logo

102 Bí quyết trong TMĐT (Ph ần 3)

Nói chung, những giao dịch giữa các doanh nghiệp (doanh nghiệp với doanh nghiệp) và giao dịch giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng có sự khác nhau. Khi một doanh nghiệp chuyên nghiệp và một người tiêu dùng đạt được một thoả thuận nào đó thì trong vấn đề chọn luật áp dụng, các bên có liên quan không thể xuất phát từ những đạo luật công của nước người tiêu dùng bởi vì những đạo luật đó bảo vệ người tiêu dùng.......
102 Bí quyết trong TMĐT (Ph ần 3) 41. Đạo luật quốc gia nào sẽ điều chỉnh những giao dịch điện tử xuyên quốc gia giữa người bán và người mua? Mỗi cuộc giao dịch xuyên quốc gia đều phát sinh vấn đề luật áp dụng. Luật áp dụng là đạo luật mà các bên  tham gia hợp đồng lựa chọn để điều chỉnh các vấn đề liên quan đến hợp đồng hoặc đạo luật sẽ được áp dụng   khi các bên không chọn trước luật cụ thể. Nói chung, những giao dịch giữa các doanh nghiệp (doanh nghiệp với doanh nghiệp) và giao dịch giữa doanh  nghiệp với người tiêu dùng có sự khác nhau. Khi một doanh nghiệp chuyên nghiệp và một người tiêu dùng đạt  được một thoả thuận nào đó thì trong vấn đề chọn luật áp dụng, các bên có liên quan không thể xuất phát từ  những đạo luật công của nước người tiêu dùng bởi vì những đạo luật đó bảo vệ người tiêu dùng. Giao dịch giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp Các bên có liên quan có quyền quyết định những vấn đề của hợp đồng là một nguyên tắc chung được mọi  người công nhận. Điều đó có nghĩa là các bên được tự do lựa chọn luật điều chỉnh hợp đồng. Nguyên tắc này  đã được tất cả các nước công nhận (trừ một số ngoại lệ như Bơrêdin áp dụng Luật dân sự Bơrêdin năm 1842  trong trường hợp có xung đột về pháp luật). Công ước Rome ngày 19 tháng 6 năm 1980 về luật áp dụng cho  các nghĩa vụ của hợp đồng cũng qui định như vậy. Nếu các bên không ghi rõ luật nào sẽ được áp dụng cho hợp đồng thì tổ chức xét xử (toà án quốc gia hoặc tổ  chức trọng tài) chịu trách nhiệm giải quyết vụ việc đó sẽ phải quyết định luật áp dụng. Mỗi quốc gia có những   qui tắc hướng dẫn việc chọn luật, nhưng một trong hai qui tắc sau đây đã được cộng đồng quốc tế sử dụng: ­ Luật áp dụng là luật của nước người bán (bên cung cấp dịch vụ) qui định trong hợp đồng) ­ Luật áp dụng là luật của nơi ký hợp đồng Ngoài ra, một số công ước hoặc qui tắc quốc tế cũng có những qui định cụ thể về giao dịch quốc tế. Như: + Công ước của Liên hiệp quốc về hợp đồng mua bán quốc tế (Viên, ngày 11 tháng 4 năm 1980). + Những nguyên tắc pháp lý thống nhất (UNIDROIT) về hợp đồng thương mại quốc tế, 1994. Hai văn bản nói trên và những văn bản quốc tế khác thuộc loại này đều có thể được các bên lựa chọn để điều  chỉnh hợp đồng và giải quyết những tranh chấp phát sinh trong các quan hệ liên quan đến hợp đồng. 42. Trong trường hợp có tranh chấp, toà án nào sẽ xét xử một hợp đồng xuyên quốc gia được thoả thuận bằng hệ thống điện tử? Một vấn đề được đặt ra khi có tranh chấp là toà án quốc gia hay tổ chức trọng tài sẽ thụ lý vụ việc đó. Khi trong hợp đồng không có điều khoản về việc một toà án hoặc tổ chức trọng tài cụ thể nào sẽ thụ lý tranh  chấp thì toà án quốc gia sẽ quyết định liệu họ có quyền xét xử vụ việc theo luật quốc gia của họ không. Do đó,  cần nhấn mạnh rằng, để bảo đảm an toàn và khả năng xử lý những tình huống có thể xảy ra, bạn và đối tác   của bạn cần ghi rõ trong hợp đồng là toà án nào hoặc tổ chức trọng tài nào sẽ giải quyết vụ việc khi tranh chấp   xảy ra. Tuy nhiên, cần nói rằng hiệu lực của một điều khoản như vậy còn phụ thuộc vào luật quốc gia. Thí dụ ở  Pháp, một điều khoản như vậy sẽ không có hiệu lực giữa các bên không phải là doanh nghiệp, trừ trường hợp  hợp đồng đó mang tính quốc tế. Một điều khác cần nhắc nhở trong vấn đề luật áp dụng cho hợp đồng và các bên kinh doanh cần qui định rõ  trong hợp đồng rằng luật nào sẽ được áp dụng khi tranh chấp xảy ra. Trong kinh doanh quốc tế, việc áp dụng điều khoản trọng tài là một nhu cầu thực tế thường xảy ra vì nó tránh  được việc khởi kiện bên toà án quốc gia và việc thực thi những qui định quốc gia về thủ tục xét xử, điều mà ít  nhất là một trong hai bên không thành thạo. Hơn nữa, phương thức trọng tài và phương thức đã được quốc tế   thừa nhận. Thí dụ công ước New York năm 1958 về việc thừa nhận và thi hành phán quyết của trọng tài nước  ngoài, đã được 120 nước phê chuẩn đã thừa nhận phán quyết trọng tài cũng có hiệu lực như phán quyết của  toà án quốc gia. Phương thức trọng tài có thể không phải là luôn luôn cần thiết ở những nước đã ký kết hiệp ước qui định toà án  nào sẽ thụ lý vụ việc và thừa nhận phán quyết của toà án quốc gia. Thí dụ ở Châu Âu, công ước Bơrutxen ngày   27 tháng 9 năm 1968 và công ước Lugano ngày 16 tháng 9 năm 1988 qui định toà án có quyền thụ lý vụ việc là  toà án ở nơi cư trú của bên bị kiện, hoặc toà án của nước mà hợp đồng thực hiện ở đó, hoặc toà án của nước bị  thiệt hại, chủ đề của sự tranh chấp. Tuy nhiên, ở nhiều nước còn đồng ý với công dân của họ về quyền đưa   tranh chấp ra toà án quốc gia của họ (trong trường hợp hợp đồng không qui định toà án hoặc tổ chức trọng tài  nào sẽ xử lý vụ việc). Cũng cần phải nói rằng, một dự thảo công ước về quyền phản xét và xét xử đối ngoại đối với các vụ việc dân  sự và thương mại đã được hội nghị Hague về tư pháp quốc tế (Tháng 10/1999) nghiên cứu và một dự thảo qui   chế Châu Âu ngày 14/7/1999 về quyền xét xử tranh chấp cũng đã được đệ trình bên Hội đồng Châu Âu. 43. Làm thế nào để bảo đảm rằng một thỏa thuận đạt được qua hệ thống điện tử sẽ có tính ràng buộc về mặt pháp lý. Khi các bên thảo luận một hợp đồng thương mại qua hệ thống điện tử; hợp đồng đó sẽ được thiết lập bằng cách  một bên đưa ra lời chào hàng và bên kia chấp nhận lời chào hàng. Việc trao đổi sự thỏa thuận đó sẽ tạo ra hiệu  lực pháp lý của hợp đồng mà không cần hai bên thực hiện một hình thức nào khác, trừ trường hợp pháp luật đòi  hỏi hợp đồng phải được viết theo một khuôn mẫu cụ thể (thí dụ trường hợp mua bán tài sản, nhà) hoặc trường   hợp luật pháp quốc gia đòi hỏi hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản (thí dụ trường hợp mua bán doanh  nghiệp, vận đơn đường biển). Tuy nhiên, đối với những giao dịch hàng ngày, vấn đề pháp lý chủ yếu là vấn đề bằng chứng. Sự tồn tại của   một hợp đồng có thể gây tranh cãi nếu bạn không có bằng chứng về sự hình thành hợp đồng. Do đó, một bức  thư điện tử không có chữ ký sẽ là một vấn đề Cũng vì lẽ đó, một bức thư thể hiện lời chào hàng hoặc chấp nhận  chào hàng sẽ có thể dẫn đến rủi ro bởi sự suy nghĩ đơn giản về một bằng chứng viết và không có một bằng  chứng trên văn bản. Ngày nay, trên thế giới đã có những thay đổi to lớn về tư duy pháp lý. Theo đó, người ta thừa nhận rằng những   điều ghi trên đĩa điện tử cũng có chức năng tương đương như viết trên giấy. Hiệu lực pháp lý của những ghi  chép điện tử đã được luật mẫu về thương mại điện tử của UNCITRAL'S công nhận tại điều 6, điều 7, điều 8. Đó  là tài liệu chuẩn cho những nước muốn áp dụng những đạo luật hiện hành hoặc muốn xây dựng những đạo luật  mới để thực hiện việc giao dịch qua hệ thống điện tử. Trên thực tế, nếu bạn sử dụng một phương tiện điện tử (như e­mail) trong quá trình thiết lập hợp đồng thì điều  khôn ngoan là hãy lường trước những vấn đề tiềm ẩn liên quan đến bằng chứng của một chữ ký điện tử, có thể  tin cậy, được thừa nhận, trong những thông tin điện tử của bạn. Điều đó sẽ giúp bạn nhận biết được người ký hợp đồng để sau đó người ấy không thể phủ nhận và nói rằng hợp  đồng chưa được ký kết, nhằm bảo đảm sự toàn vẹn của hợp đồng. Nếu có nghi ngờ thì tốt hơn nữa là gửi thư  xác nhận việc chấp nhận lời chào hàng qua đường bưu điện. 44. Nếu người mua chấp nhận lời chào hàng của tôi trên hệ thống điện tử, tôi có bị ràng buộc về mặt pháp lý như ai ký một hợp đồng không? Ở những nước theo hệ thống luật công như Ấn Độ (Niu Di lân, Negeria, Anh), khi người bán đưa ra một lời chào  hàng, thì theo luật, họ không được huỷ bỏ lời chào hàng đó vào bất cứ lúc nào trước khi lời chào hàng đó được   người mua chấp nhận. Điều đó được áp dụng cho những chào hàng trên hệ thống điện tử và cả những chào  hàng ngoài hệ thống điện tử. Ở những nước có luật dân sự (Brazin, Pháp, Đức, Indonesia), khi người bán đưa ra lời chào hàng, họ có trách  nhiệm duy trì lời chào hàng đó một cách công khai (có nghĩa là họ không thể huỷ bỏ lời chào hàng trong thời  gian họ vẫn có đủ lượng hàng trong kho để đáp ứng bất kỳ đơn đặt hàng nào và trong thời gian có hiệu lực của  lời chào hàng mà người bán đã thông báo). Nguyên tắc này áp dụng cho cả những lời chào hàng trên hệ thống  điện tử và ngoài hệ thống điện tử. Vì những lẽ nói trên, người mua hàng tiềm năng có thể muốn có bằng chứng cho đơn đặt hàng của mình.  Những biện pháp tốt nhất cho việc này là: ­ Ký vào đơn hàng trên hệ thống điện tử hoặc, ­ In một bản sao của thư chấp nhận đơn hàng hoặc, ­ Lưu giữ những trao đổi qua hệ thống điện tử (tức là lưu giữ những trao đổi đó trong đĩa cứng hoặc trong kho dữ  liệu). Công ước Viên về mua bán quốc tế năm 1980 có một đoạn quan trọng tại điều 4 nói về giao dịch giữa doanh  nghiệp với doanh nghiệp, giải thích thuật ngữ “chào hàng” và đề nghị chào hàng đã viết rằng một lời chào hàng  phải được gửi đến cho những người có liên quan và  1/ Đưa ra một lời chào hàng nếu lời chào hàng đó khẳng định một cách đầy đủ và nêu rõ ý định của người chào   hàng là họ chịu trách nhiệm về lời chào hàng đó trong trường hợp lời chào hàng được chấp nhận. 2/ Một lời đề nghị nếu không phải là do một người nào đó gửi cho một người hoặc một số người cụ thể thì chỉ  được xem là lời chào hàng không chỉ định, trừ trường hợp người đề nghị chỉ định rõ người được chào hàng. Trên cơ sở điều 14, một vấn đề cơ bản đẻ ra và một lời chào hàng liệu có được coi là có tính ràng buộc hay   không khi người bán đưa ra một lời chào hàng chung chung (có nghĩa là không gửi cho một người hoặc một  nhóm người cụ thể) trên thư điện tử của mình và một người nước ngoài chấp nhận lời chào hàng đó. Về vấn đề   này,   trung   tâm   trợ   giúp   thủ   tục   và   thực   hành   hành   chính,   thương   mại   và   vận   tải   của   Liên   hiệp   quốc  (UN/CEFACT), tại điều 3, 2.1 của Hợp đồng thương mại điện tử (xem phụ lục số 5) được thông qua vào tháng 3  năm 2000 đã đưa ra câu trả lời có thể đưa vào hợp đồng như sau: Một bức thư sẽ được coi là một lời chào hàng nếu nó bao hàm lời đề nghị ký kết một hợp đồng và được gửi đến  một người hoặc một số người cụ thể, đồng thời khẳng định một cách đầy đủ và thể hiện ý định của người gửi  thư sẵn sàng gánh vác trách nhiệm của lời chào hàng đó khi nó được chấp nhận. Một bức thư điện tử phát ra   một cách rộng rãi cho nhiều người không được coi là lời chào hàng, trừ trường hợp trong thư đó có những chú  thích khác. 45. Làm thế nào để ký một hợp đồng bằng hệ thống điện tử? Chữ ký trên hệ thống điện tử có mang tính ràng buộc như chữ ký trên giấy không? Đa số các nước thừa nhận rằng việc ký kết một hợp đồng trên hệ thống điện tử rất có giá trị, đặc biệt là khi việc   đó xảy ra trong hệ thống điện tử khép kín, như hệ thống trao đổi dữ liệu điện tử. Ngày nay, trên thực tế, chữ ký điện tử được sử dụng thường xuyên nhất là chữ ký số. Đây là công nghệ được sử  dụng rộng rãi nhất và an toàn nhất. Nó cho phép người nhận thư nhận biết được người ký thư thông qua sự can  thiệp của một người thứ ba đáng tin cậy được biết đến như là một người làm chứng. Người ký thư gửi một cặp khoá số lệch, một cái khoá riêng được giữ kín giữa người ký thư và người làm chứng  và một cái khoá chung, như tên gọi đã chỉ định, cho phép người nhận thư có thể kiểm tra qua người làm chứng  để biết rằng chữ ký ấy đúng là của người có chiếc khoá riêng đó. Người làm chứng tạo ra và ký một chứng chỉ  bằng số. Chứng chỉ này được kết nối giữa người ký và cặp khoá của ông ta hoặc bà ta và vì vậy sau đó, người   ký thư không thể phủ nhận chữ ký của mình. Chữ ký này bao gồm một bức thư sử dụng chữ ký thông thường, kèm theo hoặc gắn với bức thư chính. Sự can  thiệp của người thứ ba là rất cần thiết để tạo sự tin cậy và độ an toàn của những cuộc trao đổi điện tử, bởi vì  các bên tham gia hợp đồng không bao giờ gặp nhau để ký hợp đồng. Trên một mức độ lớn, sự phát triển của thương mại điện tử dựa vào sự tin cậy và sự an toàn mà người sử dụng  cảm nhận được ở hệ thống thông tin điện tử. Những công việc liên quan đến chữ ký điện tử hoặc cần đến chữ   ký điện tử rất nhiều. Thí dụ việc thanh toán tiền, ký hợp đồng, kê khai hành chính và thủ tục uỷ quyền. Năm 1981, Hội đồng Châu Âu và năm 1985 UNCITRAL đã nhắc các nước áp dụng những biện pháp cần thiết  để hạn chế những yêu cầu pháp lý đối với văn bản giấy tờ và chữ ký trực tiếp để thực hiện việc sử dụng dữ liệu  hoặc hệ thống điện tử với hiệu lực tương đương. Điều 7 của luật mẫu về thư điện tử do UNCITRAL soạn thảo   năm 1996 quy định: Nếu ở nơi nào mà luật pháp yêu cầu chữ ký của một người nào đó thì yêu cầu ấy có thể đáp ứng bằng thư điện  tử trong những trường hợp sau đây: a) Một phương pháp được sử dụng để nhận biết người đó và chứng tỏ rằng người đó đã thông qua thông tin bao  hàm trong bức thư điện tử ấy và b) Phương pháp đó là đáng tin cậy vì nó phù hợp với mục đích mà bức thư điện tử đó nhằm đạt tới hoặc cần   thông báo, trong mọi hoàn cảnh, kể cả những thoả thuận đã được nêu ra. Những điều trên đây được áp dụng trong trường hợp cần có một hình thức cam kết hoặc luật pháp đòi hỏi phải  làm như vậy vì không có chữ ký. Luật và dự luật của một số nước (thí dụ Achentina, Úc, Niu Di Lân) đã chấp nhận chức năng của chữ ký điện tử  và qui định rằng chữ ký điện tử cũng có giá trị như chữ ký viết tay hoặc ít nhất là hiệu lực pháp lý hoặc độ tin  cậy của một chữ ký không thể bị phủ nhận chỉ vì nó được thể hiện bằng hình thức điện tử. 46. Làm thế nào để biết chắc rằng những điều khoản mà tôi thực tế nhìn thấy trên máy tính của mình đúng là những điều mà đối tác phát ra trên máy của họ. Xét về mặt kỹ thuật, người ta không có khả năng bảo đảm rằng thông tin điện tử được thể hiện trên màn hình  của một máy tính là phù hợp với thông tin được phát ra. Sự bảo đảm đó chỉ có thể đạt được ở mức độ nhất định  bằng cách có được tài liệu hoặc bản gốc được một người thứ ba độc lập chứng nhận (thí dụ một công ty kiểm  toán và phòng thương mại). Một phương pháp khác có thể lựa chọn là hãy lấy tài liệu hoặc trang chữ viết trên  màn hình và in ra để có bằng chứng trong trường hợp có tranh chấp. 47. Làm thế nào để bảo vệ công việc kinh doanh, nhãn hiệu, tên miền và tài liệu đã xuất bản không bị sao chép trên mạng máy tính. Bảo vệ công việc kinh doanh không bị sao chép. Bạn cần biết rằng luật bảo hộ sáng chế hoặc luật bản quyền tác giả không bảo hộ bí quyết bí mật và ý tưởng  thương mại. Những cái đó rất khó bảo hộ, trừ phi có một thoả thuận đáng tin cậy. Việc có một thoả thuận như  vậy để ngăn ngừa những cộng tác viên, đối tác, người ký hợp đồng phụ hoặc khách hàng khai thác những ý   tưởng mà một công ty muốn được bảo hộ là điều cần thiết. Trên thực tế, sự bảo hộ đó có thể được thực hiện một cách chắc chắn bằng cách ghi vào hợp đồng những điều   khoản về sự tin cậy và không cạnh tranh lẫn nhau. Ngoài ra, một số nước thực hiện sự bảo hộ đó bằng cách đăng ký những bì thư đã đóng dấu niêm phong, dán  tem, đề ngày, chứa đựng những bí mật thương mại tại cơ quan nhà nước về bảo hộ sở hữu công nghiệp quốc  gia. Một biện pháp có giá trị thực tế tương đương và sử dụng hệ thống IDDN. Hệ thống này được dùng để nhận   biết người chiếm hữu tác phẩm kỹ thuật số và qui định những điều kiện về việc sử dụng những tác phẩm đó. Nó   cung cấp cho những người chiếm hữu chân chính khả năng bảo vệ và sử dụng quyền của họ đối với những   sáng tạo kỹ thuật số. Với hệ thống đó, một mã số điện tử được đăng ký có thể dùng để nhận biết những thông tin điện tử cụ thể và  do Hiệp hội quốc tế Inter Deposit chỉ định. Theo qui định của IDDN, người chiếm hữu chân chính được cấp một  chứng chỉ của IDDN để kèm theo tác phẩm điện tử. Chứng chỉ này ghi rõ số hiệu riêng của IDDN, tên tác  phẩm, những điều kiện đặc biệt về việc sử dụng, khai thác và tất cả các “nguồn” xuất xứ của tác phẩm. Do đó,  việc sử dụng những tác phẩm kỹ thuật số có thể thực hiện phù hợp với quyền sở hữu tài sản trí tuệ nhờ vào việc  nhận biết những người chiếm hữu chân chính ở mỗi giai đoạn, những đóng góp mang tính sáng tạo của từng  tác phẩm và những điều kiện mà họ đã quy định về việc sử dụng tác phẩm. Số liệu quốc tế của IDDN được  thiết kế để kèm vào tác phẩm trong mỗi lần tái bản, tái hiện và người chiếm hữu chân chính có thể luôn luôn  nhận biết được. Cơ quan InterDeposit còn kiểm tra việc sử dụng và tái sản xuất trên Internet một cách phi  pháp. Bảo hộ nhãn hiệu.  Pháp luật của hầu hết các nước bảo hộ nhãn hiệu thương mại nếu nhãn hiệu đó khác với nhãn hiệu của hàng  hoá khác và không phải là giả mạo. Theo hiệp định của tổ chức Thương mại thế giới về thương mại liên quan  đến quyền sở hữu tài sản trí tuệ (TRIPS); thời hạn bảo hộ tối thiểu đối với nhãn hiệu thương mại là 7 năm kể từ  ngày bắt đầu đăng ký. Khi hết hạn phải đăng ký lại. Nhãn hiệu thương mại cũng có thể đăng ký trên bình diện quốc tế tại tổ chức tài sản trí tuệ thế giới (WIPO). Đối  với các nước thành viên của Hiệp định Mardrid, thời hạn bảo hộ nhãn hiệu thương mại và 20 năm. Ở Châu Âu, các doanh nghiệp có thể đăng ký nhãn hiệu thương mại Châu Âu theo qui chế của Hội đồng Châu  Âu số 40­94 ngày 20 tháng 12 năm 1993. Nhãn hiệu thương mại được bảo hộ có thể sử dụng cho một hoặc một số sản phẩm và người chiếm hữu nhãn  hiệu đó có quyền sở hữu nó. Một bản thiết kế nhãn hiệu có thể đồng thời được bảo hộ bởi 2 luật: Luật bản  quyền tác giả và luật nhãn hiệu thương mại. Một điều hiển nhiên cần biết là ngay trong trường hợp không xin đăng ký; nhãn hiệu tác phẩm cũng được bảo  hộ, nếu đó là nhãn hiệu nổi tiếng. Việc bắt chước nhãn hiệu thương mại một cách phi pháp sẽ bị xử lý theo luật. Việc đăng ký một cách phi pháp một nhãn hiệu thương mại trùng với một nhãn hiệu đang lưu hành có thể dẫn  đến một hành động xoá bỏ hoặc một hành động khiếu nại để quyết định người sở hữu hợp pháp của nhãn hiệu. Bảo hộ ký hiệu điện tử trên mạng máy tính của bạn. Việc gửi và đăng ký tên miền trên mạng máy tính của bạn là do các tổ chức được Công ty đăng ký tên gọi và số  hiệu Internet (ICANN) uỷ nhiệm thực hiện. Những tổ chức đó là:  ­ Inter NIC (Internet Network information Center): đối với Hoa Kỳ và tất cả các nước không thuộc diện quản lý  của RIPE­ NCC hoặc APNIC NSI (Networt Solutions Inc) Đối với tất cả các loại Internet (mạng máy tính thương mại, mạng máy tính chính phủ) theo uỷ nhiệm của NIC. ­ RIPE­NCC (Ripe Network Coordination Centre): Dùng cho Châu Âu. RIPE làm việc cho Réhaux IP européen  (european IP Network). ­   AFNIC   (association   francaise   pour   nommage   Internet   en   cooperation/the   French   association   for   Internet  naming in Cooperation: Dùng cho nước Pháp, theo uỷ nhiệm của RIPE­ NCC và thuộc sự quản lý của INRIA  (institut   national   de   recherche   en   informatique   et   en   automatique/the   National   institute   for   research   in  Computer Sience and control). APNIC (Assia ­ Pacific Network Informatique Centre): Dùng cho Châu Á và khu vực Thái Bình Dương. Do việc đăng ký tên miền trên mạng được thực hiện theo thứ tự trước sau nên thường xảy ra tranh chấp với   những nhãn hiệu thương mại hoặc tên gọi thương mại đã có và ký hiệu mới đăng ký. Do đó, để bảo vệ tên miền   của bạn trên mạng, cách tốt nhất là đăng ký đồng thời nhãn hiệu của bạn (nhãn hiệu thương mại, tên công ty  như đã kể trên) và tên miền của bạn (dưới dạng com, ra, net) với cơ quan nhà nước về quản lý sáng chế và  nhãn hiệu thương mại ở nước bạn. Bạn cũng có thể đăng ký ký hiệu điện tử trên mạng của mình giống như nhãn hiệu thương mại (nếu nhãn hiệu  thương mại của bạn đã đăng ký với cơ quan nhà nước về bảo hộ tài sản trí tuệ ở nước bạn hoặc với tổ chức tài  sản trí tuệ thế giới WIPO) bằng cách chứng minh quyền sở hữu của bạn đối với nhãn hiệu thương mại ấy. Thí  dụ, bạn có thể đăng ký tên miền của bạn trên mạng là HILTON.tm.fr nếu bạn là người chiếm hữu HILTON  TM  hoặc. Sự thận trọng này sẽ bảo đảm cho bạn có được sự bảo hộ hữu hiệu chống lại những người thứ ba có thể sử   dụng một cách phi pháp việc đăng ký một nhãn hiệu tương tự và sau nữa là có được một tên miền trên mạng.   Thí dụ người chiếm hữu ký hiệu HILTON fr   hoặc có thể khiếu kiện người sử dụng hoặc coi HILTON fr là nhãn  TM hiệu hoặc ký hiệu tên miền của họ trên mạng. Tuy nhiên, việc sở hữu ký hiệu HILTON đơn thuần không đủ điều  kiện để loại bỏ một tên miền trên mạng như ký hiệu HILTON fr (trừ trường hợp xuất hiện những vi phạm pháp  luật rõ ràng của hành vi cạnh tranh không lành mạnh, kinh doanh kiểu ăn bám và lạm dụng quyền bảo lưu tên  miền mới tăng thêm). Bảo hộ tài liệu công bố trên mạng  Căn cứ theo công ước Berne ký năm 1986 và sửa chữa năm 1996, mọi sáng tạo trí tuệ gốc đều thuộc về chủ  sở hữu. Người chủ sở hữu giữ độc quyền khai thác và độc quyền về những mặt sau đây: Tái hiện, tái sản xuất, dịch, phát thanh, cải tiến, ghi âm, ngâm vịnh trước công chúng, quyền tiếp tục phát triển,  quyền lợi tinh thần. Thời hạn bảo hộ là cuộc đời tác giả cộng thêm 50 năm sau khi tác giả qua đời. Căn cứ theo   Hiệp định TRIPS của tổ chức thương mại thế giới, các chương tính máy tính được coi là những tác phẩm văn  hoá và được bảo hộ theo luật quốc gia về bản quyền tác giả. Tiền lệ pháp lý ở một số nước Châu Âu và Bắc Mỹ đã tạo nên ý thức coi việc tái sản xuất những sáng tạo trí tuệ  trên hệ thống máy tính mà không được phép là hành vi trái pháp luật. Về bản chất, Internet là một phương tiện thông tin đại chúng. Điều đó, kết hợp với tính chất quốc tế của nó  đang khiến cho sự khác biệt vốn có giữa các sản phẩm tư tưởng, thiết kế và kiểu dáng đang ngày càng trở nên   không thích hợp. Nội dung của Internet cũng có tính chất đại chúng xét theo bản chất của nó. (Nó bao gồm  những hình ảnh, âm thanh, thiết kế, kiểu dáng, bài viết và những chi tiết về các quyền khác nhau có liên quan  mà ở đây không thể kể hết được). Việc đưa thêm vào ký hiệu chữ đối với quyền tác giả và chữ đối với nhãn hiệu thương mại đã đăng ký sẽ có tác  dụng thông báo cho người sử dụng biết rằng đó là một tác phẩm được bảo hộ. Một trong nhiều phương thức  bảo hộ hiện nay là sử dụng ký hiệu xăm hình và dẫn chiếu một người thứ ba, vừa là đại lý vừa là người nhận  diện tác phẩm. Vì tác phẩm được bảo hộ bằng luật bản quyền tác giả có thể tự do lưu hành trên mạng máy tính và ký hiệu xăm  hình có thể tăng cường quyền sở hữu của tác giả, nên người ta có thể nhận biết được tác giả. Điều đó cũng làm  cho người ta có thể biết được phương pháp đã sử dụng để quản lý tiền bản quyền tác giả và do đó mà biết được  tiền đó phải trả cho ai. (Thứ Ba, 05/06/2007-4:06 PM) 48. Những hướng dẫn và quy chế hiện hành về việc bảo vệ bí mật những cuộc trao đổi điện tử. Việc trao đổi tài liệu bằng thư điện tử, FTP hoặc các phương tiện khác nếu không có sự bảo hộ cụ thể sẽ không   giữ được bí mật. Những dữ liệu trao đổi sẽ bị người khác thu được (và đọc) một cách dễ dàng thậm chí có thể  giải mã. Mọi người cần lưu ý đến một thực tế là hầu hết các cuộc trao đổi điện tử (điện thoại, fax, thư điện tử v.v...) với   các nước khác có thể bị máy tính siêu đẳng kiểu mới thu và đọc (hoặc nghe). Điều đó có nghĩa là tất cả những  dữ liệu quan trọng của một quan điểm công nghiệp hoặc thương mại có thể bị thu và phân phát cho các công ty  đối thủ. Thí dụ, trên lý thuyết, một bản fax hoặc một bức thư điện tử được phát ra từ một hãng chế tạo máy bay  cho một công ty hàng không về một cuộc đấu thầu có thể bị đối thủ cạnh tranh biết được rồi nhanh chóng điều   chỉnh giá chào hàng và do đó mà đối thủ giành được phần thắng. Do vậy, bí mật của những cuộc trao đổi điện tử rất quan trọng, không những đối với an toàn của thương mại   điện tử mà còn liên quan đến sự sống còn về thương mại của các công ty và đời tư của những người trong công  ty. Trên bình diện quốc tế, những hướng dẫn và quy chế sau đây đang được sử dụng trong việc này: ­ Tài liệu hướng dẫn về chính sách bản quyền tác giả do hội đồng OECD thông qua ngày 7 tháng 3 năm 1997. ­ Hiệp định Wassemaar ngày 11 ­ 12 tháng 7 năm 1996, có hiệu lực từ tháng 9 năm 1996 (áp dụng cho 33  nước). ­ Qui chế của Hội đồng EC số 3381/94 ngày 19 tháng 12 năm 1994 về việc thiết lập hệ thống kiểm soát chung  đối với việc xuất khẩu hàng hoá sử dụng hai lần và quyết định về hành động chung số 94/942/CFSP ngày 19  tháng 12 năm 1994 do Hội đồng EC thông qua trên cơ sở của Điều 1.3 trong Hiệp ước của Liên minh Châu Âu   về kiểm soát xuất khẩu hàng hoá sử dụng hai lần. Tuy nhiên, vì hệ thống văn bản viết bằng mật mã có ảnh hưởng đến an ninh đối nội và an ninh đối ngoại của  các nước, nên các nước có chủ quyền đều có chính sách riêng để phục vụ lợi ích chiến lược của họ. 49. Một số vấn đề chủ yếu liên quan đến thuế giao dịch qua Internet: Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đang làm việc với các nước để đi đến thoả thuận nhằm bảo đảm  những việc sau đây: ­ Không đặt ra những sắc thuế mới tạo nên sự phân biệt đối xử đối với thương mại điện tử. ­ Những quy định về thuế hiện hành phải thể hiện được sự nhất quán trong luật thuế quốc gia và tránh đánh  thuế hai lần. ­ Hệ thống thuế phải được thực thi một cách bình đẳng dù cho những giao dịch đó diễn ra qua các phương tiện   thương mại thông thường hơn. Để đạt được sự thoả thuận trên toàn thế giới về vấn đề thuế thương mại điện tử, các nước tham gia OECD đồng  ý rằng quy định về thuế đối với Internet hoặc thương mại điện tử phải được thực thi theo nguyên tắc trung lập,  công hiệu, ổn định, đơn giản, có hiệu quả, lành mạnh và mềm dẻo. Ở Mỹ, tiểu ban tư vấn về thương mại điện tử đã khuyến nghị Quốc hội kéo dài việc tạm thời không thu thuế đối  với giao dịch Internet cho đến năm 2006. Ở liên minh Châu Âu, theo văn bản hướng dẫn thứ 6 số 77.388 ngày 17 tháng 5 năm 1997 JOCEL 195/1 , điều  cần thiết trước tiên là phải xác định việc mua bán đó là mua bán hàng hóa hay dịch vụ (cách xác định ở mỗi  nước có thể khác nhau) để quyết định xem một nước thành viên nào đó có áp dụng thuế giá trị giá tăng hay  không. EU không thu thuế xuất khẩu hoặc nhập khẩu dịch vụ giữa các nước trong liên minh. 50. Một số tranh cãi xung quanh việc tán thành và không tán thành thuế giao dịch qua Internet. (Trong lúc đưa ra một viễn cảnh của Mỹ, bài viết sau đây có thể bổ ích cho những người nắm quyền quyết định  ở các nước đang phát triển đang tranh luận về vấn đề thu hay không thu thuế giao dịch thương mại điện tử). Đầu năm 2000, Tiểu ban tư vấn về thương mại điện tử thuộc Quốc hội Mỹ đã đưa ra khuyến nghị trọn gói về  thuế, nhưng bị thất bại, vì không giành được 2/3 số phiếu cần thiết trong tổng số 19 thành viên của tiểu ban để   khuyến nghị đó có thể trở thành một văn bản chính thức trình lên quốc hội. Họ cũng đã không nhất trí về việc  có đánh thuế dịch vụ mua bán trên mạng hay không và bao giờ thì đánh loại thuế đó. Tiểu ban này đã nêu ra kế hoạch kéo dài việc tạm thời không thực hiện chính sách thuế mới đối với Internet   đến năm 2006 nhằm tạo ra một quá trình để chính phủ trung ương và chính quyền địa phương đơn giản hóa  thuế bán hàng và hủy bỏ việc đánh thuế viễn thông liên bang ở mức 3%. Theo ý kiến những người ủng hộ chủ  trương này, việc hủy bỏ thuế viễn thông với số tiền 52 tỷ đô đa trong 10 năm sẽ tiết kiệm chi phí cho những   người sử dụng Internet. Và theo lời ông Fames Gilmore, thống đốc bang Virgina, đồng thời là chủ tịch tiểu ban  nói trên thì đây là một đợt miễn thuế lớn đối với người dân Mỹ. Mặc dầu không nhất trí về vấn đề cốt lõi là đánh thuế vào việc mua bán qua Internet hay không nhưng báo cáo  của tiểu ban đã dọn đường cho Quốc hội. Tháng 3 năm 2000, ủy ban thương mại của Nhà trắng đã nghe điều  trần về vấn đề thuế và sau đó, Thượng viện cũng đã nghe điều trần về vấn đề này. Năm 1998, Quốc hội Mỹ đã ầm ĩ khi tiểu ban nói trên đề nghị cấm thu thuế sử dụng Internet và các thứ thuế  khác nhằm vào Internet trong ba năm. Tiểu ban này đã làm việc trong 10 tháng để quyết định liệu có nên đánh  thuế việc mua bán trên mạng vào người tiêu dùng không, đánh thuế như thế nào và đã báo cáo việc đó với  quốc hội vào tháng 4/2000. Kết luận đáng chú ý: Sau khi cân nhắc cẩn thận, tiểu ban đã đi đến một kết luận đáng chú ý là những người tán thành và những  người không tán thành việc đánh thuế Internet sẽ gặp gỡ riêng để có thể có được đa số 2/3 nhằm đạt được một  bản khuyến nghị chính thức trình Quốc Hội. Thống đốc Gilmore, ông Nichael Armstrol ­ chủ tịch hãng AT&T và ông David Pottruck ­ Chủ tịch công ty  Charles Schwab đứng đầu nhóm phản đối và đàm phán với nhóm tán thành, đứng đầu là ông Michel Leavitt ­  Thống đốc bang UTAH, ông Gary Locke ­ Thống đốc bang Oashington và ông Ron Kirk ­ Thị trưởng thành phố   Dallas. Ông Locke nói “chúng tôi rất gần gũi với nhau nhưng trong vấn đề cụ thể, chúng tôi không thể thỏa  thuận với nhau”. Và thời gian đã trôi qua.  Những phía đối lập nhau Trong vấn đề này các công ty Internet như AOL, Amazon.com.Inc cũng như các quan chức nhà nước và những  người không tán thành chính sách thuế mới. Những công ty bán lẻ như công ty Wal ­ Mak Stores Inc và những  hiệu sách độc lập đã phát biểu rằng họ sẽ bị 1ỗ trong việc kinh doanh Internet. Các vị thống đốc cũng nói thu  nhập của họ sẽ giảm sút nếu bị đánh thuế Internet. Ông Stuart Eienstat, phó giám đốc kho bạc, người  đã tham gia những  cuộc đàm phán  qua điện  thoại, từ  Oashington cho biết cuộc đàm phán đã có tiến bộ. Ông nói với phóng viên báo chí: “chúng tôi cảm thấy sự  khác nhau đã được thu hẹp đáng kể”. Nhưng ông Eienstat cho biết, các tập đoàn kinh doanh đã đi quá xa khi họ yêu cầu một hình thức trợ cấp xã hội   đối với thuế bán hàng qua Internet và đối với những người bán hàng ở các vùng xa. Ông Eienstat nói rằng “sự  thay đổi đó là quá lớn, quá quan trọng đối với nhà đương cục hiện nay”. Cuộc đàm phán đã tan vỡ khi các bên không nhất trí về việc bao giờ thì nhà nước sẽ có thể buộc các nhà bán  lẻ dịch vụ Internet, các doanh nghiệp đặt hàng qua thư điện tử và các người bán hàng ở các vùng xa nộp thuế  Internet. Việc thu thuế Internet  Công ty Gateway Inco. và các nhà kinh doanh khác muốn có những tiếng nói ngăn cản việc nhà nước yêu cầu  thu thuế Internet từ những nhà bán lẻ Internet để các doanh nghiệp địa phương có thể bảo đảm việc sửa chữa  và trao đổi máy tính cũng như những sản phẩm mua qua Internet. Ông Frank Shafroth, giám đốc phụ trách quan hệ giữa liên bang và các liên bang thuộc Hiệp hội các Thống  đốc toàn quốc cho rằng “nộp thuế là trách nhiệm của doanh nghiệp; nhưng các nhà doanh nghiệp đã đòi hỏi   những sự cắt xén, những ngoại lệ to lớn đối với luật lệ có liên quan; trong lúc đó những đại điện của các doanh  nghiệp không muốn đưa ra một nghĩa vụ nào từ phía họ”. Ông Ted Waitt chủ tịch hãng Gateway nói rằng ông muốn làm rõ hơn những quy định về việc lúc nào thì Nhà  nước có thể buộc Internet và những người bán hàng khác ở các vùng xa nộp thuế bởi vì đó là một phần trong  đề án rộng lớn của Chính phủ về việc đơn giản hóa công tác thuế. Ông nói “Đây không phải là việc riêng của  hãng Gateway. Vấn đề này là đỉnh cao của một đề tài lớn, đề tài đánh thuế của Internet”. Tất cả các bên đều nói rằng họ sắp đạt được thỏa thuận và họ đề nghị sửa đổi những quy chế của tiểu bang   nói trên để có thể tiếp tục thảo luận với hy vọng đi đến một sự thỏa hiệp. Ông Armstrong của công ty AT&T nói   “Chúng tôi đã có cơ hội thảo luận thêm với nhau”. Nhưng một số quan chức chính quyền địa phương không tỏ ra lạc quan. Ông Leavitt nói “Tôi nghĩ rằng tiểu ban  sẽ thất bại trong việc tìm kiếm 13 phiếu ủng hộ”. 51. Chi phí về thương mại điện tử có rẻ không? Nếu rẻ thì tại sao nhiều người sợ trả tiền cho Internet? Thương mại điện tử là một phương tiện rẻ tiền để hoạt động kinh doanh vì nếu không thì người tiêu dùng sẽ  không chi 111 tỷ đôla trong năm 1999 về việc đó, tức là tăng 220% so với mức 50 tỷ đôla trong năm 1998. Đó  là số liệu tính toán của công ty dữ liệu quốc tế “international Data Corporation”. Con số đó chứng minh người  tiêu dùng không quay lưng với thương mại điện tử. Khái niệm chi phí rẻ không bao giờ có ý nghĩa tuyệt đối mà chỉ có ý nghĩa tương đối. Nếu so sánh với những   gian lận có thể gặp phải khi sử dụng các phương thức mua hàng thì phương thức thương mại điện tử rẻ hơn.   Một người mua hàng khi trao một tấm thẻ tín dụng cho người thu tiền ở cửa hàng hoặc một nhân viên khách  sạn hoặc bấm máy điện thoại để mua hàng thì rủi ro mà họ có thể gặp phải do bị lừa trong khi sử dụng thẻ tín  dụng sẽ lớn hơn việc sử dụng Internet. Đối với các nhà buôn thì những rủi ro của thương mại điện tử thấp hơn so với tất cả các phương thức kinh   doanh truyền thống. Một thương gia sử dụng phương thức thương mại điện tử có thể giảm bớt đáng kể những   rủi ro thương mại như rủi ro trong lúc lưu kho, hỏa hoạn, mất trộm, bị nhân viên ăn cắp vặt. Đối với những ý tưởng mới, một số người nhiệt tình đón nhận, còn một số người khác chỉ sử dụng sáng kiến khi   nó có hiệu quả. Họ sẽ trở thành người đi sau khi phát hiện rằng phương pháp mới có thể khiến họ hài lòng. Tuy  nhiên cái mới sẽ chiến thắng và cái cũ sẽ tiêu vong. Internet đã tỏ ra là được việc và có hiệu quả. Nhiều người mua hàng qua Internet đã cảm nhận được sự thuận  tiện của phương thức mua hàng này. Điều đáng tiếc là một số trang web không an toàn khiến một số người bực  bội. Phương tiện thông tin đại chúng đang cung cấp cho chúng ta sự bảo đảm to lớn đối với những vấn đề nảy   sinh do thiếu an toàn trên Internet. Đồng thời, nó thông báo cho chúng ta biết việc sử dụng rầm rộ “Internet”, sự   gia tăng nhanh chóng số người sử dụng Internet trên thế giới và sự phát triển của phương thức bán hàng tiêu  dùng qua Internet. Nó giúp người ta tiếp tục nghiên cứu và hiểu rằng các công ty đang phát triển chiến lược mới   như thế nào để có thể có được những lợi thế qua việc sử dụng Internet. Những điều khẳng định về Internet đang khuyến khích việc sử dụng Internet nhiều hơn. 52. Làm thế nào để người tiêu dùng yên tâm về sự an toàn và bảo đảm bí mật của Internet. Các công ty riêng lẻ, những người bán máy vi tính, các hiệp hội và các chính phủ đang áp dụng những biện  pháp nhằm bảo đảm an toàn và bí mật Internet để đối tác của họ yên tâm trong việc này. Đối với các công ty riêng lẻ. Các công ty thiết lập website là nhằm: ­ Mua thêm những bản dịch phức tạp về ứng dụng phần mềm máy tính, bao gồm mật mã, cơ cấu bảo vệ và các  dụng cụ an toàn khác. ­ Những báo cáo về bí mật và sự an toàn trong các bài viết và biểu đồ trên mạng ­ Thiết lập trình tự xác nhận đơn đặt hàng. Đối với những người bán hệ thống máy tính: Các xí nghiệp riêng lẻ đang dạy các thành viên những vấn đề và giải pháp, huấn luyện họ làm thế nào để thực   hiện những biện pháp an toàn vào những website của họ. Hiệp hội thương mại của những người cung cấp dịch  vụ an toàn cho thế giới máy tính mang tên Hiệp hội quốc tế về an toàn máy tính (www.icsa.net) đã thành lập   vào năm 2000 một nhóm mang tên Liên minh an toàn máy tính. Những thành viên của nhóm này đã hứa hẹn  cung cấp việc nhận dạng và giải quyết những vấn đề tiềm ẩn về an toàn máy tính. Các chính phủ Ở Mỹ, sau một loạt những vụ tấn công vào sự an toàn của nhiều website vào tháng hai năm 2000, Nhà trắng  đã họp với những người đứng đầu ngành công nghệ này để nêu vấn đề và cơ quan điều tra của Liên bang đã  can thiệp. Một đạo luật chặt chẽ đang được xem xét để quyết định khả năng sử dụng luật pháp đối với mọi  hành vi gây nhiễu giao dịch Internet và xét xem cần có những đạo luật mới như thế nào để xử lý vấn đề này. Tháng 4 năm 1999, các bộ trưởng viễn thông của 15 nước Liên minh châu Âu đã thỏa thuận một văn bản  hướng dẫn về chữ ký điện tử. Tháng 3 năm 2000, các quan chức của chính phủ Mỹ và ủy ban Châu Âu tuyên bố rằng, họ đã sơ bộ thoả  thuận về một quy chế mới nhằm bảo vệ bí mật của khách hàng, kết thúc mấy năm tranh cãi về việc thông qua  một quy chế như vậy. Những doanh nghiệp hoạt động trên mạng không tuân thủ các quy định về bảo vệ bí mật  khách hàng sẽ có thể bị khởi kiện theo những đạo luật dành cho các hành vi lừa đảo. Cùng với sự quan tâm của phương tiện thông tin đại chúng trong vấn đề này, những khách hàng và doanh   nghiệp không có liên quan trực tiếp hoặc chỉ mới liên quan trong thời gian gần đây sẽ yên tâm khi tiến hành  kinh doanh qua Internet và do đó cảm thấy thuận tiện với sự hiện diện của Internet. Ngày 20 tháng 3 năm 2000, báo Business Week đã đăng bài “Phải làm gì để bảo vệ bí mật trên mạng?”. Bài  báo đã kêu gọi cần có những quy định rõ ràng về bảo vệ bí mật trên mạng theo tinh thần của văn bản về việc  hành nghề thông tin lành mạnh”, một quy phạm hợp lý về bảo vệ bí mật đã được thông qua cách đây 25 năm  mà toàn thế giới đều biết. Những nguyên tắc chủ yếu của văn bản đó là: ­ Theo yêu cầu của pháp luật, các công ty kinh doanh trên mạng máy tính phải công khai nói rõ họ thu thập  thông tin và sử dụng thông tin như thế nào. ­ Khách hàng phải được kiểm tra để biết các dữ liệu của mình được sử dụng như thế nào. ­ Sóng web phải có khả năng kiểm tra dữ liệu và đính chính bất cứ sai sót nào mà họ phát hiện. ­ Khi các công ty vi phạm quy chế, chính phủ phải có quyền xử phạt. 53. Những việc khác cần làm để bảo vệ khách hàng trên mạng trên bình diện quốc gia và bình diện một ngành? Làm thế nào để tôi có thể bảo vệ khách hàng của mình và giành được sự tin cậy của họ? Chính phủ và các cơ quan nhà nước có thể tăng cường sự tin cậy của khách hàng trong thương mại điện tử   bằng cách dành cho khách hàng sự bảo hộ hữu hiệu trên mạng. Họ phải khai thác các cơ hội để tiến hành sự hợp tác quốc tế nhằm củng cố các đạo luật bảo vệ khách hàng và  tạo điều kiện hợp tác giữa ngành tin học với khách hàng nhằm thiết lập cơ chế bồi thường đối với khách hàng  trên mạng. Tóm lại, thị trường trên mạng là nơi có thể mua hàng, dịch vụ và thông tin, với chi phí thấp và an toàn. Nhưng   để khuyến khích việc mua bán trên mạng nhiều hơn, cần làm cho người tiêu dùng tin rằng hàng hoá và dịch vụ  chào bán trên mạng có chất lượng tốt và các thương gia sẽ cung cấp hàng đúng thời gian, không có sự dối trá  lừa đảo. Các đơn vị kinh doanh Internet phải phát triển hệ thống mã số thương mại điện tử giữa doanh nghiệp với người  tiêu dùng và cơ chế thích hợp để các bên có thể lựa chọn dễ dàng khi giải quyết tranh chấp cũng như việc thực  thi cơ chế đó. Các nhà xuất khẩu cần xem xét việc đưa lên website của mình lời cam kết về việc giữ bí mật của khách hàng. Thí dụ, để nâng cao thông tin về việc mua hàng trên mạng và để người Châu Âu không lo lắng về những thông  tin nhạy cảm từ bên kia Đại Tây Dương, nhiều công ty ở Mỹ đang đưa ra dịch vụ chứng nhận. Một trong những  công ty thực hiện dịch vụ đó khi những nhà đàm phán của Mỹ và Châu Âu thảo luận với nhau và “Better  Business Bureau”. Công ty này đã xây dựng một hệ thống mã số cho việc hành nghề kinh doanh trên mạng, ký  hiệu tên miền của nó là BBB online (http/www.bbbonline.org). Công ty này đang làm việc với đại diện các hãng  tin học, người tiêu dùng và chính phủ để tăng cường hướng dẫn thương gia trên mạng trong việc thực thi cơ chế  bảo vệ khách hàng như thông báo cho khách hàng biết các điều khoản thương mại, bí mật dữ liệu cần bảo vệ,   các biện pháp giải quyết tranh chấp và quảng cáo nào là trung thực. Mạng giám sát tiếp thị quốc tế đang trao đổi thông tin và hợp tác với các cơ quan bảo vệ người tiêu dùng ở 27  nước để nghiên cứu việc tăng cường pháp luật trong lĩnh vực này. Tháng 12 năm 1999, Hội đồng OECD đã thông qua văn bản hướng dẫn việc bảo hộ người tiêu dùng trong lĩnh  vực thương mại điện tử. Theo website của OECD, nội dung của nó là: “... Giúp người tiêu dùng mua hàng trên  mạng có được sự bảo hộ không kém thua sự bảo hộ mà họ có thể có được khi mua hàng ở các cửa hiệu hoặc  mua hàng qua ca­ta­lô. Bằng cách tạo lập những đặc trưng chủ yếu cho việc bảo hộ người tiêu dùng, văn bản   hướng dẫn này nhằm góp phần hạn chế một số điều bất ổn mà người tiêu dùng và doanh nghiệp có thể gặp  phải khi mua bán trên mạng. Đó là kết quả của 18 tháng thảo luận giữa đại diện các chính phủ, các doanh   nghiệp, các tổ chức người tiêu dùng của các nước tham gia OECD. Văn bản này sẽ đóng vai trò to lớn để đưa  đại diện các chính phủ, các nhà kinh doanh và khách hàng vào việc phát triển và thực thi cơ chế bảo hộ khách  hàng mua hàng trên mạng mà không tạo ra những rào cản thương mại. Một gợi ý cho các thương gia trên mạng về việc họ cần làm thế nào để bảo hộ khách hàng và nhận được sự tin   cậy từ khách hàng đã được mô tả trong một cuốn sách của Canada. Đó là cuốn: “Những nguyên tắc về việc  bảo hộ khách hàng sử dụng thương mại điện tử” (Cuốn sách này do một nhóm gồm đại diện các nhà kinh  doanh, khách hàng và đại diện chính phủ biên soạn). Báo cho khách hàng biết bạn là ai. Điều này có thể thực hiện bằng cách giới thiệu tên công ty bạn và thể hiện rõ trên website của bạn ở nhà, kèm  theo thông tin chi tiết cần cho việc liên hệ. Tuy nhiên, bạn cũng cần biết rằng một số khách hàng thích sử dụng   những phương thức ngoài thư điện tử để liên hệ với các công ty như điện thoại, fax và thư bưu điện. Cung cấp thông tin chi tiết. Vì những người mua hàng trên mạng không thể kiểm tra hàng hoá của bạn; do  đó lời chào hàng cần đưa ra những thông tin tỉ mỉ nhất về sản phẩm và dịch vụ của bạn bằng ngôn ngữ dễ  hiểu. Giới thiêu với khách hàng trình tự mua hàng rõ ràng, bao gồm nhiều bước. Cần có một màn hình riêng để giới thiệu mẫu đơn đặt hàng hoặc phiếu mua hàng nhằm giúp người tiêu dùng  tìm những mặt hàng mà họ muốn mua. Khách hàng sẽ điền tên những mặt hàng muốn mua và phiếu mua  hàng rồi ấn vào nút, phát đi để hoàn thành đơn đặt hàng. Nếu bạn không có trình tự mua hàng qua nhiều bước,   bạn có thể đưa ra lịch trao đổi ý kiến với khách hàng và giới thiệu với họ một cách đầy đủ về giá hàng, điều  khoản và điều kiện mua bán, phương thức giao dịch. Giúp người mua có thể mua nhanh khi họ mua một mặt hàng đã từng mua lần trước Khi mua một mặt hàng đã từng mua lần trước khách hàng muốn có một phương thức thuận tiện cho việc đó.  Một phương thức mua hàng nhanh chóng với thủ tục rõ ràng, đơn giản sẽ tạo cơ hội để nhận được những đơn   hàng khác trong tương lai. Giới thiêu những điều khoản và điều kiện thương mại rõ ràng Người bán phải giới thiệu đầy đủ về giá cả, đồng tiền để tính giá và thanh toán tiền hàng, chi phí vận tải, thuế,  chi phí hải quan, chi phí về môi giới hải quan, lịch giao hàng, đồng thời nêu ra chính sách đối ứng của bạn và tỷ  giá hối đoái của người bán (thí dụ giảm giá cho những đơn đặt hàng lớn...). Thông báo cho khách hàng tính an toàn của hệ thống giao dịch của bạn Nói rõ ai là người bảo đảm sự an toàn đó và họ làm việc như thế nào. Xây dựng chính sách bảo vệ bí mật trên mạng của bạn. Khuyến khích các công ty chuẩn hoá chính sách của  họ theo tiêu chuẩn bảo vệ bí mật của khách hàng do Hiệp hội tiêu chuẩn quốc tế của Canada đề ra. Bạn có  thể có một bản sao về tiêu chuẩn này từ dịa chỉ http:/www. c.s.a.international.org. Xin cấp chứng chỉ cho địa chỉ website của bạn. Một biện pháp làm yên lòng khách hàng là yêu cầu một người thứ ba có danh tiếng chứng thực công việc kinh  doanh của bạn. Hiện nay, trên thế giới đã có một  số chương trình Internet làm dịch vụ này, chúng ra đời từ  những đơn vị chỉ làm một việc đơn giản là kiểm tra sự tồn tại của doanh nghiệp ở địa phương mà bạn yêu cầu   nhằm phục vụ các chương trình nghe nhìn tổng hợp. Để có được những thông tin cụ thể hơn về việc này, bạn  hãy đến cơ quan phục vụ khách hàng tin học của Canada theo địa chỉ http://strategis.ic.gc.ca/oca. Trả lời những khiếu nại của khách hàng Điều này có nghĩa là tạo lập một trình tự đơn giản và hữu hiệu để giải quyết những khiếu nại băn khoăn và yêu   cầu của khách hàng. Một số công ty đang thực hiện dịch vụ giải quyết tranh chấp với tư cách là người thứ ba   và làm việc như người trung gian hoặc trọng tài. 54. Làm thế nào để khách hàng có thể yên tâm mua hàng trên mạng? Làm thế nào để biết bạn đang quan hệ với một thương gia có danh tiếng? Bạn có đủ thông tin về sản phẩm để  quyết định mua nó hay không, đặc biệt là khi bạn không thể tiếp cận sản phẩm hoặc không có mẫu sản phẩm?   Làm thế nào để có thể mua hàng trên mạng và làm thế nào khi mua phải hàng xấu? Làm thế nào để biết chắc  rằng những thông tin về cá nhân và về tài chính của bạn đã được chuyền đi một cách chính xác và sẽ được giữ  kín. Sau đây là một số phương thức đáng tin cậy để giúp khách hàng trên mạng: Mua hàng trên mạng Hãy nghĩ đến vấn đề an toàn khi bắt đầu liên hệ với đối tác. Hãy nhớ rằng thông tin truyền đi qua Internet có  thể bị ngăn chặn. Nếu thông tin đó có cả ký hiệu thẻ tín dụng của bạn chẳng hạn thì cần có những biện pháp   để bảo vệ những chi tiết của thẻ tín dụng. Một phương pháp phổ biến mà các thương gia trên mạng có thể cung  cấp những mức độ an toàn có thể chấp nhận cho khách hàng của họ là sử dụng một thiết bị làm chức năng bảo  vệ an toàn. Dịch vụ này sử dụng một văn bản đặc biệt đã được cải biên (HTTP) để bảo đảm rằng thông tin giữa   khách hàng và đối tác của họ đã được mã hoá bằng một hệ thống mật mã chặt chẽ. Hầu hết những người đọc internet thông thường có thể tham gia việc giao hẹn mật mã do đó mà giữ được bí   mật thông tin. Tuy nhiên, bạn vẫn có thể còn lo lắng về việc tiếp tục gởi thông tin qua Internet. Mặc dầu việc  trao đổi thông tin được thực hiện cùng với việc sử dụng những dữ liệu chứa ở bộ phận an toàn sau khi đã trao  đổi (thí dụ ký hiệu thẻ tín dụng của bạn) không được mã hoá và có thể được tiếp tục chuyển đi mà bạn không  biết, khi mở máy có thể bị ai đó đánh cắp vì họ đã thâm nhập được vào chiếc máy tính làm chức năng bảo vệ  an toàn. Cuối cùng cần nói rằng, điều bảo đảm an toàn duy nhất và sử dụng thông tin mật mã và quan hệ với  một công ty có danh tiếng bởi vì công ty đó sẽ tôn trọng bí mật của bạn và yêu cầu của bạn về việc bảo vệ bí  mật đó khi họ đã biết nó. Làm thế nào để biết được thương gia mà ban đang quan hệ Để có được thông tin đó, bạn hãy tìm những website được thiết kế riêng để giới thiệu tên của công ty và hiện rõ  cùng với những thông tin cần thiết cho việc liên hệ. Bạn cũng có thể quay điện thoại để xác minh hoặc có thể  kiểm tra vị thế của một công ty qua các tổ chức như Better Business Bureau (http:/wwwbos.bbb.org) và các tổ  chức đại lý khách hàng. Tìm hiểu thông tin cụ thể về sản phẩm Để có những thông tin này, bạn hãy tìm những website giới thiệu những thông tin cụ thể về sản phẩm và dịch  vụ của các công ty bằng cách thức dễ nhìn và ngôn ngữ dễ hiểu. Đọc các điều khoản, điều kiện giao dịch và lưu giữ chúng Những điều này bao gồm giá hàng đầy đủ, điều kiện giao hàng, chính sách đối ứng, bảo hành và phương thức  giao dịch. Nếu cần thiết, bạn hãy hỏi giá vận chuyển do đó mà biết trước những khoản tiền mà bạn sẽ phải chi.  Trước khi đặt hàng, bạn cần biết chắc chắn chính sách đối ứng của công ty bán hàng. Kiểm tra chứng chỉ chất lượng hoặc con dấu Các cơ quan cung cấp sự đánh giá và chứng chỉ trên mạng sẽ kiểm tra xem một doanh nghiệp nào đó có phải  là đóng tại địa chỉ mà họ công bố không và cung cấp kết quả kiểm toán cũng như các sự kiểm tra khác. Kiểm tra tính lành mạnh và rõ ràng về trình tự giải quyết khiếu nại của thương gia. Trong website của thương gia phải bao gồm một trình tự về việc giải quyết khiếu nại, Trong website của thương gia phải bao gồm một trình tự về việc giải quyết khiếu nại, thắc mắc và yêu cầu của  khách hàng. Một số địa chỉ Internet còn yêu cầu bạn phải mở tài khoản kèm theo một ký hiệu mật. Để bảo vệ mình, bạn hãy  nhớ đừng dùng ký hiệu mật mà bạn sử dụng cho những tài khoản hoặc những địa chỉ Internet khác. Những điều cần thận trọng đối với thẻ tín dụng. Trước khi mua hàng trên Internet, bạn cần biết chắc rằng bạn sẽ cảm thấy thuận tiện trong quá trình mua hàng   của thương gia đó và biết rõ phương pháp huỷ bỏ một đơn đặt hàng. Hầu hết các website đều cho phép bạn  hoàn thành đơn đặt hàng theo mẫu có sẵn hoặc điền tên hàng mà bạn định mua vào phiếu đặt hàng. Chỉ sau  khi bạn đã hoàn thành và xác nhận đơn đặt hàng, phương thức giao dịch, bạn mới kết thúc việc đặt hàng bằng  cách bấm nút phát thư. Sau khi biết chắc rằng giá cả đầy đủ, điều khoản và điều kiện cùng phương thức giao  dịch đã được thể hiện rõ, bạn hãy in những nội dung đó và lưu lại một bản. Trước khi phát ký hiệu thẻ tín dụng của bạn lên Internet, bạn phải biết chắc chắn rằng mạng máy tính ấy có hệ   thống giao dịch an toàn để bảo vệ những thông tin về tài chính của bạn và thương gia đó có hệ tốung an toàn   tại chỗ. Những thương gia có hệ thống bảo vệ an toàn sẽ quảng cáo về việc họ có hệ thống đó. Trước khi phát ký hiệu thẻ tín dụng của bạn lên mạng, bạn hãy tìm tài liệu chứng minh rằng công ty mà bạn liên  hệ đang hoạt động trong điều kiện máy tính của họ có chức năng bảo vệ an toàn. Nếu bạn không biết chắc về  sự an toàn khi liên hệ với một công ty nào đó thì bạn đừng truyền đi những thông tin về thẻ tín dụng của mình.   Bạn cần biết rằng chiếc máy có chức năng bảo vệ an toàn không phải là nơi duy nhất mà từ đó dữ liệu của bạn   có thể bị đánh cắp. Thông tin về cá nhân Nếu ai hỏi bạn về những thông tin cá nhân, ký hiệu để nhận biết quốc tịch của bạn và những thông tin về tài  khoản cá nhân của bạn tại ngân hàng thì bạn hãy cẩn thận. Đó là những thông tin không thể tiết lộ được. Nhưng không phải tất cả mọi thông tin về cá nhân đều quan trọng ngang nhau. Những thông tin cá nhân mà  hầu hết mọi người không biết về bạn như ký hiệu để nhận biết quốc tịch của bạn hoặc tên của một người phụ   nữ trước khi lấy chồng có ý nghĩa lớn so với tên người và địa chỉ mà bạn có thể tìm thấy trong danh bạ điện  thoại. Ở nhiều nước, tên của một người phụ nữ trước khi lấy chồng được dùng để xác nhận tung tích người đó  và là một thông tin đặc biệt quan trọng. Kiểm tra chính sách của thương gia đó về việc bảo vệ thông tin cá nhân Những công ty có danh tiếng sẽ thông báo chính sách của họ về việc bảo vệ bí mật thông tin trên mạng nhằm  báo cho bạn biết họ đối xử với những thông tin mà bạn cung cấp khi mua hàng. Nếu bạn chưa biết chính sách  của họ về việc bảo vệ bí mật thông tin thì hãy liên hệ và hỏi để biết điều đó. Cần biết rằng nếu nhiều tổ chức khác biết tên công ty bạn thì bạn có thể nhận được nhiều thông tin và nhiều lời  chào mời hơn. Nói một cách khái quát, bạn cần nhớ rằng việc mua bán quốc tế tiềm ẩn những rủi ro nhất định. Cần kiểm tra  xem những sản phẩm bạn mua có phù hợp các tiêu chuẩn về y tế và an toàn do chính phủ quy định hay không.  Cần biết rằng bạn sẽ phải gánh chịu bao nhiêu chi phí về những rủi ro có thể xảy ra nếu việc mua bán trục trặc  do sự điều chỉnh phức tạp, tốn kém, do sự khác nhau về luật pháp, do phải kiểm tra mức độ bảo đảm của sản   phẩm nước ngoài và do đồng tiền tính giá. 55. Làm thế nào để bảo vệ mình khỏi bị lừa đảo khi sử dụng thương mại điện tử Lừa đảo trong Internet là một hiện tượng quốc tế. Trong hầu hết các trường hợp, những cẩn trọng cần có để  tránh bị lừa đảo trong thương mại điện tử cũng giống những cẩn trọng mà bạn cần thực hiện khi sử dụng các  phương thức giao dịch thương mại khác. Sự thận trọng trọng việc mua bán, đầu tư, việc xác minh sự thành thật  của đối tác, danh tiếng của nhà cung cấp và người mua hàng trả chậm trong quan hệ thương mại, kể cả khách  hàng của bạn nếu bạn gia hạn trả tiền cho họ đều là những điều quan trọng. Những thông tin nặc danh trong giao dịch trên mạng thường được sử dụng để che dấu một sự lừa đảo, nhưng  bạn có thể tự bảo vệ mình khỏi hầu hết sự lừa đảo đó bằng những biện pháp phòng ngừa thông thường sau  đây: ­ Kiểm tra ngân hàng đại lý và hồ sơ kinh danh trước khi đưa ra những cam kết quan trọng. ­ Thông qua ngân hàng để kiểm tra thẻ tín dụng và séc trước khi cung cấp sản phẩm và dịch vụ. ­ Các thương gia bán hàng và dịch vụ qua mạng phải đặc biệt cẩn thận đối với những rủi ro có thể xảy ra do  việc sử dụng thẻ tín dụng mang tính lừa đảo. Nhiều thương gia đã chi tiền cho dịch vụ kiểm tra thẻ tín dụng trên mạng. Dịch vụ này tạo ra đặc trưng giữa họ   với khách hàng nhưng không kiểm tra được đặc trưng của khách hàng, do đó họ vẫn tiếp tục có thể gặp rủi ro  do khách hàng sử dụng thẻ tín dụng ăn cắp hoặc thẻ tín dụng đã bị huỷ. Trước khi giao hàng, bạn phải kiểm tra việc giao dịch bằng thẻ tín dụng, nếu không sẽ bị thiệt hại ở mức nào đó  do việc sử dụng thẻ tín dụng một cách gian lận. Hãy kiểm tra chắc chắn để biết được những động thái mới nhất liên quan đến thương mại điện tử, Internet hoặc  marketing về thương mại điện tử qua những cơ quan sau đây: ­ National Fraud Information Center http:// www.fraud.org ­ US Department ơf Energy. Bộ này có một cơ quan thực hiện chức năng kiểm tra thông tin lừa đảo, những tấn   công ác ý của vi rút, những chiến dịch thông tin sai lệch và những chùm thư Internet. ­ Competition Bureau, Industy Canada http:// strategis.ic.gc.ca/competition ­ Ontario Provincial Police PhoneBuster http:// www.phonebusters.com ­ RCMP Latest Scams http:// wwwremp.grc.gc.ca/html/sams.htm ­ Better Business Bureau http://www.bosbbb.org/warning/index.htm ­ Federal Trade commission http://www.fte.gov/bep/menu­internet ­ htm. 56. Làm thế nào để củng cố sự tín nhiệm đối với một nhà cung cấp hàng hoá qua mạng Biểu hiện tổng quát về sự tín nhiệm của khách hàng đối với một nhà cung cấp, là lòng tin của khách hàng về  việc nhà cung cấp sẽ giao hàng theo chất lượng đã quy định và trong thời hạn mong muôn. Để bán được lô  hàng đầu tiên, bạn phải đặc biệt lưu ý đến những vấn đề sau đây. ­ Phải thành thạo trong việc sử dụng những bài viết và biểu đồ của bạn. ­ Nội dung bài viết của bạn phải dễ hiểu và có thể dùng hai thứ tiếng để khách hàng chọn. ­ Thông qua việc sử dụng bài viết và hình ảnh để thông báo cho khách hàng về những đánh giá của khách mà   bạn đã nhận được đối với sản phẩm và dịch vụ của bạn. ­ Cung cấp những thông tin về công ty của ban (doanh số, quá trình kinh doanh, vốn) và những nhận xét của  khách hàng đã quan hệ với bạn. ­ Cung cấp những tài liệu về công ty bạn, thí dụ bạn là thành viên của một hiệp hội doanh nghiệp hoặc một   hiệp hội chuyên ngành nào đó (đặc biệt là những hiệp hội mang tính quốc tế) và những chi tiết về mối liên hệ   của công ty bạn với các tổ chức đó. ­ Nếu chào bán những hàng tiêu dùng có thể đặt hàng ngay, bạn hãy hỏi người mua tương lai những thông tin   về phương thức trả tiền thích hợp, kể cả địa chỉ gửi thư điện tử. ­ Tạo cơ hội để người mua xác nhận đơn đặt hàng. ­ Cung cấp địa chỉ, số điện thoại, số fax và tạo điều kiện để đối tác có thể gửi thư điện tử cho bạn. ­ Thông báo chính sách của bạn về việc bảo vệ bí mật thông tin mà khách hàng sẽ có thể cung cấp. Hỏi khách  hàng những thông tin cần thiết (như cách thức liên hệ, sở thích của họ, hiểu biết của họ về sản phẩm của bạn  hoặc sản phẩm cạnh tranh) những gợi ý về sản phẩm. Nếu bạn không đưa ra được một số nhân tố hấp dẫn  như giá rẻ, chiết khấu hoặc một sản phẩm có giá trị sẽ được chuyển qua mạng thì bạn đừng mong nhận được  trả lời. ­ Cung cấp một dịch vụ xác minh (thí dụ qua địa chỉ www.iescrow.com để khách hàng có thể có những thông  tin bổ sung về điểm này) khiến cho khách hàng trước khi chuyển tiền, tin chắc là việc mua bán sẽ được thực  hiện một cách hoàn hảo. ­ Phải thừa nhận rằng, trước khi mua hàng, khách có thể liên hệ với bạn nhiều lần qua mạng. Một phản ứng  nóng vội sẽ làm cho khách hàng không tin tưởng. Sự tôn kính đối với khách hàng, khách đến thăm và việc trả   lời những câu hỏi hiện lên trên màn hình sẽ rất tốt cho bạn vì đó là những tin tức hàng ngày cần thiết cho hoạt  động và việc bán hàng của công ty. Việc sử dụng website của bạn phải phù hợp với pháp luật. Tuy nhiên, sự tin tưởng của khách hàng đối với bạn  còn phụ thuộc vào việc bạn đối xử tốt với những người liên hệ với bạn qua mạng. Bạn hãy nhanh chóng trả lời  bất kỳ câu hỏi nào. Việc kiểm tra thẻ tín dụng có thể tự động thực hiện thông qua việc sử dụng hệ thống giao  dịch điện tử an toàn (Secure Electronic Transaction) dành cho giao dịch thẻ tín dụng, do đó sự xác nhận về  việc đã nhận được đơn đặt hàng và chấp nhận đơn đặt hàng đó có thể phát đi bằng thư điện tử trong mấy phút.  Sự xác nhận này là lời tóm tắt về tất cả những chi tiết thích hợp của vụ mua bán như: tên sản phẩm và phương  thức trả tiền. 57. Một bản tuyên bố về việc tôn trọng bí mật trên mạng được hình thành như thế nào? Mọi người cần biết rằng tất cả các xí nghiệp vừa và nhỏ, các cơ quan của chính phủ và các tổ chức nhà nước  đều phải có tuyên bố về việc tôn trọng bí mật trên mạng. Khách hàng có thể dễ dàng tìm thấy tuyên bố đó (tức   là tuyên bố đó phải được thể hiện trên trang web đầu tiên). Sau đây là ví dụ về tuyên bố tôn trọng bí mật trên   mạng do công ty máy tính Compaq đưa ra. Tuyên bố của công ty Compaq về bí mật trên mạng. Compaq cho rằng việc sử dụng một cách có trách nhiệm những thông tin cá nhân là một yếu tố quan trọng để  Internet có thể trở thành một công cụ nghiêm túc đầy tiềm năng cho những hoạt động cá nhân và hoạt động  nghề nghiệp. Vì Internet đang làm thay đổi cuộc sống của chúng ta về nhiều mặt, Compaq cam kết tôn trọng bí  mật của các vị. Nói chung, bạn có thể đến thăm www.compaq.com mà không cần cho chúng tôi biết bạn là ai hoặc không cần  đưa ra bất kỳ thông tin nào về cá nhân của bạn. Tuy nhiên, có những lúc, khi chúng tôi cần những thông tin từ bạn, như tên bạn, số nhà, hoặc địa chỉ kinh   doanh và địa chỉ để gửi thư điện tử cho bạn; Compaq sẽ tìm cách báo để bạn biết trước khi chúng tôi có được  những thông tin về bạn qua Internet. Một số ví dụ về việc chúng tôi cần có những thông tin từ bạn và nếu bạn  chọn mua một sản phẩm nào đó một cách trực tiếp từ website của Compaq, bạn hãy ký vào bản yêu cầu phục   vụ Info Messenger và khi bạn đăng ký để mua một sản phẩm mới cũng vậy. Khi bạn quyết định cung cấp cho   chúng tôi những thông tin về cá nhân bạn qua Internet mà chúng tôi hoặc các đối tác của chúng tôi yêu cầu,  Compaq sẽ cố gắng để bạn biết chúng tôi sẽ sử dụng thông tin đó như thế nào. Compaq sẽ tìm cách áp dụng  những biện pháp thích hợp để bảo vệ những thông tin mà bạn chia sẻ với chúng tôi, kể cả việc áp dụng những  công nghệ thích hợp để bảo vệ dữ liệu thẻ tín dụng trong giao dịch thương mại điện tử. Khi Compaq nhận dược thông tin về tổ chức của bạn hoặc về bạn, chúng tôi sẽ dùng nó để nghiên cứu hoặc   cải tiến công việc của chúng tôi và dịch vụ mà chúng tôi cung cấp cho bạn. Chúng tôi sẽ hỏi xem bạn có muốn  để chúng tôi sử dụng thông tin đó để Compaq và các đối tác của nó tiếp tục liên hệ với bạn bằng thư điện tử  hoặc bằng các phương tiện khác hay không? Thí dụ chúng tôi sẽ gởi cho bạn những thông tin về các sản phẩm   mới hoặc gửi cho bạn những bản chào hàng đặc biệt. Nếu bạn không muốn để chúng tôi hoặc đối tác của  chúng tôi liên hệ với bạn, bạn có thể bảo là hãy thôi và Compaq sẽ tôn trọng ý muốn của bạn. Nói chung, trên mạng www.compaq.com, những địa chỉ IP (địa chỉ Internet của một máy tính) đã lắp một cơ  cấu để truy tìm người sử dụng mạng mặc dù người đó dấu tên. Chúng tôi phân tích dữ liệu này để nghiên cứu xu hướng phát triển và phục vụ công tác thống kê. Thí dụ những  bộ phận nào trên website của chúng tôi đang có người thăm hỏi và đã thăm hỏi bao lâu. Nói chung, chúng tôi   không kết nối địa chỉ Internet với bất cứ cái gì thuộc về cá nhân bạn, trừ trường hợp vì mục đích cung cấp dịch   vụ cho cá nhân (thí dụ như chủ động trả lời bạn một vấn đề gì đó) nhằm sử dụng dữ liệu để cải tiến dịch vụ.  Trong những trường hợp hãn hữu như vậy, khi có những ý kiến không đồng nhất, Compaq sẽ đưa ra một thông  báo thực tế và một cơ hội để chấm dứt liên hệ. Một số website của Compaq sử dụng những bộ nhớ. Đó là những ngăn nhỏ đặt trên đĩa cứng của bạn để làm  chức năng lưu trữ. Một bộ nhớ giúp chúng tôi nhớ được bạn là ai. Điều đó cũng giống như một người nào đó  thường xuyên đến một của hàng nhất định, nhân viên cửa hàng có thể không biết tên người đó nhưng nhận ra   ông ta và biết một vài điều về người ấy. Tương tự như vậy, bộ nhớ có thể làm cho những cuộc viếng thăm  thường xuyên của bạn trên trang web trở nên đơn giản và bình dị hơn. Bạn có thể báo cho người đọc thông tin  hãy cho bạn biết khi họ nhận được tín hiệu của bộ nhớ để bạn có cơ hội quyết định có tiếp nhận hay không  (Tuy nhiên, khi bạn không tiếp nhận bộ nhớ, một số trang web có thể không rõ hoặc bạn có thể không tiếp cận   được một số thông tin). Trong những khu vực website của Compaq mà trẻ em có thể đặc biệt thích thú, chúng tôi sẽ hết cố gắng để   không thu thập những thông tin cá nhân của những người từ 17 tuổi trở xuống. Compaq khuyến khích các bậc  cha mẹ giữ vai trò tích cực trong việc trẻ em sử dụng Internet và dành thì giờ ngồi với con cái trước máy. Trẻ  em có thể sẽ hỏi các bậc cha mẹ để đưa ra những câu hỏi với danh nghĩa của chúng. Nếu bạn có điều gì cần hỏi hoặc yêu cầu gì về việc bảo vệ bí mật thông tin của khách hàng ở công ty chúng   tôi, hoặc muốn ngừng việc tiếp nhận thông tin từ Compaq, muốn đính chính hoặc muốn cập nhật thông tin do  Compaq cung cấp, bạn hãy liên hệ với chúng tôi bằng cách bấm vào nút yêu cầu ở phần trên của mỗi trang  theo địa chỉ www.compaq.com hoặc bằng cách gửi thư điện tử đến địa chỉ [email protected] Cơmpaq cũng là một người sáng lập Liên minh bảo vệ bí mật trên mạng, một tổ chức của những công ty và  hiệp hội toàn cầu được thành lập để bảo trợ một môi trường tin cậy và bảo vệ bí mật thông tin trên mạng. Bạn  có thể biết thêm thông tin về tổ chức này bằng cách liên hệ với địa chỉ www.privacy alliance.org Công ty máy tính Compaq. (Tuyên bố trên đây có thể in lại nhưng cần xin phép) 58. Làm thế nào để xây dựng một hệ thống trả tiền an toàn bằng thẻ tín dụng trên mạng Khi thiết kế một website để thực hiện những giao dịch trả tiền, bạn hãy làm thế nào để nắm chắc rằng website  đó là an toàn. Điều này sẽ liên quan đến việc sử dụng trình tự trả tiền bằng thẻ của giao dịch điện tử an toàn.  Phương thức này tiến bộ hơn phương thức sử dụng thẻ Visa và MasterCard. Nó tạo sự tin cậy trong việc trả tiền  và việc đặt hàng, bảo đảm sự toàn vẹn của dữ liệu được truyền đi. Nó xác nhận những đặc trưng của người  nắm giữ thẻ và thương gia, đồng thời cho phép điều chỉnh giao dịch nếu cần thiết. Trình tự này được thực hiện  bởi công ty “Secure Electronic Transaction” và những thông tin về việc sử dụng nó được cung cấp tại các địa   chỉ http://www.setco.org, http://www master­card.com/shoponline/set/ và www.via.com. Bạn sẽ cần dịch vụ xác minh và dịch vụ mật mã. Dịch vụ xác minh nhằm chứng nhận đặc trưng hoặc chứng  minh sự toàn vẹn của thông tin và, trong những ngành công cộng quan trọng, nó đòi hỏi chữ ký số. Các ký hiệu mật mã chuyển nội dung thông tin thành một hình thức khó hiểu đối với mọi người, trừ người nắm   được chìa khoá giải mã đặc biệt. Nó bảo vệ thông tin khỏi sự phát hiện của người không có phận sự trong quá   trình từ lúc mã hoá đến lúc giải mã. Nhà cung cấp hàng đầu về dịch vụ này, đồng thời cũng là công ty phát triển phần mềm là công ty RSA Data  Security Inc, www.rsasecurity.com. Nó cung cấp dịch vụ xác minh và dịch vụ mật mã cùng với hệ thông an  toàn đục lỗ. Những băng đục lỗ này là những điểm cuối cùng trong hệ thống kết nối để truyền dữ liệu, được nối   với các yếu tố của chương trình giữa cơ cấu phần mềm với Internet. Một trong những công ty phần mềm là  công ty Pretty Good Privacy (PGP). Bạn có thể tự do liên hệ với công ty này theo địa chỉ www.pgp.com. Một số công ty khác cung cấp dịch vụ an toàn về thẻ tín dụng là: ­ Advantage Merchant Services.com. ­ Alliance Data.com ­ Cardservice.com ­ Charge.com ­ Creditcard and checks.com. ­ CyberCash.com ­ Cybersource.com/solutions ­ Ifsab.com ­ Itransact.com ­ Verisign.com Một phương thức khác để bảo đảm an toàn cho dịch vụ trả tiền bằng thẻ là dịch vụ uỷ nhiệm thu tiền, theo đó  tiền hàng được giao cho một người thứ ba cho đến khi các điều kiện thương mại được thoả mãn. Do không cần tài khoản của thương nhân, người mua sẽ không trả tiền nếu chưa nhận được sản phẩm và điều  đó khiến cho người mua yên tâm về tính hợp pháp của giao dịch. Chi phí về việc sử dụng dịch vụ này có thể  cộng thêm vào giá sản phẩm. Theo trình tự của i_Escrow, một trong những nhà cung cấp dịch vụ này, người mua trả tiền cho i_Escrow bằng   thẻ tín dụng, xéc cá nhân, xéc doanh nghiệp, lệnh trả tiền, xéc tiền mặt hoặc chuyển tiền bằng điện báo.  I_Escrow yêu cầu người bán gửi hàng cho người mua. Người mua thông báo cho I­Escrow trả tiền cho người  bán. Sự phát triển của thị trường phần mềm về an toàn Internet chứng tỏ sự cần thiết của việc tạo lập lòng tin rằng   phương thức trả tiền bằng thẻ tín dụng là an toàn. Một tài liệu nghiên cứu của công ty International Data chứng  minh rằng thị trường này sẽ từ mức 2 tỷ USD trong năm 1997, tăng lên tới hơn 7,4 tỷ USD vào năm 2002 và có  triển vọng lên tới 50 tỷ USD vào năm 2005. 59. Làm thế nào để tạo lập những cơ cấu bảo vệ sự hoàn chỉnh của hệ thống, chống lại virút và sự thâm nhập của người khác Internet là một hệ thống thường xuyên thay đổi. Những nhược điểm của nó có thể xuất hiện và những dịch vụ,  những giải pháp mới khả dĩ khắc phục được những khó khăn có thể nẩy sinh sẽ ra đời. Mặc dầu hệ thống an   toàn đã có những tiến bộ, nhưng những người sử dụng mạng vào mục đích lừa đảo, kể cả những kẻ quấy rối,  vẫn thường xâm nhập và gây nhiễu hoạt động của mạng. Do đó, việc bảo vệ những thông tin trên mạng và  những dữ liệu truyền đi bằng một hệ thống an toàn, linh hoạt sẽ có thể thích ứng với sự thay đổi của tình hình.  Hãy làm cho những kẻ lừa đảo phải thoái chí đến mức nhận ra rằng chúng đã phí thời gian và sức lực để lừa ta.  Hiệp hội quốc tế về an toàn máy tính (International Computer Security Association, www.icsa.net) là một tổ  chức chuyên môn về lĩnh vực an toàn luôn luôn thay đổi này. Bên cạnh những hoạt động khác, tổ chức này đã  thành lập vào năm 2000 Liên minh an toàn máy tính nhằm tập hợp những người bán sản phẩm an toàn máy  tính để giúp các tổ chức trong việc tìm hiểu và giải quyết những vấn đề tiềm ẩn về an toàn máy tính. Có ba cách để phòng ngừa và giải quyết những vấn đề về an toàn máy tính: những cơ cấu bảo vệ kiểm tra như  tên gọi và mật khẩu nối máy, chữ in, thẻ thông minh, dụng cụ đo lường đều có thể được sử đụng để tiếp cận   những dữ liệu nhạy cảm hoặc thiết bị an toàn. Cơ cấu bảo vệ và bộ lọc đường truyền. Cơ cấu bảo vệ là một bộ phận đặt ở giữa máy chủ và mạng để phong  toả những cuộc truyền không mong muốn nhưng chấp nhận những cuộc truyền khác. Mặc dầu bạn có thể tạo lập một cơ cấu bảo vệ cho máy chủ Internet của bạn nhưng điều đó sẽ tốn kém về thời  gian để tạo lập và xây dựng chương trình cho cơ cấu đó, duy trì nó và bổ sung hình ảnh theo yêu cầu. Hầu hết những người bán phần cứng của Internet như đường truyền và trục có thể cung cấp những phần cứng  của cơ cấu bảo vệ đặc trưng và những túi phần mềm để bạn có thế lắp vào mạng của bạn và nối với Internet.  Để giúp bạn lựa chọn, chúng tôi xin giới thiệu hệ thống Linus là một hệ thống giá rẻ, lắp ráp với một máy tính 
DMCA.com Protection Status Copyright by webtailieu.net