hiểm (cả trước và sau khi rủi ro được chia sẻ
bằng tái bảo hiểm), bao gồm thông tin về:
(i) Tính nhạy cảm của lãi hay lỗ và vốn chủ sở hữu đối với những thay đổi
của các biến số có ảnh hưởng trọng yếu lên chúng;
(ii) Sự tập trung của rủi ro bảo hiểm;
(iii) Các khoản chi trả bồi thường thực tế so với những ước tính trước đó (ví
dụ Bảng thống kê bồi thường). Việc lập bảng thống kê bồi thường nên bắt đầu từ
giai đoạn đầu từ khi phát sinh khoản khiếu nại chính thức đầu tiên mà chưa biết
được chắc chắn số tiền và thời gian của các khoản chi trả bảo hiểm. Tuy nhiên,
không nhất thiết phải quay ngược thời gian tới hơn 10 năm. Doanh nghiệp bảo
hiểm không cần công khai những thông tin về các khoản khiếu nại nếu không chắc
chắn về giá trị và thời điểm của các khoản phải trả về bồi thường được giải quyết
trong vòng 1 năm.
d) Thông tin về rủi ro lãi suất và rủi ro tín dụng theo quy định của Chuẩn
mực "Công cụ tài chính" sẽ yêu cầu trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm nằm
trong phạm vi của chuẩn mực đó;
e) Thông tin về rủi ro lãi suất và rủi ro thị trường của các công cụ tài chính
phái sinh thuộc hợp đồng bảo hiểm gốc nếu doanh nghiệp bảo hiểm không buộc
phải, hay không đánh giá công cụ tài chính theo giá trị hợp lý./.
-xxx-
HỆ THỐNG
CHUẨN MỰC KẾ TOÁN VIỆT NAM
_______________________________________________________________
CHUẨN MỰC SỐ 30
LÃI TRÊN CỔ PHIẾU
(Ban hành và công bố theo Quyết định số 100/2005/QĐ-BTC
ngày 28/12/2005 của Bộ trưởng Bộ Tài chính)
QUY ĐỊNH CHUNG
01. Mục đích của Chuẩn mực này là quy định và hướng dẫn các nguyên tắc,
phương pháp kế toán trong việc xác định và trình bày lãi trên cổ phiếu nhằm so sánh
hiệu quả hoạt động giữa các doanh nghiệp cổ phần trong cùng một kỳ báo cáo và
hiệu quả hoạt động của cùng một doanh nghiệp qua các kỳ báo cáo.
02. Chuẩn mực này được áp dụng cho việc tính và công bố lãi trên cổ phiếu
tại các doanh nghiệp sau:
- Đang có cổ phiếu phổ thông hoặc cổ phiếu phổ thông tiềm năng được giao
dịch công khai trên thị trường; và
- Đang trong quá trình phát hành cổ phiếu phổ thông hoặc cổ phiếu phổ
thông tiềm năng ra công chúng.
03. Trường hợp doanh nghiệp phải lập cả báo cáo tài chính riêng và báo cáo
tài chính hợp nhất thì chỉ phải trình bày thông tin về lãi trên cổ phiếu theo quy định
của chuẩn mực này trên báo cáo tài chính hợp nhất.
Trường hợp doanh nghiệp không phải lập báo cáo tài chính hợp nhất thì chỉ
trình bày thông tin về lãi trên cổ phiếu trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
riêng của mình.
04. Các thuật ngữ trong chuẩn mực này được hiểu như sau:
Suy giảm: Là sự giảm lãi trên cổ phiếu hoặc tăng lỗ trên cổ phiếu do
ảnh hưởng của việc giả định có sự chuyển đổi các công cụ có thể chuyển đổi,
việc thực hiện quyền chọn, chứng quyền hoặc việc phát hành cổ phiếu phổ
thông sau khi thoả mãn một số điều kiện nhất định.
Suy giảm ngược: Là sự tăng lãi trên cổ phiếu hoặc giảm lỗ trên cổ
phiếu do ảnh hưởng của việc giả định có sự chuyển đổi các công cụ có thể
chuyển đổi, việc thực hiện quyền chọn, chứng quyền hoặc việc phát hành cổ
phiếu phổ thông sau khi thoả mãn một số điều kiện nhất định.
Thoả thuận cổ phiếu có điều kiện: Là thoả thuận về phát hành cổ
phiếu phải thoả mãn một số điều kiện nhất định.
Cổ phiếu phổ thông: Là công cụ vốn mang lại cho người sở hữu quyền
lợi tài chính sau tất cả các công cụ vốn khác.
Cổ phiếu phổ thông tiềm năng: Là công cụ tài chính hoặc một hợp
đồng khác cho phép người sở hữu có được cổ phiếu phổ thông.
Cổ phiếu phổ thông phát hành có điều kiện : Là cổ phiếu phổ thông có
thể được phát hành, thu ít tiền hoặc không thu tiền mặt hoặc dựa trên việc
thoả mãn một số điều kiện nhất định của thoả thuận cổ phiếu có điều kiện.
Quyền chọn mua, chứng quyền và các công cụ tương đương: Là các
công cụ tài chính mang lại cho người sở hữu quyền được mua cổ phiếu phổ
thông theo một giá nhất định và trong một khoảng thời gian xác định trước.
Quyền chọn bán: Là hợp đồng cho phép người sở hữu quyền được bán
cổ phiếu phổ thông theo một giá nhất định và trong một khoảng thời gian xác
định trước.
05. Người nắm giữ cổ phiếu phổ thông được hưởng cổ tức trong kỳ sau khi
các loại cổ phiếu khác đã được chia cổ tức (Ví dụ: Cổ phiếu ưu đãi cổ tức). Cổ
phiếu phổ thông của doanh nghiệp có quyền như nhau trong việc nhận cổ tức.
06. Ví dụ về cổ phiếu phổ thông tiềm năng gồm:
a) Khoản nợ tài chính hoặc công cụ vốn, bao gồm cả cổ phiếu ưu đãi, có
thể chuyển đổi sang cổ phiếu phổ thông;
b) Quyền chọn và chứng quyền;
c) Cổ phiếu được phát hành dựa trên việc thoả mãn một số điều kiện nhất
định theo thoả thuận mang tính hợp đồng. Ví dụ: Việc mua doanh nghiệp hoặc các
tài sản khác.
NỘI DUNG CHUẨN MỰC
Xác định
Lãi cơ bản trên cổ phiếu
07. Doanh nghiệp phải tính lãi cơ bản trên cổ phiếu theo các khoản lợi
nhuận hoặc lỗ phân bổ cho cổ đông sở hữu cổ phiếu phổ thông của công ty mẹ.
08. Lãi cơ bản trên cổ phiếu được tính bằng cách chia lợi nhuận hoặc lỗ
phân bổ cho cổ đông sở hữu cổ phiếu phổ thông của công ty mẹ (tử số) cho số
lượng bình quân gia quyền của số cổ phiếu phổ thông đang lưu hành trong kỳ (mẫu
số).
09. Lãi cơ bản trên cổ phiếu cung cấp số liệu đánh giá lợi ích từ kết quả
hoạt động của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo mà mỗi cổ phiếu phổ thông của công
ty mẹ mang lại.
Lợi nhuận hoặc lỗ để tính lãi cơ bản trên cổ phiếu
10. Để tính lãi cơ bản trên cổ phiếu, số phân bổ cho cổ đông sở hữu cổ
phiếu phổ thông của công ty mẹ là các khoản lợi nhuận hoặc lỗ sau thuế phân bổ
cho công ty mẹ sau khi được điều chỉnh bởi cổ tức của cổ phiếu ưu đãi, những
khoản chênh lệch phát sinh do thanh toán cổ phiếu ưu đãi và những tác động tương
tự của cổ phiếu ưu đãi đã được phân loại vào vốn chủ sở hữu.
11. Các khoản thu nhập và chi phí phân bổ cho cổ đông sở hữu cổ phiếu phổ
thông của công ty mẹ đã được ghi nhận trong kỳ báo cáo, bao gồm chi phí thuế thu
nhập doanh nghiệp, cổ tức của cổ phiếu ưu đãi đã được phân loại vào nợ phải trả,
được sử dụng để xác định lợi nhuận hoặc lỗ trong kỳ phân bổ cho cổ đông sở hữu
cổ phiếu phổ thông của công ty mẹ.
12. Cổ tức của cổ phiếu ưu đãi được trừ khỏi lợi nhuận hoặc lỗ sau thuế để
tính lãi cơ bản trên cổ phiếu, gồm:
a) Cổ tức của cổ phiếu ưu đãi không luỹ kế được thông báo trong kỳ báo
cáo; và
b) Cổ tức của cổ phiếu ưu đãi luỹ kế phát sinh trong kỳ báo cáo (kể cả
trường hợp chưa được thông báo). Giá trị cổ tức ưu đãi trong kỳ không bao gồm cổ
tức của cổ phiếu ưu đãi luỹ kế liên quan tới các kỳ trước đã được chi trả hay được
thông báo trong kỳ báo cáo.
13. Cổ phiếu ưu đãi có mức cổ tức thấp để bù đắp lại việc doanh nghiệp
bán cổ phiếu ưu đãi ở mức giá có chiết khấu, hoặc có mức cổ tức cao để bù đắp
cho nhà đầu tư do việc mua cổ phiếu ưu đãi ở mức giá có phụ trội. Các khoản chiết
khấu hoặc phụ trội khi phát hành lần đầu cổ phiếu ưu đãi lãi suất tăng dần được
phân bổ vào lợi nhuận giữ lại theo phương pháp lãi thực và được coi như cổ tức ưu
đãi khi tính lãi cơ bản trên cổ phiếu.
14. Doanh nghiệp có thể mua lại cổ phiếu ưu đãi từ người sở hữu. Khoản
chênh lệch lớn hơn giữa giá trị hợp lý của khoản thanh toán cho người sở hữu với
giá trị ghi sổ của cổ phiếu ưu đãi là lợi ích của người sở hữu cổ phiếu ưu đãi và là
khoản giảm trừ vào lợi nhuận chưa phân phối của doanh nghiệp. Khoản chênh lệch
này được trừ vào lợi nhuận hoặc lỗ phân bổ cho cổ đông sở hữu cổ phiếu phổ
thông của công ty mẹ.
15. Doanh nghiệp có thể khuyến khích việc chuyển đổi trước thời hạn cổ
phiếu ưu đãi có thể chuyển đổi bằng điều kiện có lợi hơn điều kiện chuyển đổi
ban đầu hoặc bằng số tiền thanh toán thêm. Khoản chênh lệch lớn hơn giữa giá trị
hợp lý của cổ phiếu phổ thông hoặc các khoản thanh toán khác theo điều kiện
chuyển đổi có lợi tại thời điểm thanh toán với giá trị hợp lý của cổ phiếu phổ thông
được phát hành theo điều kiện chuyển đổi gốc là lợi ích của người sở hữu cổ phiếu
ưu đãi. Khoản chênh lệch này được trừ vào lợi nhuận hoặc lỗ phân bổ cho cổ đông
sở hữu cổ phiếu phổ thông của công ty mẹ.
16. Khoản chênh lệch lớn hơn giữa giá trị ghi sổ của cổ phiếu ưu đãi với giá
trị hợp lý của các khoản thanh toán được cộng vào lợi nhuận hoặc lỗ phân bổ cho
cổ đông sở hữu cổ phiếu phổ thông của công ty mẹ.
Số lượng cổ phiếu để tính lãi cơ bản trên cổ phiếu
17. Số lượng cổ phiếu phổ thông được sử dụng để tính lãi cơ bản trên cổ
phiếu là số bình quân gia quyền của cổ phiếu phổ thông đang lưu hành trong kỳ.
18. Việc sử dụng số bình quân gia quyền của cổ phiếu phổ thông đang lưu
hành trong kỳ là do giá trị vốn cổ đông thay đổi trong kỳ khi số lượng cổ phiếu phổ
thông lưu hành tăng hoặc giảm. Số bình quân gia quyền của cổ phiếu phổ thông lưu
hành trong kỳ là số lượng cổ phiếu phổ thông lưu hành đầu kỳ được điều chỉnh theo
số cổ phiếu phổ thông được mua lại hoặc được phát hành thêm nhân với hệ số thời
gian. Hệ số thời gian là tỷ số giữa số lượng ngày mà cổ phiếu được lưu hành trong
kỳ chia cho tổng số ngày trong kỳ.
19. Cổ phiếu phổ thông được tính vào số bình quân gia quyền của cổ phiếu
kể từ ngày có thể nhận được khoản thanh toán cho cổ phiếu đó (thông thường là
ngày phát hành). Ví dụ:
a) Cổ phiếu phổ thông phát hành thu tiền được tính vào số bình quân gia
quyền của cổ phiếu khi ghi nhận được tiền;
b) Cổ phiếu phổ thông được phát hành thay cho việc trả cổ tức của cổ phiếu
phổ thông hay cổ tức của cổ phiếu ưu đãi được tính vào số bình quân gia quyền của
cổ phiếu khi cổ tức được chuyển thành cổ phiếu;
c) Cổ phiếu phổ thông được phát hành bằng việc chuyển đổi một công cụ
nợ thành cổ phiếu phổ thông được tính vào số bình quân gia quyền của cổ phiếu khi
ngừng tính lãi từ công cụ nợ đó;
d) Cổ phiếu phổ thông được phát hành thay cho lãi và gốc của các công cụ
tài chính khác được tính vào số bình quân gia quyền của cổ phiếu khi ngừng tính lãi
từ công cụ tài chính đó;
e) Cổ phiếu phổ thông được phát hành để thanh toán khoản nợ phải trả của
doanh nghiệp được tính vào số bình quân gia quyền của cổ phiếu khi khoản nợ phải
trả này được chuyển thành cổ phiếu;
f) Cổ phiếu phổ thông được phát hành để thanh toán cho việc mua một tài
sản phi tiền tệ được tính vào số bình quân gia quyền của cổ phiếu khi tài sản đó
được ghi nhận; và
g) Cổ phiếu phổ thông được phát hành để thanh toán cho dịch vụ cung cấp
cho doanh nghiệp được tính vào số bình quân gia quyền của cổ phiếu khi dịch vụ đó
được cung cấp.
Thời điểm tính cổ phiếu phổ thông được xác định theo các điều khoản và
điều kiện gắn kèm với việc phát hành cổ phiếu, doanh nghiệp phải cân nhắc kỹ
lưỡng bản chất của các hợp đồng liên quan tới việc phát hành cổ phiếu.
20. Cổ phiếu phổ thông được phát hành như một phần của giá phí hợp nhất
kinh doanh được tính vào số bình quân gia quyền của cổ phiếu kể từ ngày mua vì
doanh nghiệp mua hợp nhất kết quả hoạt động kinh doanh của đơn vị được mua
vào Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của mình kể từ ngày mua.
21. Cổ phiếu phổ thông được phát hành khi thực hiện chuyển đổi một công
cụ có thể chuyển đổi được sử dụng để tính lãi cơ bản trên cổ phiếu kể từ ngày hợp
đồng có hiệu lực.
22. Cổ phiếu phát hành có điều kiện được coi như cổ phiếu đang lưu hành
và được sử dụng để tính lãi cơ bản trên cổ phiếu kể từ ngày tất cả các điều kiện
cần thiết đã được thoả mãn (khi các sự kiện đã xảy ra). Cổ phiếu có thể được phát
hành sau một thời gian xác định không được coi là cổ phiếu phát hành có điều kiện,
vì điều kiện về thời gian này chắc chắn sẽ xảy ra.
23. Cổ phiếu phổ thông đang lưu hành có thể được thu hồi lại có điều kiện
không được phản ánh như cổ phiếu đang lưu hành và không được dùng để tính lãi
cơ bản trên cổ phiếu cho tới ngày cổ phiếu đó không còn bị ràng buộc bởi điều kiện
thu hồi lại.
24. Số bình quân gia quyền cổ phiếu phổ thông đang lưu hành trong kỳ hiện
tại và tất cả các kỳ trình bày phải được điều chỉnh cho các sự kiện (trừ việc chuyển
đổi cổ phiếu phổ thông tiềm năng) tạo ra sự thay đổi về số lượng cổ phiếu phổ
thông mà không dẫn đến thay đổi về nguồn vốn.
25. Cổ phiếu phổ thông có thể tăng hoặc giảm mà không cần có sự thay đổi
tương ứng về nguồn vốn. Ví dụ:
a) Vốn hoá hoặc phát hành cổ phiếu thưởng (một số trường hợp là trả cổ
tức bằng cổ phiếu);
b) Phát hành cổ phiếu phổ thông dưới hình thức thưởng (Ví dụ: Thưởng
bằng việc phát hành quyền cho các cổ đông hiện tại);
c) Tách cổ phiếu; và
d) Gộp cổ phiếu.
26. Vốn hoá, phát hành cổ phiếu thưởng hoặc tách cổ phiếu là việc phát
hành cổ phiếu phổ thông cho cổ đông hiện tại mà doanh nghiệp không thu về bất
cứ một khoản tiền nào. Vì vậy, số lượng cổ phiếu phổ thông đang lưu hành tăng lên
mà không có sự gia tăng nguồn vốn. Số lượng cổ phiếu phổ thông đang lưu hành
trước sự kiện này được điều chỉnh theo tỉ lệ tương ứng với số lượng thay đổi của
cổ phiếu phổ thông được lưu hành với giả thuyết sự kiện này đã xảy ra ngay tại
thời điểm đầu kỳ báo cáo. Ví dụ: Đối với việc phát hành 2 cổ phiếu thưởng cho 1
cổ phiếu đang lưu hành, số lượng cổ phiếu phổ thông đang lưu hành trước thời
điểm phát hành được nhân với 3 để tính tổng số cổ phiếu phổ thông, hoặc nhân với
2 để tính số cổ phiếu phổ thông tăng thêm.
27. Việc gộp cổ phiếu phổ thông chỉ dẫn đến giảm số lượng cổ phiếu phổ
thông đang lưu hành mà không làm giảm nguồn vốn. Tuy nhiên, nếu mua lại cổ
phiếu theo giá trị hợp lý, thì việc giảm tương ứng nguồn vốn sẽ dẫn đến giảm số
lượng cổ phiếu phổ thông đang lưu hành.
Lãi suy giảm trên cổ phiếu
28. Doanh nghiệp tính giá trị lãi suy giảm trên cổ phiếu dựa trên số lợi nhuận
hoặc lỗ phân bổ cho cổ đông sở hữu cổ phiếu phổ thông của công ty mẹ.
29. Doanh nghiệp phải điều chỉnh lợi nhuận hoặc lỗ phân bổ cho cổ đông sở
hữu cổ phiếu phổ thông của công ty mẹ và số bình quân gia quyền cổ phiếu phổ
thông đang lưu hành do ảnh hưởng của các cổ phiếu phổ thông tiềm năng có tác
động suy giảm để tính lãi suy giảm trên cổ phiếu.
30. Việc tính lãi suy giảm trên cổ phiếu là nhằm đảm bảo tính nhất quán với
lãi cơ bản trên cổ phiếu, cung cấp thước đo lợi ích của mỗi cổ phiếu phổ thông
trong kết quả hoạt động của doanh nghiệp khi tính tới tác động của các cổ phiếu
phổ thông tiềm năng có tác động suy giảm đang lưu hành trong kỳ. Việc làm này
dẫn đến:
a) Lợi nhuận hoặc lỗ phân bổ cho cổ đông sở hữu cổ phiếu phổ thông của
công ty mẹ tăng bằng khoản cổ tức và lãi ghi nhận trong kỳ dành cho cổ phiếu phổ
thông tiềm năng có tác động suy giảm và được điều chỉnh các thay đổi về thu nhập
hoặc chi phí do chuyển đổi cổ phiếu phổ thông tiềm năng có tác động suy giảm; và
b) Số bình quân gia quyền cổ phiếu phổ thông đang lưu hành tăng bằng số
bình quân gia quyền các cổ phiếu bổ sung sẽ được lưu hành nếu như tất cả các cổ
phiếu phổ thông tiềm năng có tác động suy giảm đều được chuyển đổi.
Lợi nhuận (hoặc lỗ) để tính lãi suy giảm trên cổ phiếu
31. Để tính lãi suy giảm trên cổ phiếu doanh nghiệp cần điều chỉnh số lợi
nhuận hoặc lỗ sau thuế phân bổ cho cổ đông sở hữu cổ phiếu phổ thông của công
ty mẹ, theo quy định trong đoạn 10, cho các tác động sau thuế của:
a) Các khoản cổ tức hoặc các khoản khác liên quan tới cổ phiếu phổ thông
tiềm năng có tác động suy giảm đã được giảm trừ vào số lợi nhuận hoặc lỗ phân bổ
cho cổ đông sở hữu cổ phiếu phổ thông của công ty mẹ theo quy định trong đoạn
10;
b) Bất kỳ khoản lãi nào được ghi nhận trong kỳ liên quan tới cổ phiếu phổ
thông tiềm năng có tác động suy giảm; và
c) Các thay đổi khác của thu nhập hoặc chi phí do chuyển đổi cổ phiếu phổ
thông tiềm năng có tác động suy giảm.
32. Khi các cổ phiếu phổ thông tiềm năng đã được chuyển thành cổ phiếu
phổ thông thì sẽ không phát sinh các khoản mục được xác định trong đoạn 31(a)-(c).
Thay vào đó, lợi nhuận hoặc lỗ phân bổ cho cổ đông sở hữu cổ phiếu phổ thông
của công ty mẹ được phân bổ cho cả cổ phiếu phổ thông mới. Vì vậy, lợi nhuận
hoặc lỗ phân bổ cho cổ đông sở hữu cổ phiếu phổ thông của công ty mẹ tính toán
theo đoạn 10 được điều chỉnh cho các khoản mục được xác định trong đoạn 31(a)-
(c). Chi phí liên quan tới cổ phiếu phổ thông tiềm năng bao gồm: Chi phí giao dịch
và khoản chiết khấu được tính theo phương pháp lãi suất thực tế.
33. Việc chuyển đổi cổ phiếu phổ thông tiềm năng dẫn đến những thay đổi
về thu nhập và chi phí của doanh nghiệp. Ví dụ, giảm chi phí lãi vay liên quan tới
cổ phiếu phổ thông tiềm năng và việc làm tăng lợi nhuận hoặc giảm lỗ có thể dẫn
tới việc tăng khoản lợi nhuận bắt buộc phải phân phối. Để tính lãi suy giảm trên cổ
phiếu, lợi nhuận hoặc lỗ tính cho cổ đông sở hữu cổ phiếu phổ thông của công ty
mẹ được điều chỉnh theo các thay đổi mang tính hệ quả nêu trên của thu nhập và chi
phí.
Số lượng cổ phiếu để tính lãi suy giảm trên cổ phiếu
34. Để tính lãi suy giảm trên cổ phiếu, số lượng cổ phiếu phổ thông là số
bình quân gia quyền cổ phiếu phổ thông (tính theo phương pháp được trình bày
trong các đoạn 17 và 24) cộng (+) với số bình quân gia quyền của cổ phiếu phổ
thông sẽ được phát hành trong trường hợp tất cả các cổ phiếu phổ thông tiềm năng
có tác động suy giảm đều được chuyển đổi thành cổ phiếu phổ thông. Cổ phiếu
phổ thông tiềm năng có tác động suy giảm được giả định chuyển đổi thành cổ
phiếu phổ thông tại thời điểm đầu kỳ báo cáo hoặc tại ngày phát hành cổ phiếu phổ
thông tiềm năng nếu ngày phát hành cổ phiếu này sau thời điểm đầu kỳ báo cáo.
35. Cổ phiếu phổ thông tiềm năng có tác động suy giảm sẽ được xác định
một cách độc lập cho mỗi kỳ báo cáo. Số cổ phiếu phổ thông tiềm năng có tác động
suy giảm trong kỳ báo cáo từ đầu năm tới ngày hiện tại không phải là số bình quân
gia quyền của cổ phiếu phổ thông tiềm năng có tác động suy giảm trong mỗi lần
tính giữa kỳ.
36. Cổ phiếu phổ thông tiềm năng được tính vào số bình quân trong kỳ mà nó
lưu hành. Cổ phiếu phổ thông tiềm năng bị huỷ hoặc tự huỷ trong kỳ được dùng để
tính lãi suy giảm trên cổ phiếu với tỉ lệ tương ứng với thời gian mà chúng lưu hành.
Cổ phiếu phổ thông tiềm năng chuyển thành cổ phiếu phổ thông trong kỳ được
dùng để tính lãi suy giảm trên cổ phiếu từ ngày bắt đầu kỳ báo cáo cho đến ngày
chuyển đổi, và kể từ ngày chuyển đổi cổ phiếu phổ thông mới do chuyển đổi được
dùng để tính lãi cơ bản trên cổ phiếu và lãi suy giảm trên cổ phiếu.
37. Số cổ phiếu phổ thông sẽ được phát hành do việc chuyển đổi cổ phiếu
phổ thông tiềm năng có tác động suy giảm được xác định theo từng loại cổ phiếu
phổ thông tiềm năng. Khi có nhiều cách chuyển đổi, việc tính toán được thực hiện
dựa trên giả định về tỷ lệ chuyển đổi hoặc giá chuyển đổi có lợi nhất cho cổ đông
sở hữu cổ phiếu phổ thông tiềm năng.
38. Công ty con, công ty liên doanh, công ty liên kết có thể phát hành cổ
phiếu phổ thông tiềm năng có thể chuyển đổi thành cổ phiếu phổ thông của công ty
mình, của công ty mẹ hoặc của bên góp vốn liên doanh hay nhà đầu tư cho các bên
không phải là công ty mẹ, bên góp vốn liên doanh hoặc nhà đầu tư. Nếu những cổ
phiếu phổ thông tiềm năng của công ty con, công ty mẹ, công ty liên doanh hoặc
công ty liên kết có tác động suy giảm đến lãi cơ bản trên cổ phiếu của đơn vị báo
cáo thì những cổ phiếu này được sử dụng để tính lãi suy giảm trên cổ phiếu.
Cổ phiếu phổ thông tiềm năng có tác động suy giảm
39. Cổ phiếu phổ thông tiềm năng được coi là có tác động suy giảm khi và
chỉ khi, việc chuyển đổi chúng thành cổ phiếu phổ thông sẽ làm giảm lãi hoặc tăng
lỗ trên cổ phiếu.
40. Doanh nghiệp sử dụng lợi nhuận hoặc lỗ phân bổ cho công ty mẹ như số
liệu kiểm soát để xác định xem cổ phiếu phổ thông tiềm năng có tác động suy giảm
hay suy giảm ngược. Lợi nhuận hoặc lỗ phân bổ cho công ty mẹ được điều chỉnh
theo quy định trong đoạn 10.
41. Cổ phiếu phổ thông tiềm năng có tác động suy giảm ngược khi việc
chuyển đổi chúng thành cổ phiếu phổ thông làm tăng lãi hoặc giảm lỗ trên cổ
phiếu. Việc tính lãi suy giảm trên cổ phiếu không giả định việc chuyển đổi, thực
hiện hoặc phát hành cổ phiếu phổ thông tiềm năng có tác động suy giảm ngược đối
với lãi trên cổ phiếu.
42. Doanh nghiệp xem xét riêng từng đợt phát hành hoặc từng loại cổ phiếu
phổ thông tiềm năng khi xác định cổ phiếu phổ thông tiềm năng có tác động suy
giảm hay suy giảm ngược. Thứ tự xem xét các cổ phiếu phổ thông tiềm năng có thể
ảnh hưởng tới kết luận cổ phiếu đó có tác động suy giảm hay suy giảm ngược, do
đó để tối đa hoá hiệu ứng suy giảm lãi cơ bản trên cổ phiếu, từng đợt phát hành hay
loại cổ phiếu phổ thông tiềm năng cần được xem xét theo thứ tự từ suy giảm lớn
nhất tới suy giảm nhỏ nhất. Như vậy cổ phiếu phổ thông tiềm năng có tác động suy
giảm với “mức lãi trên mỗi cổ phiếu tăng thêm” thấp nhất được tính trước những
cổ phiếu phổ thông tiềm năng có “mức lãi trên mỗi cổ phiếu tăng thêm” lớn hơn.
Quyền chọn, chứng quyền được tính trước vì chúng không làm thay đổi lợi nhuận
hoặc lỗ phân bổ cho cổ đông sở hữu cổ phiếu phổ thông.
Quyền chọn mua, chứng quyền và các công cụ tương đương
43. Để tính lãi suy giảm trên cổ phiếu doanh nghiệp cần phải giả định các
quyền chọn mua, chứng quyền có tác động suy giảm đều được thực hiện. Số tiền
giả định thu được từ các công cụ này được phản ánh như khoản thu từ việc phát
hành cổ phiếu phổ thông ở mức giá thị trường trung bình trong kỳ. Phần chênh lệch
giữa số lượng cổ phiếu phổ thông đã phát hành và số lượng cổ phiếu phổ thông có
thể được phát hành ở mức giá thị trường bình quân của cổ phiếu phổ thông trong kỳ
được coi là cổ phiếu phổ thông được phát hành không điều kiện.
44. Quyền chọn mua, chứng quyền có tác động suy giảm khi chúng tác động
làm cho giá cổ phiếu phổ thông phát hành thấp hơn giá thị trường bình quân của cổ
phiếu phổ thông trong kỳ. Giá trị suy giảm là giá bình quân của cổ phiếu phổ thông
trong kỳ trừ đi giá phát hành. Để tính lãi suy giảm trên cổ phiếu, cổ phiếu ph ổ thông
tiềm năng bao gồm cả hai yếu tố sau đây:
a) Hợp đồng phát hành một số lượng nhất định cổ phiếu phổ thông theo giá
thị trường bình quân trong kỳ. Doanh nghiệp bỏ qua những cổ phiếu phổ thông này
khi tính lãi suy giảm trên cổ phiếu vì chúng được coi là đã được định giá một cách
hợp lý và không có tác động suy giảm hay suy giảm ngược.
b) Hợp đồng phát hành số cổ phiếu phổ thông còn lại không điều kiện.
Những cổ phiếu phổ thông này không tạo ra tiền và không có tác động tới lợi nhuận
hoặc lỗ phân bổ cho các cổ phiếu phổ thông đang lưu hành. Vì vậy, những cổ phiếu
này có tác động suy giảm và được cộng vào số lượng cổ phiếu phổ thông lưu hành
để tính lãi suy giảm trên cổ phiếu.
45. Quyền chọn và chứng quyền có tác động suy giảm chỉ khi giá thị trường
bình quân của cổ phiếu phổ thông trong kỳ lớn hơn giá thực hiện quyền chọn hoặc
chứng quyền (trường hợp thực hiện công cụ có lãi). Doanh nghiệp không phải điều
chỉnh lại số lãi trên cổ phiếu đã báo cáo trước đây để phản ánh sự thay đổi của giá
cổ phiếu phổ thông.
46. Quyền chọn mua cổ phiếu dành cho nhân viên với các điều khoản cố
định hoặc xác định được và các cổ phiếu th ưởng chưa trao cho nhân viên được coi
như các quyền chọn khi tính lãi suy giảm trên cổ phiếu, mặc dù việc trao c ổ phiếu
là chưa chắc chắn. Những công cụ này được coi như đã lưu hành vào ngày phát sinh.
Quyền chọn mua cổ phiếu dành cho nhân viên dựa trên kết quả hoạt động được
phản ánh như cổ phiếu phát hành có điều kiện vì khi phát hành những cổ phiếu đó
ngoài điều kiện về mặt thời gian còn phụ thuộc vào việc thoả mãn một số điều
kiện cụ thể.
Công cụ tài chính có thể chuyển đổi
47. Tác động suy giảm của công cụ tài chính có thể chuyển đổi đối với lãi
suy giảm trên cổ phiếu được quy định tại đoạn 31 và 34.
48. Cổ phiếu ưu đãi có thể chuyển đổi có tác động suy giảm ngược khi cổ
tức của các cổ phiếu đó (được công bố hoặc luỹ kế trong kỳ) tính trên mỗi cổ
phiếu phổ thông nhận được do chuyển đổi lớn hơn lãi cơ bản trên cổ phiếu. Tương
tự, khoản nợ có khả năng chuyển đổi có tác động suy giảm ngược khi lãi sau thuế
và các khoản thay đổi khác trong thu nhập và chi phí tính trên mỗi cổ phiếu phổ
thông nhận được thông qua chuyển đổi lớn hơn lãi cơ bản trên cổ phiếu.
49. Việc mua lại hoặc khuyến khích chuyển đổi cổ phiếu ưu đãi có thể
chuyển đổi có thể chỉ ảnh hưởng một phần trong số cổ phiếu ưu đãi có thể chuyển
đổi lưu hành trước kia. Khi đó, các khoản thanh toán tăng thêm nêu trong đoạn 15
tính cho các cổ phiếu được mua lại hoặc được chuyển đổi được dùng để xác định
xem những cổ phiếu ưu đãi còn lại có tác động suy giảm hay không. Các cổ phiếu
đã được mua lại hoặc chuyển đổi được xem xét độc lập với các cổ phiếu không
được mua lại hoặc chuyển đổi.
Cổ phiếu phổ thông phát hành có điều kiện
50. Khi tính lãi cơ bản trên cổ phiếu, cổ phiếu phổ thông phát hành có điều
kiện được coi như đang lưu hành và được sử dụng để tính lãi suy giảm trên cổ
phiếu nếu như các điều kiện đã được thoả mãn. Cổ phiếu phổ thông phát hành có
điều kiện được tính vào từ đầu kỳ (hoặc từ ngày thoả thuận cổ phiếu phổ thông
phát hành có điều kiện). Trường hợp các điều kiện không được thoả mãn, số lượng
cổ phiếu phổ thông phát hành có điều kiện để tính lãi suy giảm trên cổ phiếu được
dựa vào số cổ phiếu có thể được phát hành nếu ngày kết thúc kỳ báo cáo là ngày kết
thúc thời hạn của điều kiện. Doanh nghiệp không được tính lại số lượng cổ phiếu
phát hành có điều kiện nếu như các điều kiện phát hành không được thoả mãn vào
ngày kết thúc thời hạn của điều kiện.
51. Trường hợp điều kiện phát hành yêu cầu phải đạt được hoặc duy trì một
lượng lãi cố định cho kỳ báo cáo kể cả khi đã đạt được vào cuối kỳ nhưng phải
được giữ lại cho kỳ báo cáo tiếp theo thì số cổ phiếu phổ thông tăng thêm được
phản ánh như đang lưu hành nếu có tác động mang tính suy giảm khi tính lãi suy
giảm trên cổ phiếu. Khi đó, doanh nghiệp tính lãi suy giảm trên cổ phiếu dựa trên
số cổ phiếu phổ thông có thể được phát hành nếu như số lãi tại thời điểm cuối kỳ
báo cáo bằng số lãi tại thời điểm cuối của điều kiện. Số lãi có thể thay đổi vào kỳ
sau nên khi tính lãi cơ bản trên cổ phiếu không được tính tới những cổ phiếu phát
hành có điều kiện cho đến khi kết thúc thời hạn của điều kiện vì đến thời điểm này
chưa thỏa mãn hết mọi điều kiện.
52. Số lượng cổ phiếu phổ thông phát hành có điều kiện có thể dựa trên giá
thị trường của cổ phiếu phổ thông trong tương lai. Nếu có tác động suy giảm, việc
tính lãi suy giảm trên cổ phiếu được dựa trên số cổ phiếu phổ thông sẽ phát hành
khi giá trị thị trường của cổ phiếu vào ngày cuối kỳ bằng giá trị thị trường của cổ
phiếu vào ngày kết thúc thời hạn của điều kiện. Nếu điều kiện phát hành cổ phiếu
dựa trên giá thị trường bình quân cho một giai đoạn kết thúc sau ngày kết thúc kỳ
báo cáo thì doanh nghiệp sử dụng giá bình quân cho đến ngày kết thúc kỳ báo cáo.
Giá thị trường có thể thay đổi vào kỳ sau, nên khi tính lãi cơ bản trên cổ phiếu
không được tính những cổ phiếu phát hành có điều kiện cho tới khi kết thúc thời
hạn của điều kiện vì đến thời điểm này chưa thoả mãn hết mọi điều kiện.
53. Số lượng cổ phiếu phổ thông phát hành có điều kiện có thể dựa trên lãi
và giá của cổ phiếu phổ thông trong tương lai. Trong trường hợp này, số lượng cổ
phiếu phổ thông để tính lãi suy giảm trên cổ phiếu được dựa trên cả hai điều kiện
là lãi và giá thị trường tại ngày cuối của kỳ báo cáo. Cổ phiếu phổ thông phát hành
có điều kiện chỉ được dùng để tính lãi suy giảm trên cổ phiếu khi cả hai điều kiện
trên được thoả mãn.
54. Trong một số trường hợp khác, số lượng cổ phiếu phổ thông phát hành
có điều kiện có thể dựa trên các điều kiện không phải là lãi hoặc giá thị trường của
cổ phiếu. Trong những trường hợp này, nếu các điều kiện hiện tại không thay đổi
cho tới khi kết thúc thời hạn của điều kiện, cổ phiếu phổ thông phát hành có điều
kiện được dùng để tính lãi suy giảm trên cổ phiếu căn cứ vào tình trạng thực tế tại
thời điểm kết thúc kỳ báo cáo.
55. Cổ phiếu phổ thông phát hành có điều kiện được doanh nghiệp tính vào
cổ phiếu bình quân lưu hành trong kỳ để tính lãi suy giảm trên cổ phiếu (Không
phải là thoả thuận cổ phiếu có điều kiện, như là công cụ có thể chuyển đổi phát
hành có điều kiện) theo phương pháp sau:
a) Doanh nghiệp tự xác định cổ phiếu phổ thông tiềm năng với giả định là
có thể phát hành trên cơ sở các điều kiện cho việc phát hành cổ phiếu phát hành có
điều kiện quy định tại các đoạn từ 50 - 54; và
b) Nếu những cổ phiếu phổ thông tiềm năng được sử dụng để tính lãi suy
giảm trên cổ phiếu, doanh nghiệp phải xác định ảnh hưởng của chúng tới lãi suy
giảm trên cổ phiếu bằng các bước thực hiện quyền chọn mua, chứng quyền quy
định trong các đoạn từ 43 - 46, các bước thực hiện cho công cụ có thể chuyển đổi
quy định trong các đoạn từ 47 - 49, các bước thực hiện cho hợp đồng có thể được
thanh toán bằng cổ phiếu phổ thông hoặc bằng tiền quy định trong các đoạn từ 56 -
59, hoặc các bước thực hiện phù hợp khác.
Tuy nhiên, việc thực hiện hoặc chuyển đổi của các cổ phiếu phổ thông tiềm
năng không được giả định cho mục đích tính lãi suy giảm trên cổ phiếu trừ trường
hợp việc thực hiện hoặc việc chuyển đổi các cổ phiếu phổ thông tiềm năng đang
lưu hành không phải là phát hành có điều kiện.
Hợp đồng có thể được thanh toán bằng cổ phiếu phổ thông hoặc bằng tiền
56. Khi phát hành hợp đồng có thể được thanh toán bằng cổ phiếu phổ thông
hoặc bằng tiền mặt, doanh nghiệp giả định trước rằng hợp đồng được thanh toán
bằng cổ phiếu phổ thông và số cổ phiếu phổ thông tiềm năng từ việc thanh toán sẽ
được sử dụng để tính lãi suy giảm trên cổ phiếu nếu có tác động mang tính suy
giảm.
57. Khi hợp đồng được trình bày với mục đích kế toán như là một tài sản
hay một khoản nợ phải trả riêng biệt hoặc là một bộ phận của vốn chủ sở hữu hay
nợ phải trả, doanh nghiệp sẽ điều chỉnh các thay đổi về lợi nhuận hoặc lỗ trong kỳ
nếu như hợp đồng đó được phân loại toàn bộ là vốn chủ sở hữu. Việc điều chỉnh
thực hiện tương tự như quy định trong đoạn 31.
58. Đối với các hợp đồng có thể được thanh toán bằng cổ phiếu phổ thông
hoặc bằng tiền, tuỳ theo lựa chọn của người nắm giữ, doanh nghiệp sử dụng cách
thanh toán có suy giảm lớn hơn để tính lãi suy giảm trên cổ phiếu.
59. Ví dụ hợp đồng có thể được thanh toán bằng cổ phiếu phổ thông hoặc
bằng tiền:
a) Công cụ nợ khi đáo hạn cho phép doanh nghiệp quyền tuỳ ý lựa chọn việc
thanh toán nợ gốc bằng tiền hoặc bằng cổ phiếu phổ thông của chính doanh nghiệp.
b) Quyền chọn bán đã phát hành, cho phép người nắm giữ lựa chọn giữa
việc thanh toán bằng cổ phiếu hoặc thanh toán bằng tiền.
Các quyền chọn đã được mua
60. Các hợp đồng như quyền chọn mua hoặc quyền chọn bán đã được doanh
nghiệp mua vào (Quyền chọn đối với cổ phiếu của doanh nghiệp do chính doanh
nghiệp nắm giữ) không được sử dụng để tính lãi suy giảm trên cổ phiếu vì gây ra
tác động suy giảm ngược. Quyền chọn bán có thể được thực hiện chỉ khi giá thoả