Chính trị Nhật Bản
Bài chi tiết: Chính trị Nhật Bản
Nhật Bản là một trong các nước theo hệ thống quân chủ lập hiến, trong đó Thủ tướng
là người nắm quyền cao nhất về các phương diện quản lý quốc gia và chịu sự giám
sát của hai viện quốc hội cùng tòa Hiến pháp có thẩm quyền ngăn chặn các quyết định
vi hiến của chính phủ. Được xây dựng dựa trên hình mẫu của Vương quốc Liên hiệp
Anh và Bắc Ireland và một số nước phương Tây khác sau này. Theo hệ thống pháp
luật thế giới hiện hành, Nhật Bản được xếp vào các nước có nền dân chủ đầy đủ (ưu
việt nhất).
Hiến pháp
Bài chi tiết: Hiến pháp Nhật Bản
Hiến pháp của nước Nhật Bản, được công bố vào ngày 3 tháng 11 năm 1946 và có
hiệu lực kể từ ngày 3 tháng 5 năm 1947, quy định rằng nhân dân Nhật Bản thề nguyện
trung thành với các lý tưởng hòa bình và trật tự dân chủ.
Dù vậy vào ngày 3 tháng 5 năm 2007, Nghị viện đã thông qua một văn bản dưới luật
theo đó cho phép chính phủ tổ chức trưng cầu dân ý cho một bản sửa đổi mới vào năm
2010 và sẽ cần hai phần ba số phiếu thuận của Nghị viện để có hiệu lực.
Tổng thống Hoa Kỳ George Bush phát biểu tại Quốc hội Nhật Bản
Quốc hội Nhật Bản (ả e Kokkai) là cơ quan lập pháp cao cấp nhất, gồm có Hạ viện
(( o k shugi-in, Chúng nghị viện) với 512 ghế và Thượng viện ( ( u sangi-in, Tham
nghị viện) với 252 ghế. Hạ viện được bầu ra từ 130 đơn vị bầu cử với số nghị viên từ
2 tới 6 vị tùy theo dân số. Nhiệm kỳ của Thượng viện là 6 năm, mỗi 3 năm được bầu
lại một nửa. 100 Thượng nghị sĩ được bầu theo sự đại diện tỉ lệ (proportional
representation) tức là do các cử tri toàn quốc, số còn lại 152 ghế được bầu từ 47 đơn
vị bầu cử tỉnh. Hạ viện có quyền bỏ phiếu tín nhiệm hay bất tín nhiệm Nội các, đây là
một quyền lực chính trị quan trọng nhất của nền chính trị đại nghị. Các công dân Nhật
Bản trên 25 tuổi đều có quyền ứng cử Dân biểu và trên 30 tuổi có thể tranh cử ghế
Thượng viện. Quyền được thực hiện phổ thông đầu phiếu thuộc về mỗi người dân
nam nữ trên 20 tuổi[14].
.
kinh te
Trụ sở chính của Sumitomo Mitsui tại quận Shibuya, Tokyo, một trong các biểu tượng
của sự phồn vinh Nhật Bản
Nhật Bản là nước rất nghèo nàn về tài nguyên ngoại trừ gỗ và hải sản, trong khi dân
số thì quá đông, phần lớn nguyên nhiên liệu phải nhập khẩu, kinh tế bị tàn phá kiệt
quệ trong chiến tranh, nhưng với các chính sách phù hợp, kinh tế Nhật Bản đã nhanh
chóng phục hồi (1945-1954) phát triển cao độ (1955-1973)khiến cho cả thế giới hết
sức kinh ngạc và khâm phục. Người ta gọi đó là "Thần kì Nhật Bản". Từ 1974 đến
nay tốc độ phát triển tuy chậm lại, song Nhật Bản tiếp tục là một nước có nền kinh
tế-công nghiệp-tài chính thương mại-dịch vụ-khoa học kĩ thuật lớn đứng thứ hai trên
thế giới (chỉ đứng sau Hoa Kỳ)[15], GDP trên đầu người là 36.217 USD (1989). Cán cân
thương mại dư thừa và dự trữ ngoại tệ đứng hàng đầu thế giới, nên nguồn vốn đầu tư
ra nước ngoài rất nhiều, là nước cho vay, viện trợ tái thiết và phát triển lớn nhất thế
giới. Nhật Bản có nhiều tập đoàn tài chính, ngân hàng đứng hàng đầu thế giới[16]. Đơn
vị tiền tệ là: đồng yên Nhật.
Nhật Bản đang xúc tiến 6 chương trình cải cách lớn trong đó có cải cách cơ cấu kinh
tế, giảm thâm hụt ngân sách, cải cách khu vực tài chính và sắp xếp lại cơ cấu chính
phủ,… Cải cách hành chính của Nhật được thực hiện từ tháng 1 năm 2001. Dù diễn ra
chậm chạp nhưng cải cách đang đi dần vào quỹ đạo, trở thành xu thế không thể đảo
ngược ở Nhật Bản và gần đây đã đem lại kết quả đáng khích lệ, nền kinh tế Nhật đã
phục hồi và có bước tăng trưởng năm 2003 đạt trên 3%, quý I/2004 đạt 6%.
Từ giai đoạn 1960 đến 1980, tốc độ phát triển kinh tế Nhật Bản được gọi là "sự thần
kì": tốc độ phát triển kinh tế trung bình 10% giai đoạn 1960, trung bình 5% giai đoạn
1970 và 4% giai đoạn 1980.
Dấu hiệu tăng trưởng có phần chững lại vào những năm 1990, trung bình 1.7% chủ
yếu do những tác động của việc đầu tư không hiệu quả và do dư chấn của bong bóng
bất động sản vào những năm 1980 đã làm cho các cơ sở sản xuất và kinh doanh mất
một thời gian dài tái cơ cấu về nợ quá hạn, vốn tư bản và lực lượng lao động. Tháng
11/2007, nền kinh tế Nhật đã chấm dứt đà tăng trưởng kéo dài liên tục 69 tháng kể từ
chiến tranh thế giới thứ 2 và chính thức suy thoái vào năm 2008 với mức lãi suất ngân
hànhg trung ương hạ đến mức 0% vào đầu năm 2009. Chương trình tư nhân hóa 10
năm ngành bưu điện Nhật vốn không chỉ nhắm đến các hoạt động của hệ thống bưu
chính quốc gia mà còn với các cơ sở ngân hàng và bảo hiểm trực thuộc đã hoàn tất vào
tháng 10/2007, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc tái cấu trúc ngành này
của chính phủ. Không giống như tình hình ở các nước phương Tây, khu vực tài chính
Nhật không chịu ảnh hưởng mạnh từ cuộc Khủng hoảng cho vay thế chấp nhưng do
đối mặt với sự sụt giảm mạnh về khối lượng đầu tư cũng như nhu cầu trước các mặt
hàng xuất khẩu chủ chốt của Nhật ở nước ngoài vào cuối năm 2008, đã đẩy nước này
nhanh hơn vào vòng suy thoái. Tình trạng nợ công quá lớn (chiếm 170%GDP) và tỉ lệ
dân số có tuổi quá cao là hai vấn đề đầy thách thức với Nhật Bản về dài hạn. Hiện tại
những tranh cãi xung quanh vai trò và hiệu quả của các chính sách vực dậy nền kinh tế
là mối quan tâm lớn của người dân lẫn chính phủ nước này[19].
Nhật Bản hiện là một trong các nước có chỉ số lạm phát thấp nhất thế giới[20]
Chỉ số thất nghiệp của Nhật từ 1998 đến 2008[21[sửa] Hoàng gia Nhật Bản Bình
Thành. Ông là con của Hirohito, vị Nhật hoàng trị vì lâu dài nhất (62 năm) và cũng sống
lâu nhất (87 tuổi). Hirohito là Nhật hoàng cuối cùng ủng hộ sự thần thánh của Hoàng
đế.
Nhật hoàng Akihito và Hoàng hậu Michiko có 3 người con (hai trai và một gái). Thái tử
Naruhito sinh ngày 23 tháng 2 năm 1960, đã kết hôn với cô Masako và có một con gái.
Hoàng tử Akishono có hai con gái và một con trai. Theo Hiến pháp Nhật Bản, chỉ nam
giới mới được thừa kế ngai vàng.
[sửa] Cơ quan lập pháp
Khoa học và công nghệ